Ngay
sau khi “Luật đời và cha con” được phát hành, tuần báo
Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt
Nam
đã tổ chức hội thảo. Đây là việc làm phải nói là khá khôn ngoan
nhằm định hướng dư luận để tránh búa rìu từ những cơ quan quyền
lực rất có thể giáng xuống đầu tác giả và nhà xuất bản. Có lẽ vì
thế nên hầu hết các tham luận chỉ dừng lại ở một vài hiện tượng
tiêu cực, cán bộ tham nhũng, suy thoái đạo đức, nhân cách, dẫn
đến gia đình đổ vỡ… mà không dám đi sâu vào bản chất vấn đề tác
giả đặt ra vốn là nguyên nhân chính dẫn đến màn bi hài kịch gia
đình Lê Hòe.
Tuy vậy cũng cần phải nói thẳng, văn của “Luật đời và cha con”
không mới, thậm chí rất cũ. Đó là loại văn thông tấn nặng về kể
lể, in đậm dấu ấn “quốc doanh” mà đặc điểm của nó là dài
dòng, lôi thôi, ít hình ảnh, luôn gây phản cảm với người đọc. Sở
dĩ tác phẩm tạo được ấn tượng với công chúng là bởi tác giả tìm
đến đúng tâm điểm của căn bệnh, dùng dao sắc rạch một nhát, phơi
bày phần cơ thể đầy ung nhọt đã ăn sâu vào lục phủ ngũ tạng của
nó trước bàn dân thiên hạ.
Cũng bởi cuốn sách có nhiều sự kiện với những diễn biến ly kỳ,
phức tạp, đầy kịch tính nên các nhà điện ảnh đã kịp thời chuyển
thể thành film đưa lên màn ảnh nhỏ chiếu rộng rãi, và “Luật
đời…” trở thành bộ film dài tập ăn khách nhất trong mấy
tháng cuối năm 2007.
“Luật đời và cha con” là bộ tiểu thuyết được dàn dựng khá
công phu với hàng loạt nhân vật thời hiện đại, hầu hết là công
chức trong bộ máy công quyền, tất cả đều xoay quanh một nhân vật
chính là Lê Hòe, chuyên viên cao cấp ngành tư tưởng. Danh xưng
ấy có lẽ chỉ là một cách nói để giảm bớt tầm quan trọng chứ thật
ra, chức vụ của ông Hòe chắc phải cao hơn thế. Một chuyên viên,
dù là chuyên viên cao cấp cũng chỉ là kẻ thừa hành, làm sao có
quền uy đến mức cả Ban Tuyên huấn thành phố cũng như các cán bộ
đầu ngành đều nơm nớp lo mất chức hoặc nhẹ ra cũng là cảnh cáo
ghi lý lịch đảng vì chưa kịp triển khai Nghị quyết Trung ương.
Về một mặt nào đó, có thể xem, cuộc đời hoạt động chính trị của
lê Hòe là tấm gương phản chiếu lịch sử hiện đại Việt nam ở vào
thời kỳ xã hội có những biến động dữ dội mà điểm nhấn của nó là
cuộc chiến tranh ý thức hệ kéo theo vô vàn bi kịch đau thương
của cả một dân tộc. Có thể nói, Lê Hòe vừa là thủ phạm vừa là
nạn nhân của chính hệ ý thức ngoại lai và cơ chế chính trị do
ông và những người cùng lý tưởng với ông tạo ra. Bước đầu, với
tư cách là nạn nhân của chủ nghĩa tuyên truyền, anh bộ đội Lê
Hòe bị cuốn vào cơn lốc Cải cách ruộng đất bằng thứ vũ khí đấu
tranh giai cấp đẫm máu. Đây là cuộc xáo trộn xã hội trên quy mô
lớn, kích động hàng chục triệu nông dân vào những trận đấu tố
khủng khiếp. Nó phá tan giềng mối xã hội, làm lung lay nền tảng
đạo đức được hình thành từ cả ngàn năm trước, đẩy một bộ phận
không nhỏ những điền chủ ưu tú ở nông thôn thành kẻ tội đồ, đồng
thời khuyến khích đại đa số bần cố nông vô học, lười biếng, đầu
óc trì trệ “vùng lên”, tiếp tay cho lũ cuồng tín, phá nát nền
kinh tế Việt Nam tạo nên cuộc khủng hoảng toàn diện về chính
trị, kinh tế và xã hội..
Từ lối tư duy cực đoan, loại bỏ lòng vị tha vốn là phẩm chất tốt
đẹp của ông cha để lại, Lê Hòe nhẫn tâm ruồng rẫy vợ, bỏ rơi bà
mẹ già nua và đứa con trai, ra thành phố chỉ vì cô vợ nhẹ dạ cả
tin, bị bọn đội Cải cách lưu manh xui dại tố oan một ông già
từng có ơn với gia đình. Vì thứ sĩ diện rởm và lý tưởng cách
mạng, Lê Hòe chối bỏ những giá trị bền vững, thiêng liêng của
nền văn hóa truyền thống, quyết tâm tẩy xóa hệ ý thức cũ để đến
với hệ ý thức mới mặc dù chưa biết hình hài nó ra sao mà lương
tâm không hề vướng bận.
Niềm tin vào thứ chân lý “duy nhất đúng” của người cựu chính trị
viên đã có sẵn từ khi ông ta được đào luyện trong môi trường
quân đội. Vì không được trang bị môn lịch sử tư tưởng và lịch sử
triết học cổ kim của nhân loại có hệ thống nên kiến thức thu
lượm sau mỗi đợt học tập của Lê Hòe là một mớ táp nham thông qua
công nghệ nhồi nhét và học vẹt, để rồi sau đó, nhà tuyên huấn
lại đem những thứ lý thuyết giáo điều lửng lơ đó truyền thụ cho
lớp cán bộ tuyên truyền còn thấp kém và mơ hồ hơn cả ông ta. Với
quy trình như vậy, Nghị quyết được mổ xẻ, xào xáo đến tận cấp cơ
sở, hiệu quả ra sao không quan trọng, điều cấp trên quan tâm là
anh phải … thuộc lòng. Đối với Lê Hòe, Nghị quyết dường như đã
ngấm vào máu thịt. Ông phủ định tất cả những thứ gì trái với
Nghị quyết, Nghị quyết là kim chỉ nam, là ngọn đèn soi đường đi
cho cả một dân tộc mà chẳng hề quan tâm đến cái “kim chỉ nam” ấy
liệu có đưa dân tộc đến tương lai tươi sáng hay là vào đường hầm
không lối thoát?
Quá trình nhận thức của Lê Hòe là đi từ cảm tính đến lý tính.
Giai đoạn đầu mới bước vào nghề là do niềm tin ngây thơ, ấu trĩ,
sau đó được trang bị vũ khí tư tưởng đấu tranh giai cấp và
chuyên chính vô sản, hệ ý thức của ông ta dần dần định hình và
cuối cùng được xác lập như là một định đề bất biến. Thực ra, Lê
Hòe không phải là con người phức tạp, một phần có lẽ bởi có
nguồn gốc xuất thân từ thành phần bần cố nông, tầm văn hóa thấp.
Ông ta trước sau cũng chỉ là kẻ thừa hành nhưng cuồng tín, luôn
tôn thờ Nghị quyết và xem Nghị quyết là phương thuốc thần diệu
có thể chữa được bách bệnh. Vì thế, sau này khi mà hàng loạt chủ
trương, chính sách duy ý chí, trái quy luật, đẩy đất nước vào
cuộc đại khủng hoảng, nhân dân mất hết lòng tin, bà Phụng, vợ
ông ta đã mỉa mai cái thứ nghị quyết trên giấy bằng giọng hàng
tôm hàng cá : “Nhà này không phải là chỗ giảng Nghị quyết
nhớ, muốn giảng ông hãy ra ngoài đường mà giảng”. Những lời
thóa mạ của bà vợ đanh đá cá cày đánh vào lòng tự ái nghề nghiệp
và thói sỹ diện hão khiến nhà chuyên viên của chúng ta phải quát
lên : “Tôi cấm bà động đến Nghị quyết!”.
Tất cả những xáo trộn xã hội trong mấy chục năm qua, xét đến
cùng đều là hệ quả tất nhiên của cách nhìn và hành xử của một
lớp người nắm vận mệnh dân tộc trong tay, độc quyền chân lý,
kiêu ngạo, luôn tự cho mình đứng ở “đỉnh cao thời đại”.Việc “ông
giời con” Lê Cường cùng cả một thế hệ thanh niên lười nhác,
không lý tưởng, mất hết niềm tin, liệu có phải là sản phẩm của
hệ thống giáo dục luôn lấy Nghị quyết làm tiêu chuẩn để hình
thành nhân cách con người? Thật đáng buồn khi mà, ngay trong
biệt thự một ông chuyên viên cao cấp ngành tư tưởng lại xẩy ra
việc thằng cháu đích tôn cưỡng dâm cô bán gạo, Thụy Miên thì rủ
bồ về làm tình trong phòng riêng, bà Phụng và Lê Đại bàn mưu lừa
ông hàng xóm để chiếm căn phòng trên gác bằng cái giá rẻ mạt.
Chưa hết, màn kịch gia đình vẫn còn một xen khá hài hước, ấy là,
lợi dụng cô gái nhà quê nhẹ dạ, ông Hòe còn giả cách đau xương
nhờ cô ta trèo lên lưng xoa bóp để tận hưởng sự đụng chạm xác
thịt khiến anh con trai phải đưa ra lời “góp ý”.
Thói quen độc quyền chân lý, bản chất nô lệ, phục tùng máy móc
của lớp người như Lê Hòe tưởng như đã sâu rễ bền gốc trong ý
thức, vậy mà lại được cuộc sống điều chỉnh tạo thành bước ngoặt
bất ngờ thông qua Lê Đại và ông bạn đại tá về hưu. Sự kiện ông
cựu chuyên viên cao cấp vào động mại dâm qua đêm với cô gái làng
chơi chỉ đáng tuổi cháu mình là một bằng chứng hùng hồn minh họa
cho cái xã hội đã hỏng hóc từ lâu. Nghị quyết vẫn được sản xuất
đều đều nhưng hình như đã hết thiêng. Đạo đức, nhân cách đã bị
tha hóa. Gia đình, thành lũy cuối cùng của con người đang bị
công phá. Một điều đáng quan ngại nữa là, cùng với sự sa sút về
đạo đức, nhân cách, xã hội còn dung túng một kiểu làm ăn kinh tế
chụp giật mà cựu thiếu tá Lê Đại là tiêu biểu. Lê Đại chủ động
xin ra khỏi đảng, hòa nhập rất nhanh vào cơn lốc kinh tế thị
trường cùng với những mánh mung và không ít lần hối lộ các quan
chức để giải quyết nhanh chóng nhiều phi vụ làm ăn có gía trị
bạc tỷ. Đại là nhân vật có thực, là mẫu người phổ biển, được
miêu tả khá sinh động nhưng không phải là nhân vật điển hình.
Nhân vật được Nguyễn Bắc Sơn chăm sóc khá công phu là Trần Kiên.
Có thể xem anh ta như mẫu cán bộ lãnh đạo lý tưởng làm đối trọng
với tầng lớp quan chức “đỏ” đang lao vào cơn lốc làm giầu thông
qua thủ đoạn kinh doanh quyền lực. Phải nói thẳng, Trần Kiên chỉ
là nhân vật hư cấu nên mọi suy nghĩ và hành động đều gượng gạo
giống sự vay mượn. Với tư cách bí thư quận ủy, ông cựu giám đốc
nhà máy không chấp nhận luật chơi của giới quan chức tham nhũng.
Đằng sau họ là những thế lực ngầm còn mạnh hơn bất cứ thứ Nghị
quyết thành văn nào. Họ liên kết với nhau thành một thế trận
liên hoàn với phương châm ăn chia sòng phẳng, luôn coi pháp luật
là một thứ trò đùa chỉ để trừng trị lũ dân đen thấp cổ bé họng,
thì Trần Kiên là một bí thư không đáng giá một đồng xu. Mối tình
giữa Trần Kiên với Thanh Diệu cũng là một mối tình giả tạo được
tác giả “chèn” vào nhằm lãng mạn hóa bầu không khí căng thẳng
của cuộc đấu đá phe phái chứ không hẳn chỉ để tôn vinh cái đẹp
của hai người cộng sản “ưu tú”.
Kiên bị cách chức là đúng quy luật. Ở một xã hội mà mọi thứ đều
có thể mua bán bằng tiền thì một trí thức ngu ngơ như Kiên làm
sao có thể thực hiện được hoài bão của mình. Kiên chỉ là một mắt
xích lỏng lẻo trong thiên truyện. Đây là nhân vật thiếu sức sống
nhất, nhợt nhạt nhất nhưng xem ra lại quan trọng nhất để làm an
lòng các đầu óc bảo thủ vốn rất sợ những lời nói nói “chối tai”
từ phía những văn nghệ sĩ có tâm huyết với vận mệnh đất nước.
Ngoài những hội chứng về bệnh “nghiện” Nghị quyết, “Luật đời
và cha con”còn là hồi chuông cảnh báo sự tan vỡ gia đình
không phương cứu chữa. Chi tiết cả hai cha con Lê Đại cùng làm
tình với Kiều Linh rồi cuối cùng ông bố doanh nhân cưới cô gái
giầu thủ đoạn chài đàn ông này làm vợ là một cú đòn trời giáng
vào niềm kiêu hãnh của gia đình Lê Hòe. Nó còn là bằng chứng
không thể chối cãi cho thấy, ở một xã hội vô cảm, mòn mỏi bởi
con người đã mất hết niềm tin, thì bất cứ chuyện gì, dù vô lý
đến đâu cũng có thể xảy ra. Các nhà làm film hiểu rất rõ phản
ứng dây chuyền của hành vi đốn mạt trên nên đã tìm cách cho Kiều
Linh về quê thoát khỏi cuộc tình oan nghiệt, phần nào giảm sốc
cho khán giả. Có điều, với tâm lý nhạy cảm của lớp trẻ, trong
một xã hội mà nền giáo dục đang tuột dốc, thì những cuộc tình
tay ba loạn luân như thế, chắc chắn sẽ là “tấm gương”vô cùng hấp
dẫn mà chẳng cần phải mở bất cứ cuộc vận động nào. Với bản chất
nổi loạn, bất cần đời như Lê Cường, đưa hắn ra nước ngoài tức là
Lê Đại đã làm một cuộc cuộc “xuất khẩu” “hạt giống đỏ” sang cộng
đồng quốc tế. Ở thế giới văn minh, luật pháp hoàn thiện, mọi
công dân đều phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình, chắc gì
Lê Cường đã cải tà quy chính khi mà bản chất hắn là một gã công
tử lưu manh, chuyên ăn bám và quậy phá.
Viết về giới quan chức công quyền, qua hàng loạt nhân vật tiêu
biểu của “Luật đời…”, Nguyễn Bắc Sơn đã khá thành công
khi lách sâu ngòi bút vào các mối quan hệ, không phải chỉ bề nổi
mà cái chính là ông đã chỉ ra được phần chìm của tảng băng tham
nhũng. Những bí thư đảng bộ vô học, gia trưởng và kiêu ngạo như
Nguyễn Hải không phải là cá biệt. Chủ tịch quận Lâm Du già nua,
ốm yếu nhưng đầy mưu mô trong vụ chia chác đất công, Vũ Sán phải
hối lộ rất nhiều tiền, thậm chí còn liên kết với các thế lực
ngầm do một gã người Tàu bảo kê để được ngồi vào cái ghế trưởng
phòng quy hoạch Văn phòng Kiến trúc sư trưởng thành phố. Ngược
lên trên nữa, người đọc còn nhận diện được những nhân vật tai to
mặt lớn của Thành ủy cũng như Ban Tuyên huấn có vẻ như đều nằm
trong đường dây buôn bán bất động sản. Họ có cả ngàn lẻ một
chiêu thức ma quái từ việc hợp lý hóa bằng Nghị quyết đến gây áp
lực, sử dụng bọn Khuyển Ưng của thế giới tội phạm ngầm đe dọa,
khủng bố những người dám đấu tranh chống tham nhũng. Tổng biên
tập Phạm Năng Triển bị tạt acid vào mặt không phải ngẫu nhiên mà
là cú đòn dằn mặt giới báo chí của những ông trùm tư sản “đỏ”.
Tác giả đã hạ thấp mức độ nghiêm trọng vụ án Phạm Năng Triển
bằng cách để công an vào cuộc tóm được mấy gã đàn em vô danh
tiểu tốt vốn là vật thế mạng để thiết lập vành đai an toàn cho
những chính danh thủ phạm đứng sau tấm màn nhung đạo diễn trò
chơi bất động sản. Đến đây, độc giả có quyền đặt dấu hỏi, vậy
thì ông xếp từng nhiều lần đến răn đe Phạm Năng Triển không được
tiếp tục đăng bài về vụ đất đai quận Lâm Du là ai nếu không phải
là một quan chức ngành tư tưởng ? Chúng ta kính phục tư cách và
bản lĩnh người làm báo của tổng biên tập Thời luận những
cũng vô cùng lo lắng cho tương lai đất nước khi mà cả một hệ
thống truyền thông, từ nhiều năm qua bị một nhóm người thao
túng.
Đọc “Luật đời và cha con”, suốt từ đầu đến cuối, người ta
chỉ thấy một không khí nặng nề của những cuộc đấu đá nội bộ nhằm
tranh giành quyền lực để trục lợi của một hệ thống quan chức bị
tha hóa, mất hết nhân cách. Xã hội ấy bế tắc, con người mất hết
niềm tin, trái tim hoàn toàn vô cảm nhưng lại tôn thờ bạo lực.
Tất cả những hiện trạng ấy đều bắt nguồn từ một hệ ý thức lấy
đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản làm phương châm trị
nước. Lê Hòe và những người như ông ta phải chịu trách nhiệm về
những sai lầm dẫn đến bi kịch của cả một dân tộc trong quá khứ,
hiện tại cũng như viễn cảnh không mấy sáng sủa của tương lai.
Ngoài tư cách là màn bi hài kịch thời đại không tiền khoáng
hậu,“Luật đời và cha con”còn là hồi chuông cảnh tỉnh cho
những người cầm cân nảy mực ở tầm vĩ mô, hãy dũng cảm nhìn vào
quá khứ sai lầm mà điều chỉnh chiến lược trong tương lai nếu
muốn 87 triệu con Lạc cháu Hồng sánh vai với cộng nhân loại tiến
bộ.
Bến Tràng,
24/4/2008
Đặng Văn Sinh |