Cổ thành Quảng Trị
Nguyễn
Ngọc San vốn là cựu chiến binh đường Trường Sơn, bạn đồng ngũ với
nhà thơ quá cố Phạm Tiến Duật. Một lần, nhân dịp về Thái Bình đọc
thẩm định bản thảo của các văn nghệ sỹ 6 tỉnh phía bắc dự Trại
sáng tác Sông Hồng, Phạm Tiến Duật tình cờ gặp lại ông bạn lính
xế "xe không kính". Sau một hồi hàn huyên, lại được mấy vại
bia "ong" trợ giúp, nhà thơ Phạm Tiến Duật thân tình bảo Nguyễn Ngọc
San:
- Ông về làm đơn ngay đi, tôi là ủy viên Hội đồng thơ chẳng lẽ lại
không giới thiệu được ông vào Hội Nhà văn.
Thật tình thì Nguyễn Ngọc San không hào hứng lắm với lời gợi ý này,
nhưng vì nể bạn nên cũng lẳng lặng gật đầu. Bế mạc trại sáng tác,
trên đường về, tôi ướm hỏi Nguyễn Ngọc San :
- Anh Duật đã có lời như thế thì bác cứ viết đơn, "mất gì của
bọ...".
Nguyễn Ngọc San cười, giọng nửa đùa nửa thật :
- Nhưng mà mình không có tiền...
Lại tiền. Tôi khẽ nhăn mặt :
- Bác đã có 5 tập thơ, hơn nữa, mảng lục bát rất đáng nể... Năm vừa
rồi, khối nhân vật lạ hoắc, thơ chỉ thuộc dạng tầm tầm mà cũng ào
ào kéo nhau vào Hội...
Nhà thơ xứ vải thiều gật đầu nheo mắt cười buồn :
- Đấy chính là lý do vì sao mình không có ý định làm đơn.
Câu chuyện đến đây thì bỏ lửng bởi theo chỗ tôi biết, chẳng bao giờ
Phạm Tiến Duật thực hiện lời hứa, tuy rằng, sau cuộc chén chú chén
anh ấy, Nguyễn Ngọc San còn gặp thêm "vua thơ" Trường Sơn vài lần
trước khi ông qua đời. Giờ thì tôi đã hiểu tâm sự của ông. Quả thật
những năm gần đây, việc xin vào Hội Nhà văn cũng lắm nỗi đoạn
trường. Theo quy chế, chất lượng tác phẩm là điều kiện cần thiết
nhất để nhà văn được gia nhập Hội có vẻ như không còn là ưu tiên số
một, mà phải có thêm tiêu chuẩn thứ hai, đó là các mối quan hệ, thậm
chí đấy mới là tiêu chí cơ bản để lọt vào danh sách vài chục "nhà"
sau mỗi đợt xét duyệt của Ban Chấp Hành. Đến đây bất chợt tôi nhớ
đến mấy trường hợp được xem là khá điển hình ở một tỉnh lẻ vùng
châu thổ sông Hồng trong cuộc chạy nước rút "đánh đu" với danh hiệu
nhà văn thông qua vô vàn những chiêu thức tinh vi nhưng cũng không
kém phần cay đắng.
Đối tượng thứ nhất là một ông cai tù. Phải nói ngay rằng đây là nhà
thơ phong trào, trình độ thơ chỉ ngang với vè dân gian. Ông ta không
thiếu tiền mà chỉ thiếu cái danh, mà có tiền ở thời buổi này là có
tất cả mọi thứ. Bước đầu, ông giám thị tung tiền ra in thơ sau khi
nhà nước có chủ trương "xã hội hóa" thi ca bằng nghị quyết "Ngày
thơ Việt Nam". Tất cả những gì có thể quy vào thơ đều được ông
giám thị chấp bút và cho xuất bản lu bù, sau đó thuê một dàn nghệ sỹ
ưu tú từ Hà Nội về ngâm và ghi hình để phổ biến rộng rãi đến công
chúng. Trại tù đương nhiên trở thành một điểm sáng văn hóa. Các văn
nghệ sỹ nườm nượp đổ về. Có không ít vị, cả địa phương lẫn trung
ương, lấy danh nghĩa "thâm nhập thực tế", đóng chốt dài dài, ăn dầm
ở dề (tất nhiên là bằng tiền chùa), xem Trại cải tạo là một thứ "mỏ"
khai thác không bao giờ cạn, mặc dù cả chục năm sau, chẳng "nhà" nào
công bố được một tác phẩm ra hồn ngoài mấy bài báo lá cải, như là để
trả nợ miệng chủ nhân đã tiếp đãi vô cùng nồng hậu. Thủ thuật "kim
ngân thu phục nhân tâm" của ông giám thị thành công đến mức, ông
ta vượt mặt hầu hết các ứng viên sừng sỏ của mấy tỉnh vùng Đông Bắc,
qua tất cả các Hội đồng, chỉ còn mỗi thủ tục bỏ phiếu của Ban Chấp
Hành là sẽ đàng hoàng bước vào ngôi đền văn chương số 9 Nguyễn Đình
Chiểu nếu như không có chuyện động trời xảy ra. Ấy là, đúng vào lúc
"nhà thơ - giám thị" nổi tiếng một thời, đang ngồi thù tiếp mấy "đại
gia" chức sắc của một tờ báo ngành nhưng tên tuổi đang lên như cồn
thì bị chính người đồng đội của mình nã đạn vào gáy do một mối hiềm
khích cá nhân nào đó.
Ông thứ hai, trình độ thơ cũng chỉ nhỉnh hơn câu lạc bộ phường chút
ít, vốn liếng vắt vai là một tập thơ chỉ bằng chiếc... lá đa, diễn
đạt bằng thứ ngôn ngữ sáo rỗng, cảm xúc thương vay khóc mướn, khác
hẳn với cuộc sống trưởng giả của chính mình trên tư cách một quan
chức "đầy tớ của dân". Với làng văn, ông này chẳng là "cái đinh" gì
so với hàng chục nhà thơ địa phương đã xuất bản năm bảy tập thơ,
thậm chí có những người từng đoạt giải cao của Ủy ban Toàn quốc các
Hội VHNT Việt
Nam.
Nhưng ông ta lại có thế mạnh là đang nắm trong tay một phương tiện
thông tin. Bằng phương châm "của chùa phúc ta", hằng năm, lợi
dụng các đợt họp cộng tác viên, vị tổng biên tập này mời hầu hết các
nhà thơ tên tuổi từ Hà Nội về, bố trí nghỉ ngơi tại khách sạn cao
cấp với thái độ vô cùng trân trọng, "mong các anh tiếp tục đóng
góp cho phong trào địa phương" thông qua những chiếc phong bao
khá nặng tay sau khi họ đã chiếu cố gửi các bài thơ hạng hai, hạng
ba làm sang cho tờ báo tỉnh lẻ.
Lẽ tất nhiên, với một ứng viên có tiềm năng như vậy, mặc kệ những bê
bối về chuyện bằng cấp trong một vụ scandale kéo dài nhiều năm, ông
ta đương nhiên vượt qua cửa ải các Hội đồng chuyên môn rồi giành
luôn số phiếu quá bán của BCH, chính thức trở thành hội viên của cái
hội sang trọng bậc nhất Việt Nam, làm cho các nhà thơ thứ thiệt của
Hội văn nghệ tỉnh trố mắt ra mà nhìn.
Nhân vật thứ ba lại có cách ứng xử khác, đó là "không được ăn thì
đạp đổ". Đây là một chuyên gia viết đơn thư nặc danh vào hàng
"tay tổ" ở địa phương. Cứ nghe phong thanh, trong tỉnh có ai xin
gia nhập Hội Nhà văn là vị này lập tức viết đơn "sáng tác" ra những
thành tích bất hảo vu khống, bôi nhọ gửi đi khắp nơi để hạ nhục
người đó. Riêng với Hội Nhà văn thì "bản thành tích" ấy được
chuyển đến đúng vào dịp các Hội đồng chuyên môn và BCH họp xét duyệt
kết nạp hội viên mới. Chiêu thức "độc đáo" trên tỏ ra khá hiệu
nghiệm, đã hạ gục không ít người lương thiện.
Một lần Nguyễn Ngọc San nói với tôi nhân dịp về thăm Côn Sơn:
- Chuyện đời là vậy, nhắc lại chỉ thêm buồn, hãy để cho thời gian
phán xét bởi lịch sử vốn công bằng .
Chúng tôi lặng lẽ bước trong rừng thông. Buổi chiều cuối thu, trên
cao, heo may xào xạc.
Nguyễn Ngọc San tuổi Giáp Thân, cung số chẳng lấy gì làm nhàn nhã,
nhưng ông an nhiên tự tại với cái trời phú cho mình, đó là phẩm chất
của một nhà thơ không bẻ cong ngòi bút. Ở bất cứ hoàn cảnh nào ông
cũng vẫn giữ được hồn thơ lục bát sắc sảo, lãng đãng chút hoài niệm,
mở ra một không gian hướng nội, cày xới tiềm thức, truy vấn lịch sử
để tìm câu trả lời cho tương lai. "Sông Bầu tầm tã" là thi
phẩm được xem như đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của ông, bởi nó
đã vượt qua được khuôn khổ chật hẹp của lục bát truyền thống, bứt
phá một cách ngoạn mục, đem đến cho người đọc những cảm nhận mới về
thân phận con người.
Đã có một thời tôi chưa hiểu Nguyễn Ngọc San, cho rằng thơ ông vẫn
có một cái gì chừng mực mà thiếu sự phóng túng, không dám đẩy đến
tận cùng, nhất là đối với những đề tài xã hội có tính nhạy cảm.
Nhưng tôi đã lầm. Bản lĩnh và thi tài Nguyễn Ngọc San chẳng những đã
ghi đậm dấu ấn trong "Sông Bầu tầm tã", "Những đồng tiền xu",
"Gia Long"... mà còn hiện diện ở hàng loạt tác phẩm sau
chuyến đi thực tế miền Trung vào nửa cuối năm 2006.
Chúng tôi ghé thăm hầu hết các địa danh được coi là "đất thiêng" ở
thời kỳ trước năm 1975, từng là chiến trường đẫm máu của những xung
đột ý thức hệ. Hành trình xuyên Việt lần này, cảnh trí và những hồi
ức đã làm cho một số văn nghệ sỹ nhìn nhận cuộc chiến giữa hai miền
Nam Bắc bằng con mắt ít khắt khe và trái tim độ lượng hơn. Từ thị xã
Đông Hà chúng tôi lần lượt viếng thăm chiến địa cũ Khe Sanh, sân bay
Tà Cơn, cửa khẩu Lao Bảo, nghĩa trang Trường Sơn, nghĩa trang Đường
9, nghĩa trang Gio Linh, nghĩa trang Cam Lộ...Mấy chục vạn linh hồn
có tên và không tên đã ngã xuống trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn
giờ này đang phiêu lãng nơi đâu ở một vùng hoang địa đầy tử khí? Tất
cả chỉ còn là ký ức, một ký ức đau buồn hằn vào lịch sử kéo theo nỗi
trầm luân của cả một dân tộc khi chưa học thuộc lời dạy của cha ông
về lòng tha thứ.
Nơi dừng chân lâu nhất là Thành Cổ. Tại đây người ta đã xây một đài
tưởng niệm những chiến sỹ trận vong (tất nhiên chỉ là chiến sỹ
QĐNDVN). Thắp hương xong, đoàn sang viếng thăm nhà lưu niệm. Đây là
ngôi nhà hai tầng, giống như một viện bảo tàng quân sự thu nhỏ,
trưng bày những chiến tích, chiến cụ cùng sa bàn trận địa của cuộc
chiến khốc liệt 81 ngày đêm giữa hai bên Giải phóng và Quốc gia năm
1972. Nhìn toàn cảnh chiến trường xưa, lòng tôi chợt nhói lên nỗi
kinh hoàng về một thời đẫm máu và nước mắt. Cánh cổng phụ phía tây
thành còn lại như một chứng tích khủng khiếp bởi hàng trăm vết đạn
xuyên qua như mắt sàng mặc dù nó được làm bằng thép tấm dày 7 ly.
Trên trời mây trắng vẫn lững thững bay ra biển. Cỏ non Thành Cổ vẫn
tươi xanh như lời ca của một bài hát mới sáng tác gần đây, bất giác
tôi nhớ đến mấy câu thơ bộc lộ cảm xúc rất chân thành (của một tác
giả nào đó tôi không nhớ tên) nhưng thật tiếc là nó vẫn chỉ là sản
phẩm cuối cùng trong chuỗi những kỹ thuật thượng thặng của công nghệ
tuyên truyền:
Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi đôi mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm.
Chỉ riêng nghĩa trang Đường 9 đã có gần mười vạn ngôi mộ. Đám người
nhỏ nhoi trước một bãi tha ma khổng lồ bất giác làm tôi thấy cô đơn.
Rừng Trường Sơn hoang sơ, gió ngàn vi vu tạo nên một không gian rờn
rợn lúc chiều tà. Hỡi những linh hồn trận vong! Các anh các chị hãy
yên giấc ngàn thu...
Nhớ lại lúc ở nhà lưu niệm trong khuôn viên Thành Cổ, một nhà thơ
trong đoàn hỏi người lính thuyết minh rằng, quân số thương vong của
chúng ta là bao nhiêu sau khi công bố 26 ngàn lính Việt
Nam
cộng hòa tử trận. Anh bộ đội trẻ lặng đi một lúc rồi từ tốn nói :
- Thưa các bác, số thương vong của quân ta Bộ Quốc phòng chưa thống
kê được(!?).
Nghe xong, nhà thơ Nguyễn Ngọc San, một trong những cựu chiến binh
Trường Sơn ghé tai tôi nói nhỏ :
- Mỗi ngày đêm ít nhất "nướng" một đại đội, cứ tính sơ sơ mỗi đại
đội một trăm người, nhân với 81 ngày thì sẽ ra việc gì phải hỏi. Mà
đó mới chỉ là số hy sinh trong thành, còn những đơn vị "bị" ở bên
kia sông Thạch hãn cũng không ít đâu...
Ông nói đúng. Khỏi phải bình luận gì thêm để đỡ làm đau thêm các
linh hồn trẻ đang yên nghỉ dưới những thảm cỏ non Cổ Thành .
Ngay đêm hôm ấy, trong nhà nghỉ thị xã Đông Hà, cách Thành Cổ không
xa, Nguyễn Ngọc San đọc cho tôi nghe bài "Cổ thành Quảng Trị"
mới sáng tác:
Cổ
Thành Quảng Trị
Nguyễn Ngọc san
Cổ Thành chẳng thấy thành đâu
Một vuông đất hẹp vùi sâu vạn người
Bát hương cháy đỏ giữa trời
Khôn thiêng một nén cho nguôi ngoai lòng
Cổ Thành máu chảy hành sông
Xương gom thành núi thành không còn gì
Bên ni, ừ cả bên tê
Thành hoang, gạch vụn gửi về mai sau...
Bài thơ chỉ có 8 câu, nhưng nghe xong tôi chợt bàng hoàng bởi sức
nặng của những vần lục bát. Nó chẳng những tuyệt vời về mặt cấu tứ
mà còn bộc lộ một cái nhìn mới, một cách cảm nhận mới về chiến
tranh sau khi đã có độ lùi 34 năm.Ý thức phản tỉnh về một sự kiện
lịch sử dường như đã được định hình cùng với những hồi ức bất chợt
của nhà thơ về cuộc chiến tranh đẫm máu đã khơi gợi cảm xúc tạo nên
những dòng tự sự giầu chất suy tưởng. Về một mặt nào đó, ta còn có
thể xem bài thơ là lời sám hối muộn mằn nhưng cần thiết cho những
thế hệ sinh ra sau khi đất nước đã im tiếng súng để chọn con đường
đến tương lai mà không cần phải nổ súng vào nhau. Ngoài những câu
chữ đọc lên nghe xót xa đến tê tái lòng, bài thơ còn thấp thoáng
bóng dáng của Thiền. Bên cạnh cái "hữu" và cái "vô" cùng với với
những biến đổi của vạn vật trong cõi vô thường là nỗi khổ chúng sinh
ba vạn sáu ngàn ngày. Đời người chỉ trong chớp mắt, lịch sử mới là
vô cùng. Ai ngộ được ra điều đó mới là chính đạo, bởi lẽ Phật từng
dạy: "vạn pháp quy tâm".
Tôi mừng cho Nguyễn Ngọc San và góp ý, ngoài việc sau này đưa vào
tập, trước mắt nên gửi đến một vài tờ báo xem phản ứng ra sao. Nhưng
đã hơn một năm qua đi, tất cả đều im lặng cho dù ông là cây bút có
tên tuổi trên văn đàn, đã từng được giải thưởng của báo Giáo dục
và thời đại trong cuộc thi thơ lục bát toàn quốc cách đây mấy
năm.
Tiếc bài thơ, sau nhiều ngày trăn trở, Nguyễn Ngọc San đành chịu hy
sinh bằng cách chữa hai câu cuối cho nhẹ bớt "gam màu" để đưa vào
tập sắp xuất bản tuy biết rằng làm như thế là mình tự "giết" thơ
minh:
Bên tê, ừ, cả bên ni
Hai bờ Thạch Hãn xanh rì cỏ non...
Công bằng mà nói, hai câu kết mới này cũng rất đáng nể vì nó là hình
ảnh ẩn dụ lịch sử nhưng là kiểu ẩn dụ "bắc cầu", đọc rồi phải ngẫm
nghĩ mới hiểu nhưng còn xa mới đạt được tầm khái quát của hai câu
cũ. Có điều ông không ngờ, ngay cả chấp nhận "xuống thang" như thế
mà vẫn không lọt qua mắt xanh của những nhà biên tập mẫn cán. "Cổ
Thành..." vẫn bị loại.
Thôi thì, đành phải chờ... vậy. Ai bảo nhà thơ xứ vải Thanh Hà sinh
ra trong cõi trần bụi bặm này vào năm Con Khỉ?
Chí Linh,
24/02/2008
ĐVS
|