Xin
nói trước, tôi không phải người vùng này mà chỉ là dân cửu vạn
từ mạn Tào Khê xuống. Làng tôi nghèo, cánh đàn ông quanh năm chu
du thiên hạ kiếm ăn bằng đủ thứ nghề trong đó có nghề đội cát.
Hằng năm, vào dịp tháng bảy âm lịch, khi lũ sông Rào bắt đầu
ngập cồn khoai, đỏ ngầu như son, sóng vỗ oàm oạp là đám xúc cát
lại khăn gói quả mướp lếch thếch về quê.
Nhưng năm nay rất lạ.
Mới ra giêng, đã sấm sét đùng đùng, sau đó là trận mưa như trút
nước kéo dài ba ngày ba đêm. Tiếp theo là hạn hán sáu tháng
liền. Vì thế, đã vào tiết ngâu mà nước mới chỉ mấp mé chân đê.
Dòng sông có vẻ như cố tình không tuân theo quy luật tự nhiên,
để cho bãi cát cồn Khoai cứ trơ ra dưới ánh nắng mặt trời nhiệt
đới chớm sang thu mà còn gay gắt hơn cả trưa hè. Kiểu thời tiết
trái khoáy như thế này chỉ có lợi cho thợ cát nên chẳng ai dại
gì mà bỏ về trong khi vẫn có thể kiếm được ngày vài nghìn từ
hầu bao của các ông chủ thầu.
Buổi chiều hôm ấy trời oi, vừa tắm xong mồ hôi đã tứa đầy người.
Tôi tha thẩn trên bãi chuối ngắm những cánh buồm xuôi ngược bên
kia lạch Tế Sơn và ngẫm nghĩ về thân phận làm thuê của mình. Đêm
xuống, trăng đã lên từ lâu nhưng tôi vẫn chưa muốn về lán. Khuôn
trăng mười ba chưa tròn mà đã vàng úa tựa lá ngô đồng rụng. Vẫn
chẳng thấy một ngọn gió. Tôi cởi quần áo vắt lên một cành cây
điền thanh rồi nhảy ùm xuống sông. Nước đục lờ, chảy lững thững
như là đã quá
mệt mỏi sau chặng đường dài đằng đẵng vượt thác
ghềnh từ mãi ngàn xanh đổ về. Tôi sải tay bơi ra phía cồn Khoai.
Đó chính là cái cồn cát vô tận mà hàng ngày chúng tôi vẫn phải
theo thuyền ra đội từng thúng một đổ đầy những chiếc sà lan để
họ chở ngược lên bến Đụn bán cho công trường xây nhà máy đường.
Cồn Khoai bây giờ nhập nhòa dưới bóng trăng đỏ rực. Tôi có cảm
giác như mình định hướng nhầm, càng bơi càng xa. Cái doi đất
giữa sông mỗi lúc một nhỏ dần, cho đến khi bên tai dậy lên những
tiếng ù ù như là sấm rền thì tôi bị cuốn vào một vùng nước xoáy
tối tăm mặt mũi không biết gì nữa.
Lúc tỉnh lại, tôi thấy mình nằm trong sạp chiếc thuyền đánh cá,
trên mui treo ngọn đèn chai cứ lắc lư theo nhịp sóng. Ngồi bên
cạnh là một ông già có vẻ mặt khắc khổ rất khó đoán tuổi nhưng
dày dạn phong sương bởi mấy vết hằn khác thường bên khóe miệng.
Ông già thấy tôi mở mắt liền lắc đầu trách :
- Cậu liều quá, một mình mà dám tắm ở khúc sông này, nếu tôi
không nhanh tay thì giờ chắc đã làm mồi cho Thủy thần.
Bấy giờ tôi mới biết, hôm trước trên thượng nguồn mưa lớn, nước
lũ đang về, nhưng điều đáng sợ hơn cả là, đối diện với cồn
Khoai, chỗ tôi định bơi sang là Bến Lở. Khúc sông này, thỉnh
thoảng vẫn gây ra những cái chết bí hiểm mà ngay cả ông trùm vạn
chài, đã từng lăn lộn với nghề hạ bạc ngót năm mươi năm cũng
không giải thích nổi. Sau khi bưng cho tôi bát cháo cá lăng nấu
với thìa là, ông chủ thuyền thủng thẳng nói:
- Dân trong vùng bảo rằng đoạn sông này có Hà Bá, thỉnh thoảng
ngài làm dữ đòi vật hiến tế, để tôi kể cậu nghe chuyện này, rất
khó tin nhưng không phải không có lý…
Vào những năm đầu kháng chiến, có một hãng vận tải chuyên chở
vật liệu cung cấp cho các đồn binh xây lô cốt trên các triền
sông đường Hải Phòng - Hà Nội, Hải Phòng - Phả Lại. Chủ hãng là
gã Tây lai Giắc kê. Giắc kê có cô vợ người Việt xinh đẹp và cũng
rất sắc sảo tên là Bạch Phượng. Thợ máy thường xuyên theo đoàn
tàu dắt là Lê Công, một tay lãng tử từng theo học trường Bách
Nghệ, giỏi nghề cơ khí, được lão chủ
Tây
nể, lại trả lương cao.
Tay
tài công có dáng vóc như một đô vật với bộ ria con kiến trên
khuôn mặt chữ điền, trông khá dữ tợn, lại lầm lỳ, ít nói nên ít
gây được thiện cảm với đám chân sào. Nghe nói, trước khi vào
trường Bách Nghệ, Công đã từng theo một võ sư Bình Định hai năm.
Mục đích học võ của Công là để thanh toán lão Cấn Thọt làng Đọi.
Tay
bá hộ ấy vì việc tranh chức chánh tổng không thành, nghi là cha
anh ngầm phá đám đã cho tay chân quăng thuốc phiện vào nhà rồi
đi báo quan khiến ông phải vào tù. Nửa tháng sau Cấn Thọt chết
đuối ở ngòi Vạn trong một đêm đi đánh tổ tôm bên làng Sộp. Người
ta kháo nhau, lão làm điều ác bị quả báo, chứ con ngòi cách
đường cái cả một cánh đồng, có say rượu cũng chẳng thể lạc xa
như thế.
Vợ Giắc kê nhìn thấy Lê Công thì để ý ngay. Từ đó, thỉnh thoảng
cô ta lại lấy cớ muốn xem phong cảnh sông nước để xuống tàu gặp
người thợ máy. Xem ra, anh tài công kia cũng không phải là vô
tình. Trai chưa vợ, lại là dân thủy thủ quanh năm sông nước làm
sao cưỡng được ánh mắt tống tình của bà chủ xinh đẹp. Hai người
dan díu với nhau chừng nửa năm thì Giắc kê biết. Hắn cấm Bạch
Phượng xuống tàu và răn đe chàng thợ máy. Cái trò này nó lạ lắm,
trai gái đã vướng phải lưới tình thì khó mà gỡ ra được. Cô
Phượng bị quản thúc tại gia nhưng không chịu thua, thỉnh thoảng
vẫn lén ra gặp chàng tài công mỗi khi có dịp.
Một buổi chiều Giắc kê xuống tàu cùng mấy gã đàn em thỉnh thoảng
vẫn thấy lảng vảng ở vườn hoa Đưa Người. Chúng bày bàn ghế trên
boong, vừa nốc rượu chát vừa thì thầm bàn tán bằng thứ tiếng
Pháp ngọng nghịu nghe rất chối tai. Sáng hôm sau, khi tàu vừa
qua Bến Lở, một thủy thủ hốt hoảng báo tin Lê Công mất tích. Gã
Tây lai giả bộ sửng sốt:
- Làm gì có chuyện ấy, tối qua moa vừa gặp hắn ở khoang máy.
- Bẩm ông chủ, có thể ban đêm anh ấy bị rơi xuống sông…
- Không thể thế được, Công là người bơi giỏi, moa biết mà! Hãy
tìm kỹ xem.
***
Mất nhân tình Bạch Phượng đau đớn lắm. Cô ta bỏ tiền thuê
phường câu tìm khắp cả mấy khúc sông nhưng không thấy xác. Nỗi
hoài nghi Giắc kê là kẻ thủ ác cứ ám ảnh tâm trí người đàn bà.
Một hôm, trong lúc không kìm được cơn giận vì bị gã Tây lai xúc
phạm, cô chỉ mặt hắn bảo :
- Mày đã thuê bọn lưu manh giết anh ấy, đồ hèn!
Giắc kê vừa tu gần hết chai Brundy, giọng nồng nặc hơi men:
- Anh ta nốc rượu ngang Phú Lộc say mèm rồi ngã xuống sông làm
hãng “Thủy Thần” mất một thợ máy tài ba, chính moa cũng tiếc đứt
ruột…
Phượng hằn học nhìn hắn rít qua kẽ răng:
- Đồ nói dối trắng trợn!
Mặt Giắc kê cau có. Sau một cơn ho sặc sụa, có lẽ vì thứ rượu
Ăng lê quá nặng, hắn cất giọng lè nhè:
- Mày đã ngủ với nó bao nhiêu lần rồi?
Bạch Phượng chồm lên hất tách cà phê vào mặt chồng:
- Tao sẽ ra sở cảnh sát tố cáo tội giết người của mày.
- Ô là là! – Giắc kê bật cười hô hố nói bằng thứ tiếng Việt rất
chuẩn – Cứ ra báo cảnh sát đi xem công lý thuộc về ai.
Nhà nước
Đại Pháp chưa bao giờ bênh lũ da vàng hèn hạ.
- Thằng khốn! – Người đàn bà cáu tiết văng tục – Thế mẹ đẻ ra
mày là giống người nào hả?
Thằng Tây lai bỗng sầm mặt, dịu giọng:
- Đó là nỗi đau của tao. Đáng lẽ bà ấy không nên để tao làm
người trong cái xứ nhiệt đới chó chết này.
Câu chuyện trên xảy ra được hơn hai tháng thì tay chủ hãng rơi
xuống sông trong lúc ngồi vắt chân chữ ngũ đốt xì gà trên chiếc
ghế bố ở boong tàu vào một đêm tối trời. Ba bốn ngày sau, dân
vạn chài mới thấy hắn nổi lập lờ trên vụng Giải, hai tay, hai
chân bị trói bằng dây dù. Hắn trương phềnh như con bò mộng, da
thịt bị cá rỉa lỗ chỗ, bốc mùi khăn khẳn,
rất lợm giọng. Không ai nhìn thấy thủ phạm nhưng cánh chân sào đoán đó là đòn trả thù
của Lê Công. Mãi sau này Công mới thú thật với Phượng.
Anh ta
vốn có tài bơi lội, lại được ông thầy Bình Định truyền cho dăm
miếng võ, lúc bị quăng xuống nước vẫn bình tĩnh cắn đứt dây
trói, lặn một mạch vào bờ tìm lá dấu đắp vết thương. Khi khỏi,
Lê Công lộn về Hải Phòng chờ dịp phục thù…
Hắn chết rồi, việc quản lý hãng “Thủy thần” rơi vào tay Bạch
Phượng. Lê Công được nhận lại nhưng không phải thợ máy mà với tư
cách ông chủ. Từ đấy họ không chở sắt thép xi măng cho Pháp xây
đồn binh nữa mà chuyển sang chở gạo và bông gòn.
Một tuần sau, công sứ Hải Phòng gọi Bạch Phượng đến bảo, nếu
không vận chuyển vật liệu xây dựng phục vụ quân đội Liên hiệp
Pháp, nhà nước bảo hộ sẽ cắt giấy phép kinh doanh. Lê Công bàn
với vợ bán toàn bộ phương tiện cho hãng “Con Rồng” của ông Cự
Phất ở Sài Gòn rồi thuê đóng hơn chục chiếc thuyền buồm chạy cò
con trong nội hạt, lãi mỏng nhưng chắc ăn. Hòa bình được mấy
năm, trong đợt cải tạo công thương, hai người hiến tất cả tài
sản cho chính phủ chỉ để lại một con đò làm kế sinh nhai. Ông bà
sinh hạ được hai trai một gái. Người con lớn là bộ đội hải quân.
Anh thứ hai bốc vác ở cửa hàng lương thực huyện.
Cô út, giáo
viên cấp hai. Ở tuổi xấp xỉ lục tuần, đáng ra có thể kiếm việc
nhẹ nhàng, sống bình yên bên vợ con những năm tháng cuối đời,
nhưng cái máu giang hồ làm lão cựu tài công không thể quên nghề
sông nước. Giữa những năm chiến tranh phá hoại ác liệt nhất, ông
ta tìm mua gỗ, tự tay đóng thuyền rồi đăng ký xin chở đò dọc.
Con đò nhỏ hôm ấy xuôi dòng, ít khách, gồm bà buôn trầu vỏ quê
Thủy Nguyên, bà Biển Động kèm mấy sọt củ nâu, tiếp đến là năm
sáu ông nhà quê, áo the, khăn xếp giống như đi dự đám cưới, cuối
cùng là người đàn ông còn khá trẻ có nước da mai mái như cớm
nắng. Hành lý của anh ta chỉ vỏn vẹn chiếc tay nải nhuộm vỏ già.
Khởi hành vào lúc chạng vạng, nước đang lên, thuyền chạy chậm rì
rì. Thỉnh thoảng một ngọn gió hiếm hoi tạt ngang mặt sông làm
cánh buồm vá chằng vá đụp thủng lỗ chỗ giật nẩy lên như là bị
vấp. Mặt sông lặng sóng. Phải chú ý lắm mới nghe thấy những
tiếng vỗ nhè nhẹ kéo dài của mũi thuyền rẽ nước. Hai bên bờ, ếch
nhái gân cổ thi nhau hòa tấu bản giao hưởng đồng quê với đủ các
loại nhạc cụ, từ giọng ồm ồm của chú ếch cốm mới vỡ đến tiếng
ngân lanh lảnh của vài cậu ễnh ương sọc xanh. Bọn nhái bén thì
há miệng nhả từng tiếng khàn khàn như là thanh trầm của kèn pha
gốt. Duy có nhà cóc, cậu ông Trời, là chẳng hiểu gì về âm nhạc,
luôn phá ngang bằng những cái nghiến răng kèn kẹt. Vòm trời đêm
ấy hơi khác thường, rất thưa sao và thỉnh thoảng mới có gợn mây.
Từ dải Ngân Hà nhợt nhạt như đám sương mù, một ngôi sao băng
rạch ngang đầu con vịt và cái gầu tát nước, kéo xuống tận đường
chân trời thành vệt dài, sáng như ánh lửa hàn.
Ngồi bên người đàn ông là Nhuần, con gái út của ông Công, vốn là
giáo chức đang dịp nghỉ hè. Cô này cũng có máu giang hồ, thích
phiêu lưu, luôn cảm thấy gõ đầu trẻ là một công việc nhàm chán,
đã mấy lần toan bỏ nghề theo đò dọc với bố. Ông Công tóc bạc
trắng, búi củ hành, buộc túm bằng chiếc khăn điều, hai múi rủ
lòng thòng xuống vai. Ông già có nét mặt đặc biệt rất dễ nhớ bởi
những vạch ngang dọc hằn sâu hai bên má giống vết cào của thú dữ
khi cùng đường buộc phải giao tranh với người. Tuy nhiên, tôi
phải nói với cậu, ông ta là người lương thiện nhưng lương thiện
theo kiểu một tay giang hồ sông nước.
Đêm đã khuya lắm. Sương bắt đầu nặng hật. Dải Ngân Hà mờ dần.
Bầu trời trong suốt màu lam ngọc như bị đẩy lên cao làm cho đám
hành khách trên con thuyền mỏng manh kia tưởng mình đang phiêu
diêu trong thế giới thần tiên. Gần về sáng, trời chuyển gió.
Nước sông đã lên cao. Sóng vỗ óc ách hai bên mạn. Mọi người đang
chập chờn nửa thức nửa ngủ, chợt nghe thấy những âm thanh rào
rào như sóng biển dội về. Đầu tiên nó bẻ gãy cột buồm, sau đó,
bằng sức mạnh siêu nhiên, vô tình, nó hút con thuyền lên cao,
xoay tròn giữa không trung rồi ném đám hành khách đang vô cùng
khiếp đảm kia vào bóng đêm.
Người đàn ông không biết mình bị rơi như thế nào, chỉ biết rằng
khi ý thức được cái chết đã kề bên thì đồng thời bị nghẹt thở.
Anh ta vội nhổ nước ra rồi ngậm chặt miệng. Hóa ra, khi rơi anh
ta bị đâm đầu xuống nước, lúng túng mãi mới định hướng xoay
người nhoi được lên, há miệng thở như kéo bễ. Đang tìm cách vào
bờ, cánh tay anh chợt vướng vào một mảng tóc. Linh tính báo cho
biết đó là một phụ nữ, anh vội nắm chặt mớ tóc kéo lên sau đó
lặn xuống đỡ ngang lưng nạn nhân đặt lên vai, nương theo dòng
nước bơi dần vào bãi cát bên tả ngạn.
Lúc ấy đã nhìn rõ mặt người, Nhuần nằm ngửa, vắt ngang trên hai
tay người đàn ông, rũ ra như cái xác không hồn. Anh ta vác cô
gái lên vai chạy đi chạy lại đến ba vòng trên bãi ngô non để xả
hết cái thứ nước màu gạch cua đang óc ách trong bụng. Anh ta đã
kiên trì làm đủ các thủ thuật như hô hấp nhân tạo, hút đờm dãi ở
miệng, bấm các huyệt đạo vậy mà phải gần hai giờ đồng hồ cô gái
mới tỉnh lại. Nhuần ngỡ ngàng nhận ra ân nhân chính là người đàn
ông có nước da mai mái ngồi cùng chuyến đò đêm qua.
Mãi đến chiều Nhuần mới đủ sức cùng người đàn ông đi ngược lên
phía thượng lưu nơi con đò bị nạn. Dòng sông ban ngày thật đáng
sợ. Con đò bị lốc cuốn ở bên lở. Đoạn sông này rộng và có một
vực xoáy cách bờ chừng sáu bảy chục thước. Đứng trên cao nhìn
nước triều cuồn cuộn chảy va đập vào bờ tạo thành những đợt sóng
bạc đầu làm Nhuần bất giác rùng mình. Con đò bị trận lốc đột
ngột như chiếc lá tre xoay theo chiều gió, bay vào mãi cánh đồng
Mả Hủi làng Cháy cách bờ sông già nửa cây số. Trừ cột buồm bị
gãy, tất cả còn lại hầu như nguyên vẹn. Bà Thủy Nguyên buôn trầu
vỏ và bà Biển Động buôn củ nâu làm một cú thăng thiên khá là
ngoạn mục rồi bị quăng xuống cồn Khoai sợ vãi cả linh hồn nhưng
không chết. Lúc thần hồn trở lại cả hai đệ tử nhà Phật đều nhăn
nhó vì mông đau ê ẩm, cứ chắp hai tay vái lên giời, miệng liên
tục niệm “Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn”. Riêng ông
lái đò mất tích. Bà Phượng và cô Nhuần thuê thuyền câu tìm suốt
một tuần mà không thấy xác cậu ạ.
- Thế thì lạ thật – Tôi cảm thấy người ớn lạnh vì câu chuyện của
ông trùm vạn chài có mùi ma quỷ - Hay là có Hà Bá thật hả bác?
- Tôi không dám chắc – Ông già chép miệng bảo – Xung quanh cái
chết của ông chủ đò dọc còn nhiều bí hiểm lắm. Có điều cậu không
thể ngờ là, cái đoạn Bến Lở bên kia kìa, vào năm bốn chín, năm
mươi, lão Giắc kê đã trói Lê Công ném xuống sông, rồi cũng chính
chỗ ấy, mấy tháng sau, ông ta lại ngâm tôm gã Tây lai. Chẳng
biết có phải là ngẫu nhiên hay do thế lực huyền bí nào sắp xếp
mà vào năm bảy ba, trận gió lốc lúc nửa đêm cuốn bay con thuyền
cũng đúng vào chỗ Bến Lở có cái vực xoáy…
- Chuyện cô Nhuần về sau thế nào hả bác?
- Cái người cứu được cô Nhuần đêm ấy là một anh chàng mới đi tù
về - Ông già điềm tĩnh kể tiếp bằng cái giọng có vẻ như bỡn cợt
– Anh ta quê ở mãi xóm Trại làng Đáp Khê, đi bộ đội gần một năm
thì vợ ở nhà lòng thòng với tay chủ nhiệm hợp tác xã. Họ quan hệ
kín đáo lắm nhưng vẫn có người biết. Cô Thảnh bên xóm Giữa còn
kể đã gặp anh chị đưa nhau lên huyện chẳng biết làm gì. Sau đợt
ấy, về nhà, cô Luyến cứ xanh xao như người hậu sản. Các cô vợ
lính có chồng đi B thóc mách đoán già đoán non là cô ta đi nạo
thai. Chị Tam, vợ tay chủ nhiệm vốn có máu Hoạn Thư, một hôm
rình tóm được Luyến ở gốc đa đầu làng gây sự. Đầu tiên hai bên
còn đấu khẩu, sau xông vào túm tóc vật nhau lăn cả xuống ruộng,
bùn đất dính bê bết khắp người như là vừa đi tát vét về. Chủ
nhiệm Tiệp bị mất mặt, lôi vợ về nhà đánh một trận thừa sống
thiếu chết.
Cuối năm ấy, chồng Luyến được về nghỉ mấy ngày để đi chiến
trường. Anh ta ra bến đò tìm mua ít lá gồi chữa mái nhà thì gặp
cô em họ đang chèo thuyền sang làng Vạc chở dây khoai. Nhìn thấy
anh, cô em gọi :
- Anh Thản, bên Hạ Chiểu mới có mấy bè lá về, xuống thuyền em
đưa sang mà chọn.
Tưởng thật, Thản xuống đò cầm mái chèo quay mũi thuyền về hướng
ngã ba Môi. Được một đoạn, Hường mới bảo:
- Nói đùa anh vậy thôi, bên ấy làm gì có lá gồi nhưng có chuyện
này, em nói anh phải thật bình tĩnh mới được.
- Có chuyện gì mà nghiêm trọng thế?
- Anh nghe đây. Chị Luyến ở nhà phải lòng tay Tiệp, hai người
túng tấng với nhau từ lâu, bà con xã viên gần đây mới biết nhưng
họ ngại nói ra sợ anh ta thù, cắt công điểm. Bây giờ anh về liệu
mà khu xử để chị ấy thôi đi, nếu không hạnh phúc cả hai gia đình
đều tan vỡ mà rồi xóm làng người ta cười cho.
- Cô nói thật hay đùa đấy? – Thản cảm thấy mặt nóng ran, người
bứt rứt khó chịu, hỏi nhát gừng.
Hường cười nhạt, buông lửng từng tiếng một:
- Em có quý mến anh mới nói chuyện hệ trọng như thế. Anh coi em
là cái thứ gì mà nghĩ rằng em vu oan giá họa cho người khác?
Thản tái mặt. Anh đảo mái chèo, xoay mũi cho thuyền hướng vào bờ
rồi cố nở nụ cười làm lành:
- Anh xin lỗi, tin của em làm anh mất bình tĩnh…
- Nghe em bảo đây! – Hường dịu giọng dặn – Về nhà đừng có nổi
máu Trương Phi mà hỏng việc, phải khuyên giải chị ấy thật tình
cảm vào.
Đêm hôm ấy Thản phác ra một kế hoạch. Sáng hôm sau anh bảo vợ:
- Mai anh phải đi rồi.
- Sao đi sớm thế? Anh không thể ở thêm với em mấy hôm nữa ư?
- Quân lệnh như sơn. – Thản mỉm cười buồn rầu nhìn vợ - Đơn vị
cho nghỉ tranh thủ thế là nhiều. Em giữ anh lại chỉ cần nửa ngày
thôi là bị kỷ luật ngay.
- Anh ơi ! Luyến rưng rưng nước mắt, giọng thổn thức – đi rồi về
với em, đừng chết…
Thản âu yếm vuốt tóc vợ động viên:
- Tiền tuyến đang thắng lớn, chẳng mấy chốc giải phóng miền Nam,
khi ấy anh sẽ về hẳn với em, lo gì. Còn việc nữa anh dặn đây.
Mình là gái có chồng phải giữ gìn. Anh vào chiến trường, ở nhà
có đứa nào đêm hôm trêu chọc, em nên báo ngay cho chính quyền để
các anh ấy can thiệp. Nhà mình gần bến sông phải cảnh giác.
- Anh yên tâm, em nhớ.
Trưa hôm sau, Thản khoác ba lô tắt cánh đồng Lác lên chợ Ô đón
xe. Nhưng anh ta chưa về đơn vị ngay. Buổi tối, Thản vào nhà một
người bạn gửi ba lô, mượn bộ quần áo dân sự, chụp chiếc mũ lá
lên đầu rồi lại tắt đồng về xóm Trại.
Thời chiến, xã cấm nuôi chó, làng xóm yên tĩnh lắm.
Mới chín giờ
tối mà mọi nhà đã ngủ yên. Thỉnh thoảng mới có đám dân quân đi
tuần. Một con trống choai nào đó gần trụ sở hợp tác, tự nhiên
đập cánh phành phạch rồi cất tiếng gáy. Tiếng gáy của nó nghe
thật lạc lõng và buồn thảm giữa một không gian luôn tiềm ẩn cái
chết bất chợt tuy nơi đây còn cách chiến trường cả ngàn cây số.
Gần đến nhà, Thản dò dẫm từng bước như một tên kẻ trộm để tránh
gây tiếng động. Khi đã bò vào sát cửa, anh ta áp tai lên vách
nghe ngóng. Quả nhiên trong nhà có tiếng sột soạt rồi một giọng
đàn ông rất khẽ phải thật chú ý mới nghe rõ :
- Hắn có nghi ngờ gì không?
- Không, hắn cả tin lắm. – Luyến thì thầm – Hắn còn dặn em ở nhà
có đứa nào trêu ghẹo thì phải báo ngay Ủy ban.
Gã đàn ông chợt cười thành tiếng :
- Hắn cũng khôn đấy nhưng vẫn còn chỗ hớ…
- Thôi đi, đồ nỡm! – Luyến nũng nịu – Nói thực tình, em không
sợ chồng em bằng con sư tử Hà Đông nhà anh. Anh mà không nẹt nó
đi là có lúc chết đấy.
- Nào, thôi… làm gì mà giận lâu thế.
Những câu đối thoại không đầu không cuối đến đây thì tạm ngừng.
Có tiếng động nhẹ rồi mạnh dần kèm theo những nhịp thở hổn hển,
gấp gáp. Thản sốt tiết co chân đạp thật mạnh. Cánh cửa liếp bật
tung ra và anh lao vào, một tay rọi đèn pile, tay kia khua con
dao thiến lợn, quát :
- Nằm im ! Các người động đậy là mất mạng.
Tay chủ nhiệm vốn lắm mưu mẹo, biết thế nguy, hạ giọng van vỉ :
- Trăm lạy chú Thản, tôi chót dại một lần… xin chú tha cho.
- Cũng được… - Thản cười gằn – nhưng các người phải ký vào biên
bản đã.
Vừa nói Thản vừa quay ra chiếc bàn nhỏ tìm giấy bút. Thế là
nhanh như cắt, Tiệp vơ đống quần áo nhảy xuống định phóng ra
ngoài. Nhưng Thản đã đề phòng. Anh ngáng chân chắn cửa làm gã
gian phu ngã sấp xuống. Tiện tay, Thản đưa xoẹt đường dao, xén
đứt cả một vành tai làm hắn kêu rú lên như lợn cà đang bị thiến.
Vì tội cố ý gây thương tích cho người khác theo Pháp lệnh …ban
hành ngày… tháng …năm…, Thản bị tước quân tịch, phải ra Tòa án
binh lĩnh án tù giam ba năm. Trước khi vào trại, Thản viết đơn
ly hôn, ký sẵn, đề phòng khi xử anh không phải về nữa.
Tôi đoán chừng, ông già vạn chài này phải có mối quan hệ nào đó
với những người trong cuộc nên mới kể chuyện rành rẽ đến như
thế. Đợi cho ông kéo xong mồi thuốc lào, tôi lại tò mò hỏi:
- Rồi sau thế nào hả bác ? Cháu muốn hỏi chuyện anh Thản và cô
Nhuần ấy.
- Điều ấy thì cậu phải tự suy ra chứ còn việc gì phải kể nữa…-
Ông từ từ nhả khói thuốc, trầm ngâm khá lâu rồi mới nói tiếp
bằng giọng buồn buồn - Chẳng biết do tiền oan nghiệp chướng gì
mà đến năm tám mươi chín, tức là năm Kỷ Tỵ, bà Phượng đi lễ đền
Kiếp Bạc, thuyền qua Bến Lở lại bị đắm. Mọi người đều được cứu
sống, chỉ riêng bà cụ tử nạn, mãi ba ngày sau mới tìm thấy thi
thể ở Tuần Châu.
Sáng hôm sau, đúng ngày rằm tháng bảy, tôi ngồi trên sạp thuyền
gỡ những con cá vướng lưới đêm qua giúp ông thuyền chài. Dưới hạ
lưu, một chiếc đò dọc trên sạp bày hương hoa và mâm ngũ quả chèo
ngược lên phía cồn Khoai. Trên thuyền hình như có cả tiếng kèn
thổi điệu Lâm khốc cùng với tiếng khóc nghe rất là ai oán. Tôi
hỏi ông già:
- Hình như thuyền kia mới có người chết?
Ông trùm vạn chài lắc đầu:
- Bà Nhuần cùng cô con gái đi cúng rằm tháng bảy cầu siêu cho
hương hồn ông cụ, bà cụ tử nạn ở Bến Lở đấy…
Giờ thì tôi đã biết ông thuyền chài là ai. Buổi trưa, sau khi ăn
rằm với gia đình ông già, tôi chân thành cảm ơn rồi khoác khăn
gói lên bờ. Từ đấy tôi bỏ hẳn nghề đội cát.
Bến Tuần Châu, 22/5/ 2000 |