Sau
chuyến đi Huế vào dịp trung thu năm Bính Tuất, Đặng Văn Sinh bắt
chước người xưa theo kiểu “nối điêu”, làm được mấy bài thơ chữ
Hán theo thể Đường luật, trong đó có một bài ngũ ngôn tứ tuyệt,
ba bài thất ngôn tứ tuyệt và một bài thất ngôn bát cú nhằm ghi
lại cảm xúc của mình trên hành trình vào thăm Cố đô. Các bài đều
đã được phiên âm và dịch nghĩa, riêng phần thơ , tôi có nhờ nhà
thơ Nguyễn Đào Trường, 74 tuổi, hiện đang cư ngụ ở số nhà 65,
phố Đinh Văn Tả (48 Bắc Hàn Giang cũ), thành phố Hải Dương dịch
giúp. Xin chân thành cảm ơn cụ Nguyễn Đào trường và kính chuyển
cả phần nguyên tác cùng bản dịch đến độc giả, những gì còn khiếm
khuyết xin được lượng thứ.
Đặng Văn Sinh
過
大
靈
江
鄧
文
生
此
地
前
朝
曾
血
戰
戈
矛
影
照
黯
愁
雲
至
今
客
到
靈
江
上
往
事
回
頭
憶
古
人
大
靈
江,
秋
月,丙
戌
年
Phiên âm:
Quá Đại Linh giang[i]
Đặng Văn Sinh
Thử địa tiền triều tằng huyết chiến
Qua mâu ảnh chiếu ảm sầu vân
Chí kim khách đáo Linh Giang thượng
Vãng sự, hồi đầu ức cổ nhân.
Đại Linh giang ,thu nguyệt, Bính Tuất niên
Dịch nghĩa:
Qua sông Gianh
Đất này triều trước đã từng là nơi huyết chiến
Ánh giáo gươm chiếu lên làm tối đám mây buồn
Đến nay khách viếng thăm sông Gianh
Ngoảnh đầu nghĩ đến chuyện cũ, nhớ người xưa.
Sông Gianh, mùa thu, năm Bính Tuất
Dịch thơ:
Qua sông Gianh
Nơi đây huyết chiến ngày xưa
Giáo gươm lóe chớp rơi mưa mây sầu
Sông Gianh khách đến bấy lâu
Người qua chuyện cũ ngoảnh đầu lệ rơi.
Nguyễn Đào Trường
古
城
廣
治
鄧
文
生
廣
治
荒
城
絕
鷓
鴣
風
吹
舊
塚
颭
葦
蘆
誰
知
死
士
魂
猶
在?
“一
將
功
成
萬
骨
枯”.
廣
治,丙
戌
年,仲
秋,初
七
日
Cổ thành Quảng Trị
Đặng Văn Sinh
Quảng Trị hoang thành tuyệt giá cô[ii]
Phong xuy cựu trủng chiểm vi lô
Thùy tri tử sĩ hồn do tại?
“Nhất tướng công thành vạn cốt khô”.
Quảng Trị, Bính Tuất niên, trọng thu, sơ thất nhật
Dịch nghĩa:
Thành cổ Quảng Trị
Thành hoang Quảng Trị đã hết loài chim tu hú
(Chỉ có)gió thổi làm lung lay đám lau sậy trên những ngôi mộ cũ
Nào ai biết hồn chiến sĩ trận vong còn ở nơi này?
Một tướng làm nên chiến công phải đổi bằng vạn sinh mạng.
Quảng Trị, ngày mồng 7, tháng 9, năm Bính Tuất
Dịch thơ:
Thành Cổ Quảng Trị
Lau sậy hoang thành lạnh gió xô
Lung lay mộ cũ trận năm xưa
Nào ai tử sỹ vong hồn hận
"Nhất tướng công thành vạn cốt khô".
Nguyễn Đào Trường
香
江
即
事
鄧文生
水
上
遊
船
溢
月
琴
香
江
幾
度
日
浮
沉
詩
人
才
女
愁
相
別
一
曲
南
平
淚
滿
襟
順
化,丙
戌
年,仲
秋,吉
日
Phiên âm:
Hương giang tức sự
Đặng Văn Sinh
Thủy thượng du thuyền[iii]
dật nguyệt cầm
Hương giang kỷ độ nhật phù trầm
Thi nhân, tài nữ sầu tương biệt
Nhất khúc Nam Bình[iv]
lệ mãn khâm.
Thuận Hóa, Bính Tuất niên, trọng thu, cát nhật
Dịch nghĩa :
Hương giang tức sự
Trên mặt nước, du thuyền đầy tràn tiếng đàn nguyệt
Đã bao lần mặt trời chìm nổi trên Hương giang
Thi nhân, tài nữ lưu luyến từ biệt nhau
Một khúc hát Nam Bình, nước mắt thấm ướt vạt áo.
Huế, ngày lành, tháng chín, năm Bính Tuất
Dịch thơ:
Hương giang tức sự
Mặt nước thuyền đi tiếng nguyệt tràn
Mây trời chìm nổi bến Hương Giang
Thi nhân tài nữ lưu từ biệt
Khúc hát
Nam
Bình lệ mãi loang.
Nguyễn Đào Trường
千
澍
陵
感
作
鄧
文
生
殘
陽
留
故
塔
玉
殿
冷
無
燈
世
祖
今
何
在
猶
存
一
石
陵
千
澍
陵,丙
戌
年,仲
秋
Phiên âm:
Thiên Thụ[v]
lăng cảm tác
Đặng Văn Sinh
Tàn dương lưu cố tháp
Ngọc điện lãnh vô đăng
Thế Tổ[vi]
kim hà tại
Do tồn nhất thạch lăng
Thiên Thụ lăng, Mậu Tuất niên, trọng thu
Dịch nghĩa :
Cảm xúc làm thơ về lăng Gia Long
Nắng chiều còn sót lại trên tháp cổ
Cung điện lạnh lẽo không ánh đèn
Đức Thế Tổ bây giờ ở đâu?
Chỉ còn lại một tòa lăng đá.
Lăng Thiên Thụ, tháng chín, năm Mậu Tuất
Dịch thơ:
Cảm xúc làm thơ trước lăng Gia Long
Tháp cổ vương nắng chiều
Cung điện quạnh cô liêu
Thế Tổ đâu còn mãi
Lăng đá lạnh đìu hiu.
Nguyễn Đào Trường
謙
陵
前
有
感
鄧
文
生
謙
恭
記
在
石
碑
堂
御
手留
名
一
帝
王
內
亂
京
城
人
餓
死
外
侵
六
省
虜
封
疆
謙
恭
巧
語
欺
天
地
嗣
德
自
誇
惑
四
方
聖
澤
頒
民
何
又
在
回
頭
只
見
幾
災
殃.
順
化,謙
陵
前,
丙
戌
年,仲
秋
Phiên âm :
Khiêm lăng tiền hữu cảm
“Khiêm cung ký”[vii]
tại thạch bi đường
Ngự thủ lưu danh nhất đế vương
Nội loạn, Kinh thành nhân ngạ tử
Ngoại xâm, Lục tỉnh lỗ phong cương
“Khiêm cung” xảo ngữ khi thiên địa
“Tự Đức”[viii]
tự khoa hoặc tứ phương
Thánh trạch ban dân hà hựu tại?
Hồi đầu chỉ kiến kỷ tai ương.
Thuận Hóa, Khiêm lăng tiền, Mậu Tuất niên, trung thu
Dịch nghĩa:
Cảm nghĩ trước Khiêm lăng
Bài ký “Khiêm cung” đặt trong nhà bia
Là ngự bút lưu danh bậc đế vương
Nội loạn, tại Kinh thành người chết đói
Vùng Lục tỉnh, giặc ngoại xâm chiếm đóng
“Khiêm cung” là câu nói khéo nhằm dối trời đất
“Tự Đức” là lời khoe để mê hoặc thiên hạ
Ơn vua ban cho dân giờ ở đâu?
Ngoảnh đầu chỉ thấy biết bao nhiêu tai ương.
Huế, trước Khiêm lăng, trung thu, năm Mậu Tuất
Dịch thơ :
Cảm nghĩ trước Khiêm lăng
Khiêm cung nào có khiêm gì?
Đế vương ngự bút để bia muôn đời
Kinh thành loạn,đói chết người
Ngoài kia sáu tỉnh làm mồi ngoại xâm
Lừa dân khéo đặt Khiêm cung
Lời khoe mẽ chẳng thể mong yên bình
Ơn Vua ban thật mong manh
Tai ương chiếu chỉ dân lành lầm than.
Nguyễn Đào Trường
[v]
Tên lăng của vua Gia Long. . Khi vào lăng, tác giả sơ ý,
không nhìn tự dạng hai chữ “Thiên Thụ”, không hiểu”Thiên
thụ”là”千樹
= nghìn cây” hay”天壽=
tuổi trời), hoặc “天澍
= cây trời”, tìm ở Google, các tư liệu của Trung Quốc chỉ có
tên “嘉隆陵=
Gia Long lăng” tại địa danh “順化=
Thuận Hóa” mà không có hai chữ “Thiên Thụ lăng”. Vậy kính
mong các danh sỹ ở Cố đô, vị nào biết được tự dạng “Thiên
thụ” hoặc Thiên thọ”cùng nghĩa của nó xin vui lòng chỉ giáo
và gửi về hộp thư của Đặng Văn Sinh:
thaivan@gigya.com.
[viii]
Niên hiệu của Hồng Nhậm sau khi giết anh là Hồng Bảo rồi lên
ngôi hoàng đế.
[5]
Tên lăng của vua Gia Long. . Khi vào lăng, tác giả sơ ý,
không nhìn tự dạng hai chữ “Thiên Thụ”, không hiểu”Thiên
thụ”là”千樹
= nghìn cây” hay”天壽=
tuổi trời), hoặc “天澍
= cây trời”, tìm ở Google, các tư liệu của Trung Quốc chỉ có
tên “嘉隆陵=
Gia Long lăng” tại địa danh “順化=
Thuận Hóa” mà không có hai chữ “Thiên Thụ lăng”. Vậy kính
mong các danh sỹ ở Cố đô, vị nào biết được tự dạng “Thiên
thụ” hoặc Thiên thọ”cùng nghĩa của nó xin vui lòng chỉ giáo
và gửi về hộp thư của Đặng Văn Sinh:
thaivan@gigya.com.
[8]
Niên hiệu của Hồng Nhậm sau khi giết anh là Hồng Bảo rồi lên
ngôi hoàng đế.
|