Ông Năm
Dạo
sau này, ông thực sự không hiểu bà nữa... Hình như với tình yêu
rất đằm thắm ông dành cho bà suốt gần ba mươi năm qua cũng không
đủ để làm bà hạnh phúc... Ông khổ tâm không ít. Nhiều hôm, ngồi
một mình ngoài sân sau, đắm chìm trong dòng suy tưởng, cố tìm ra
nguyên nhân sao bà lại không vui... Có phải tại ông vụng về quá
chăng? Phải chăng bà vẫn không hiểu được tình yêu ông dành cho
bà thiệt là rộng lớn tới chừng nào? Hay tại khoảng thời gian
mười hai năm xa cách quá dài, nên có lẽ tình yêu bà dành cho ông
đã nhạt phai?
Năm 1983, bà dứt ruột, quẹt nước mắt tiễn ông đi vượt biên.
Thực tâm ông lúc đó, ông chẳng muốn xa bà chút nào, ông sợ
chuyến đi không trót lọt, nên cứ chần chừ, nghẹn ngào, nửa muốn
đi, đi vì nghĩ đến tương lai gia đình, nửa muốn ở lại vì nghe
thiên hạ bàn về những chuyện vượt biên với hy vọng sống thật quá
mong manh. Hên là chuyến đó trót lọt, ông được đưa vào trại tị
nạn bên Hồng Kông. Nhưng vì ông không có thân nhân nước ngoài,
nên chỉ tùy thuộc hoàn toàn vào sự bảo lãnh của các quốc gia có
lòng hảo tâm mà thôi.
Khoảng thời gian trong trại thực là khổ,
ông cứ sợ họ đuổi ông về nước. Trong khoảng thời gian đó ông
thường liên lạc với bà qua thư từ, biết được tin tức bên nhà. Thời gian đó, bà cũng rất khổ sở, ráng buôn tần, bán tảo để nuôi
hai đứa con. Ông nghe mà lòng đau như cắt, chỉ mong chóng được
định cư ở một quốc gia nào đó để có thể đi làm, gửi tiền về cho
bà...
Năm năm sau, cuối cùng rồi ông cũng được định cư tại Mỹ. Lúc đó,
tuổi đời đã lỡ cỡ gần năm mươi, đầu óc rị mụ, đi học để
giựt được
một mảnh bằng đại học không phải dễ. Ông nhanh chóng quyết định
đi học nghề thợ tiện, trong khoảng thời gian sáu tháng đầu, lúc
chính phủ còn có thể cưu mang ông. Sau khi học xong cái nghề
thợ tiện, ông được trường giới thiệu cho một việc làm với đồng
lương trung bình, nhưng như vậy cũng làm ông sung sướng hạnh
phúc lắm rồi.
Tiền ông kiếm được, ông chẳng dám ăn tiêu chi,
ngoài tiền chi phí bắt buộc cho một đời sống tối thiểu, phần còn
lại ông đều gửi hết về cho bà... Đồng thời, ông cũng nộp đơn xin
đoàn tụ gia đình cho vợ con ông...
Phải đợi bảy năm sau, giấy tờ đoàn tụ mới xong. Những tháng cuối
cùng trước khi được gặp bà, tâm hồn ông xôn xao, hứng khởi không
yên. Nhưng dường như có gì không ổn bên phía bà... Bà có vẻ thờ
ơ, và có ý muốn giãn ra. Bà biểu: "Giờ ông và tui cũng đã già,
các con đã lớn và đều lập gia đình hết rồi, mỗi đứa đều có phận
riêng của chúng. Tui chẳng mong chi hơn là ông cứ gửi tiền về
hàng tháng cho tui sống, bên này, đời sống tui bây giờ đã ổn
định rồi, ngày tối, tụng kinh, niệm Phật đi chùa cầu vãng sanh
thôi, chẳng mong chi hơn!" Nghe qua, ông không thấy điều đó có
lý: "Bà ăn nói chi kỳ cục, chồng vợ thì phải sống với nhau cho
hết kiếp chứ sao khi không mỗi người một nơi sao đặng?" Ông cảm
thấy phiền hà và ngờ rằng bà không còn yêu ông nữa.... Gặng hỏi,
thì bà bảo bà chẳng muốn xa chùa, xa thày và các bạn đạo, qua
bển, chùa chiền đâu cho bà đi? Ông dứt khoát; "Bên này chùa
thiếu gì, bà qua đây muốn đi đủ trăm chùa cũng có." "Vậy thì
ông hứa rồi nghen, không được cấm cản tôi đi chùa đó!" "Chời,
bà có điên không? Bà đi chùa chứ có phải đi chơi đâu mà tôi cấm
cản. Chừng bà qua đây rồi, tôi chỉ sợ bà ham vui, quên mất chùa
chiền đó!". "Ông hứa là phải giữ lời nghen. Tôi qua bển đi chùa
ông đừng kêu à..." "Được. Tôi biết mà!"
Sau mười hai năm xa cách, ông thật sự hạnh phúc khi nếm được
hương vị đoàn tụ. Nhưng cái hạnh phúc đó thật mỏng manh hơn bọt
nước, chỉ một tuần lễ sau là ông đã cảm thấy bóng dáng của khổ
đau xuất hiện... Bà hình như đã thay đổi, bà không còn là "người
vợ" của mười hai năm về trước, một người vợ đằm thắm, thương yêu
và chăm lo cho chồng, mà sao bà như một người xa lạ. Hình như
cái xác thì vẫn còn, nhưng tâm hồn là của một đứa nào đó nhập
vào.... Bà thờ ơ mọi chuyện đời, tối ngày chỉ chăm chú vào vụ
ngồi thiền mà thôi. Bà rất ham mê thiền định, bà bỏ hẳn ăn mặn,
chuyển qua chay trường từ hồi nào ông không biết, bà biểu với
ông: "Giờ thì tui ăn chay trường, ông có muốn ăn chay theo tui
thì ông ăn, còn không, ông tự lo cơm cho ông nghen, tui không có
dính dáng vô ba cái đồ mặn
đó đâu!" Ông tưng hửng, tuy ấm ức, nhưng cũng nín thinh.....
Còn cái "chuyện đó" thì bà cấm hẳn, cứ mỗi lần ông léng phéng
tới gần bà là bà hét lên be be, ngoài cái việc "không cho" ông,
bà còn tỏ ra rất khinh bỉ khi ông tỏ ý muốn được gần bà. Bà bảo
với ông rằng, những chuyện nhơ nhớp đó bà không còn bao giờ muốn
nghĩ tới nữa... Sau đó, bà đùng đùng dọn qua phòng khác, cái
phòng thờ của bà ngồi thiền định mỗi ngày...
Dần dần, ông bắt đầu cảm thấy ấm ức... Ông không hiểu có vợ để
làm chi nữa... Ở tuổi ông, tuy đã gọi là lớn tuổi, nhưng vấn đề
sinh lý không phải là không cần. Đó là nói trên vấn đề thể chất,
còn vấn đề tinh thần nữa, ông cũng cần yêu và được thương yêu.
Mà dạo sau này ông không tìm thấy được điều đó nơi bà. Nhưng vì
còn thương bà, ông ráng nhịn, hy vọng một ngày nào đó, bà hồi
tâm tỉnh trí, cảm nhận được tình yêu và sự hy sinh ông dành cho
bà chăng? Nhưng càng ngày, bà càng tỏ ra thiếu kiên nhẫn và gắt
gỏng, ngay cả những lúc ông cố làm hài lòng bà bằng cách đi thật
khẽ trong những buổi công phu thiền định của bà cũng làm cho bà
điên lên khi nghe tiếng kẹt cửa... Ông thật khổ tâm hết sức,
nhiều đêm, ngồi một mình ngoài hiên vắng, ngẫm nghĩ sự đời,
chẳng biết kiếp trước tạo duyên gì mà ông lại đau khổ tới vầy?
Cả đời hy sinh cho bà, chẳng dám tơ hào đến một người đàn bà nào
khác, ấy vậy mà bà chẳng biết lòng ông...
Một đôi lần ông hỏi bà: "Bà tu chi mà tu quá mạng vậy? Không còn
biết tới chồng, tới con nữa?" Bà trả lời ông toàn là những điều
thật xa vời, không dính dáng gì tới thực tế. Nào là "Tui tu để
trưởng dưỡng tâm bồ đề, để cứu độ cho chúng sanh thoát khổ, được
yên vui". Ông hỏi ngây ngô hỏi. "Tâm bồ đề là tâm chi đó bà?"
"Thì đó là cái tâm chuyên lo cho chúng sanh được an vui đó mà!"
"Vậy thì tui đây, cái
"chúng sanh"
gần nhất với bà sao bà hông chịu độ tui đi. không làm cho tui an
vui đi, sao cứ lo chuyện bao đồng đâu đâu hông vậy?" Bà nghe ông
nói vậy thì nổi giận đùng đùng: "Ông hả? Ông là
"con quỷ râu xanh"
chỉ chuyên tâm phá sự tu tập của tui thôi, độ làm sao nổi?" Nói
rồi, bà đùng đùng bỏ đi. Rất tiếc, bà đã bỏ ra ngoài, chứ bà còn
muốn cãi lý với ông thì ông sẽ hỏi thêm một câu rằng: "Bà mới
thiệt là người không biết điều và như đui, như điếc, bà biểu tui
phá bà thì ai là người chăm lo, nuôi nấng bà ở nhà có dư thời
giờ cho bà ngồi thiền định chi đó cho ma nó nhập vào bà không
biết?"
Nhưng lần nào cũng vậy, ông không bao giờ có thể nói hết được
những điều ấm ức trong lòng. Lần nào sắp gây sự lớn thì bà đều
bỏ ra ngoài...
Lòng ông thật buồn phiền hết sức...!
Bà Năm
Từ
ngày vét hết số vàng còn lại lo cho ông đi vượt biên. Bà buồn
thương nhớ ông hết sức. Nhưng vì đời sống chật vật, bà phải còn
lo cho hai đứa con, nên ráng buôn bán tần tảo, bận công, bận
việc, niềm thương nhớ cũng nguôi ngoai. Chỉ có khi đêm về, nằm
một mình với cơ thể mỏi nhừ vì một ngày lao động mệt nhọc, bà
mới nhớ tới ông. Nước mắt ướt đầm cả gối.
Ông đi khoảng sáu tháng thì được tin ông. Bà mừng không kể
siết... Làm như chồng vợ sắp được trùng phùng tới nơi... Bà lập
tức ra chợ mua nải chuối về tạ ơn Ông Địa, vái tới, vái lui, vái
trời, vái đất. Chắc ăn, bà vái luôn bốn phía, thiên thần, quỷ
vật v.v.. Bà cầu nguyện cho ông bên đó được bình an, cũng không
quên cầu nguyện cho bà có đủ nghị lực bươn trải một mình gồng
gánh nuôi được hai đứa nhỏ nên người. Cũng may, hai đứa con bà
lúc đó cũng đã lớn, 16, 17 tuổi rồi, biết giúp bà chút đỉnh sau
giờ học. Còn chút vốn, bà gom góp mua một cái gánh, ngày ngày
làm
xôi, chè đem ra chợ bán. Tối về thì mấy mẹ con xúm nhau lại
giã đậu, nấu
xôi. Công việc vất vả tới đêm mới xong. Sáng bà lật
đật thức thật sớm, đi thổi
xôi, nấu chè cho kịp đem ra chợ bán.
Đời sống vất vả được năm năm thì nghe tin ông được định cư tại
Mỹ. Bà vui mừng khôn siết, hy vọng ngày đoàn tụ không xa. Một
năm sau thì ông bắt đầu gửi tiền về, hai đứa nhỏ cũng đã lớn,
đứa con gái bà gả chồng sau đó một năm. Còn thằng con trai thì
nó đi lập nghiệp xa, ít khi về. Đời sống bà bỗng dưng nhàn hạ
với số tiền ông gửi về... Rảnh rang, bà đâm ra buồn, nhớ ông,
nhớ con... Nhiều đêm bà cảm thấy lẻ loi, cô độc muốn khóc...
Một vài người bạn thấy bà buồn bèn rủ bà đi chùa làm công quả
cho ngày bớt dài. Ban đầu bà còn ngần ngại, vì từ nào tới giờ,
bà có bước chân vô chùa chiền hay nhà thờ bao giờ? Ông bà tổ
tiên, chỉ để lại cho bà một cái đạo ông bà, ngày tết, ngày lễ
thì mua hoa hương về cúng vái, từ khi buôn bán, bà biết thêm vụ
cúng ông Địa mà thôi. Nhưng họ rủ miết, bà nghe xiêu lòng cũng
đi cho biết... Ban đầu còn bỡ ngỡ, nhưng dần dà, bà bỗng vui vì
cảm thấy cuộc đời mình ít nhất còn có ý nghĩa. Bà quen thêm với
một số người trên chùa, mỗi người, mỗi hoàn cảnh, nhưng không có
hoàn cảnh nào được may mắn như bà, tức là chẳng lo gì tới cơm
áo, hàng tháng có chồng gửi tiền về, ngày ngày lên chùa làm công
quả có bạn để chơi. Cuộc đời bà chẳng còn phải than phiền gì
nữa... Lâu dần, từ khu nhà bếp, bà mon men lên chánh điện nghe
thày thuyết pháp, lúc đó bà biết thế nào là nhân, quả. Trồng
nhân gì, thì gặt quả đó. Đơn giản có vậy thôi... Trồng dưa ra
dưa, trồng cà ra cà... Chẳng có lý nào trồng cà mà ra chanh
được. Rồi bà bắt đầu tham gia vào những giờ thiền định... Càng
ngày, bà càng thấy mình "cao quý" hơn những người chung quanh.
Bà nhìn họ bằng một cặp mắt có phần thương hại.
Thì không phải
sao, thày vẫn thường nói "chúng sanh" ngu si và ưa tham đắm, tự
làm khổ mình ở những điều tham đắm đó. Còn bà, một "hành giả" tu
tập tinh chuyên, bà đã từng cảm thấy thân tâm có chút phần an
lạc trong những giờ thiền định, bà cho rằng mình đã sắp chứng
đắc một điều gì và trong tâm nảy sinh là một niềm vui khấp
khởi...
Đời sống đang êm đềm
xuôi chảy thì có thư ông báo giấy tờ đoàn
tụ sắp xong. Ông hoan hỉ vẽ một tương lai đoàn tụ.
Nhưng, bây giờ tâm bà đã đổi khác. Nghe ông hoạch định chương
trình một cuộc sống lứa đôi (trong tuổi già), bà bỗng dấy lên
một tình cảm chán nản chi đâu. Đây là lần đầu tiên bà cảm thấy
ông rất tầm thường, và tỏ ý hơi khinh rẻ (trái hẳn với năm xưa,
tâm hồn bà dành trọn cho ông, luôn kính nể, và phục tùng ông như
một người sinh ra để làm vợ, để phục tùng chồng). Ngày nay, bà
thấy ông rất... đời, chỉ lo bon chen ba cái chuyện đời không đi
đến đâu, không như bà, lúc nào bà cũng cảm thấy mình thanh tao,
thoát tục, lúc nào trên môi bà cũng sẵn sàng phọt ra những giáo
điều được lập đi, lập lại như con vẹt: "Sắc tức thị Không. Không
tức thị Sắc" hoặc "Cuộc đời như bóng câu qua cửa sổ" "Mọi sự đều
vô thường" "Tu để cứu độ chúng sanh" "Bồ Đề Tâm" v.v... Bà đâu
có biết rằng bà đang rơi vào trong một cơn "thiền bệnh" trầm
kha. Nếu không có thày chỉ dẫn tức thời, đôi khi sẽ đem lại
những hậu quả không tốt và còn có thể đưa bà vào những cơn điên
loạn. Bà lại càng hồ đồ và không biết điều hơn khi đời sống bà
hoàn toàn tùy thuộc và nương tựa hẳn vào ông - một người bà
khinh thường và cho là rất đời, lúc nào cũng bon chen vào cuộc
sống vật chất - Một người mà bà cho là chẳng biết gì về đạo, về
tâm Bồ Đề muốn cứu độ chúng sanh. Nhưng chính bà, bà không hề
biết rằng mình đang sống cực kỳ ích kỷ, chỉ luôn nghĩ đến cái
lợi về phần mình mà không biết đến sự hy sinh của người chồng đã
từng đầu gối, tay ấp với bà. Bà luôn nói đến lòng bác ái, nhưng
đó chỉ là những lời sáo ngữ, đầu môi. Vì người ngay bên cạnh
mình, chồng bà, đã từng chia với bà những niềm vui, nỗi buồn,
những bữa đói, bữa no thì bà lại không biết đến, chỉ lơ mơ như
người đi trên mây, sống trong mơ mà thôi. Vì những "tà kiến" đó
mà bà đâm dùng dằng, không muốn đi. Bà chỉ muốn ở lại VN, kéo
dài những ngày sống hưởng thụ, tu tập để làm cho cái Ngã thêm
lớn mà cứ tưởng rằng, mình là những bậc "cao nhân", có một tâm
vị tha cầu giác ngộ kiên cố lắm...
Cuối cùng, sau tất cả những "điều kiện" bà đặt ra với ông về
việc đoàn tu, nào là phải tiếp tục cho bà đi chùa, nếu không có
phương tiện chuyên chở thì ông phải lo điều đó. Nào là bà đã
già, chỉ muốn dành toàn thời giờ cho việc tu tập, bà không muốn
phải đi làm lo cho vấn đề vật chất, nuôi thân (phần này, đương
nhiên ông phải lo cho bà rồi). Nào là tâm hồn bà đã thay đổi,
không còn "đời" như xưa, ông cũng phải nên nhẫn chịu “chuyện đó”
v.v... Tất cả những điều kiện chính vừa nêu, cộng thêm cả chục
điều kiện linh tinh khác, ông đều gật cả. Chỉ mong bà qua sớm để
tuổi già ông có bà hủ hỉ....
Thế mà qua đoàn tụ với ông. Niềm vui thật hiếm quý như cơn mưa
trong những ngày nắng hạn. Sống độc thân mười hai năm trường,
trở lại với đời sống gia đình bà thấy đầy những hệ lụỵ
Làm gì
cũng phải tùy thuộc vào người hôn phối, chưa kể những bất đồng ý
kiến trong cuộc sống lứa đôi. Nhiều lần bà tự hỏi, sao ngày
trước bà không nhìn thấy những sự bất đồng cực kỳ to lớn đó nhỉ?
Ngược lại là đằng khác, bà cảm thấy an vui, yên phận.
Bây giờ,
cái tâm thức đó không còn nữa, nó luôn luôn nổi dậy đòi "quyền
làm người" trong bà, do đó, bà đâm ra nóng nảy, và thiếu kiên
nhẫn với ông. Nhất cử, nhất động gì của ông cũng như là một
mồi
châm cho cơn thịnh nộ của bà bùng nổ. Bà nhận thấy rõ ràng, tâm
thức bà không còn được bình an như những năm tháng sống ở Việt
Nam nữa....
Một lần, trong giờ thiền định, bà nghe tiếng kẹt cửa rất khẽ, hé
mắt nhìn thì thấy ông đang cố gắng, co người khe khẽ đẩy cánh
cửa thật nhẹ để khỏi làm phiền bà. Nhìn cảnh đó, không những bà
không cảm thấy biết ơn, mà trái lại, lòng sân tự nhiên nổi lên
như một đám cháy lớn, bà chỉ nhìn thấy ở ông, một hình ảnh lấm
lét của một con quỷ râu xanh, già đầu mà không nên nết, đến phá
con đường tu tập của bà....
Trong tâm bà, manh nha một ý tưởng muốn ly dị Nhưng điều đó cũng
không ổn. Ly dị ông thì bà lấy gì mà sống?
Bà thật là khổ tâm không ít!
Chiêu Hoàng |