Cưới
vợ xong, Hà Thiết vào rừng đốn gỗ làm nhà. Vợ anh là Nông Thị
Nhóng đẹp nhất bản Nà Ngườm. Mấy tháng trước, chánh tổng Bế Hữu
Tài đã đem bạc trắng đến nhà Nông Viết Định hỏi Nhóng cho con
trai là Bế Tòng. Cô gái Tày chưa đến mười bảy tuổi, có cặp mắt
mơ màng như mắt cá Pạc Nhì suối Nậm Thoong, ghét bọn nhà giầu
cậy của khinh người, thản nhiên bảo :
- Bố mế tham bạc trắng gả con cho nhà quan là con nhẩy xuống vực
Thuồng Luồng...
Ông Định sợ bởi hồi đầu năm, chẳng hiểu vì sao, Ma Thị Nhàn, vợ
trước của thằng Tòng, nửa đêm chạy vào rừng ăn lá ngón chết. Mấy
bản quanh vùng, con gái nhà ai cũng sợ về làm dâu họ Bế. Đám
cưới Thiết và Nhóng như cái gai chọc vào mắt Bế Hữu Tài. Lão
không nói ra nhưng trong lòng luôn ngấm ngầm đợi dịp trả thù.
Từ lâu, Bế Hữu Tài đã làm chức việc cho người Pháp. Thỉnh thoảng
lão lại cưỡi ngựa lên đồn Pha Lay ở châu lỵ Bình Xuyên chơi với
quan ba Jacques Duclos mắt xanh mũi lõ. Viên chánh tổng này còn
có biệt tài đánh hơi mùi hổ cốt. Dù ở thung lũng Đá Xám mờ sương
hay trên đỉnh Thiên Phong quanh năm tuyết phủ, nghe tin phường
săn nào bắn được cọp là lập tức lão sai tay chân đến lấy bộ
xương về nấu cao. Dân Bình Xuyên ai cũng thù lão. Bế Tòng giống
hệt tính bố. Nó cậy nhà có nhiều trâu ngựa, lại đựợc quan Tây
che chở, coi thiên hạ như rác. Trong những cuộc chè chén với lũ
đàn em, mỗi khi chuếnh choáng hơi men, gã thường huyênh hoang
tuyên bố :
- Con Nhóng đáng lẽ là vợ tao, thế nào tao cũng bắt về cho mà
xem.
Ngôi nhà sàn của vợ chồng Hà Thiết ở rừng Ken Chải, cách hẳn với
bản Nà Ngườm ba quả đồi. Từ nhiều đời nay, trừ một vài gia đình
người La Hủ ở thung lũng Xín Vàng, còn người Tày, người Nùng
không ai đến ở khu này vì họ sợ một truyền thuyết về vực Thuồng
Luồng. Suối Bạc chảy từ ngọn Cốc Dì qua rừng Ken Chải khoét
xuống thành một vực sâu, nước trong vắt như pha lê. Vào những
đêm trăng sáng thường có cô gái mặt hoa da phấn, tóc đen như
mun, từ dưới nước leo lên tảng đá trắng trên bờ, trút bỏ xiêm
áo, phô ra giữa đất trời tấm thân ngà ngọc mê hoặc những càng
trai trẻ đa tình.
Trai bản không hiếm những kẻ hiếu kỳ, thích ma quỷ đẹp hơn là
người trần kém nhan sắc, chẳng biết sợ là gì, lén lút rủ nhau ra
bờ suối, hy vọng nhìn thấy mỹ nhân trong cảnh thiên thai. Dần
dần bọn này mắc một chứng bệnh kỳ lạ, đó là bệnh quên. Họ quên
ông bà, cha mẹ, vợ con, thậm chí mất hết cả mọi ý niệm về bản
thân mình, suốt ngày đi lang thang tơ tưởng người đẹp dưới thuỷ
cung. Những đêm như thế, dòng suối Bạc lung linh dưới ánh trăng
ngà. Mặt nước sóng sánh hằng hà sa những đốm sáng như vảy cá
chép vàng bắt nắng ban mai.Trong cảnh sắc chập chờn, huyền ảo,
thỉnh thoảng một gã si tình lại nhẩy xuống vực tìm người trong
mộng. Có điều lạ là, ngày hôm sau, người ta không bao giờ tìm
thấy xác nạn nhân. Các bậc cao niên trong bản bảo, chuyện bí
hiểm ấy là do Thần Rừng làm ra, còn những người không tin vào
ma quỷ lại cho rằng đấy chỉ là một thứ huyền thoại nhằm cảnh
tỉnh những kẻ lắm đam mê, nhưng con suối Bạc và vực Thuồng Luồng
thì vẫn còn đến bây giờ.
Hà Thiết là chàng trai mang trong mình hai dòng máu, bố Kinh, mẹ
Tày. Ông Thao lưu lạc đến vùng bình Xuyên từ nhỏ, làm con nuôi
họ Hà, lớn lên được gia chủ cưới cho một cô gái người bản Nậm
Coóng. Ông giỏi nghề mộc, đã từng được quan châu đón lên châu lỵ
làm dinh thự nhưng mệnh số bị hãm, không ở được với vợ con lâu
dài. Cách đây mấy năm, một lần đi rừng về lội qua suối Nậm
Thoong, ông bị nước lũ cuốn trôi.
Biết Nhóng phải lòng Hà Thiết, ông bố xem ra không hài lòng, bảo
con gái :
- Thằng ấy giỏi trai nhưng tao ngại nó là người Kinh. Bọn người
Kinh khôn ngoan mà hay xảo trá. Sống với họ luôn phải cảnh giác,
bởi vì, trong đầu họ luôn có những cái mà người vùng cao ta
không có được.
Nhóng thì không mấy quan tâm đến người chồng tương lai là Kinh
hay Tày mà thề rằng, nếu không được làm vợ Hà Thiết thì suốt đời
sẽ không lấy ai cả. Rốt cuộc, Nông Viết Định cũng phải chấp nhận
chuyện trăm năm của con gái khi mẹ Hà Thiết mang lễ vật sang dạm
hỏi.
Năm ấy mưa muộn, mãi đến cuối tháng tám suối Bạc vẫn còn lũ. Một
buổi chiều, Hà Thiết vác củi từ trên nương về, chợt nhìn thấy
một vật gì giống con chó vện bị dòng nước đẩy giạt vào ghềnh đá.
Anh quẳng bó củi, lại gần xem, thì ra là một chú hổ lạc mẹ, gãy
chân trước, những đám lông vằn vèo dính bết vào da thịt nhợt
nhạt, hai mắt nhắm nghiền trong tình trạng gần như đã chết. Hà
Thiết vác con cọp lên vai, chạy một mạch về nhà bảo vợ đem rượu
mật gấu xoa khắp người cho nó. Nhóng sợ hết hồn, giãy nảy :
- Anh mang ra rừng thả hoặc giết nó đi. Bố con chánh Tòng mà
biết nhà mình nuôi cọp thì chúng không để yên cho mà làm ăn đâu.
Hà Thiết bế con cọp lại gần bếp lửa hơ cho nó khô lông rồi thong
thả bảo vợ :
- Nó còn bé, thiếu sự chăm sóc của mẹ lại bị gẫy chân, bây giờ
thả về rừng là chết đói. Anh nghĩ, con vật cũng như con người,
mình cứu nó nó nỡ lòng nào hại mình.
Con hổ yếu lắm, mãi chiều hôm sau mới liếm được ít cháo trứng
gà. Vết thương khá nặng. Những đoạn xương gẫy trồi khỏi khuỷu
chân đâm ra ngoài khiến nó bị sốt cao, suốt ngày nằm thiêm
thiếp, thở khò khè như đứa trẻ mắc chứng hen phế quản. Sau khi
đắp thuốc, Hà Thiết phải dùng hai chiếc nẹp tre kẹp vào chân con
hổ rồi quấn dây chung quanh để cố định khớp xương. Đi làm thì
thôi, về đến nhà nhìn thấy con hổ là Nhóng lại càu nhàu. Nhưng
rồi thấy chồng hết lòng cứu chữa con vật, chẳng quản ngày đêm
lội suối băng rừng kiếm thuốc, cô cũng dần dần nguôi giận. Mỗi
sáng, trước khi lên nương, Nhóng còn giúp chồng nấu cháo pha mật
ong đổ từng thìa cho con thú. Được chừng mười ngày thì Hà Thiết
tháo nẹp. Vết thương của hổ, nói chung rất lâu khỏi, phải gần
một tháng sau nó mới hoàn toàn bình phục.
Là loài mãnh thú, nhưng vì còn bé nên con hổ vẫn chưa kế thừa
được đầy đủ tập tính di truyền của tổ tiên. Nó hiếu động và
thích gừ gừ khe khẽ như một gã mèo vằn nằm sưởi nắng khi đã được
gia chủ cho đánh chén no nê. Công bằng mà nói, đó là một chú hổ
nhí khá hiền lành, thậm chí nó còn sợ hãi nhảy bổ lên bậc cầu
thang khi nhìn thấy con chó Lài giống Vân Nam cao lừng lững của
Hoàng Đản lúc anh này đến rủ Hà Thiết đi săn lợn rừng. Hà Thiết
đặt tên cho nó là Huổi Vằn, theo tiếng cổ của người La Hủ có
nghĩa là con cọp lông vằn vện. Con vật tỏ ra dễ thương và biết
nghe lời ông bà chủ. Anh không muốn bất cứ ai nhìn thấy Huổi Vằn
nên đã tập dần cho nó quen với những tín hiệu quy định. Khi có
người đến cổng, nghe tiếng huýt sáo của chủ là chú ta cúp đuôi
chạy ngay vào nhà chứa củi.
Nửa năm sau, Huổi Vằn được chăm sóc chu đáo đã thành một chú hổ
choai choai. Cơ thể của nó phải nhiều năm nữa mới đến độ trưởng
thành nhưng dáng dấp đã có vẻ oai phong như bậc chúa sơn lâm.
Ban ngày, con mãnh thú ngoan ngoãn nằm trong chiếc cũi để ở gian
đầu nhà chòi khuất giữa vườn mắc coọc1,
lim dim ngủ. Ban đêm, Hà Thiết thả nó vào rừng kiếm mồi. Huổi
Vằn mải chơi, lang thang trong rừng Cấm hai ba ngày mới về.
Nhưng cũng có hôm, trời còn tối, chưa rõ mặt người nó đã lẳng
lặng tha về một con hoẵng hầu như còn nguyên vẹn để dưới gầm
sàn.
Một hôm, Hà Thiết thả Huổi Vằn sớm hơn thường lệ rồi bảo Nhóng
đem chiếc búa tạ để anh phá cũi. Con hổ thấy lạ, chưa chịu đi,
cứ nhìn chủ rồi gừ gừ trong cổ họng. Hà Thiết vỗ nhẹ vào lưng
nó, giọng dứt khoát :
- Mày lớn rồi, không ở đây được nữa mà phải vào rừng Cấm mới
khỏi bị bọn phường săn rình bắn. Hôm qua, lúc ở bản Tèo về tao
đã thấy anh em thằng Bế Tòng phát hiện dấu chân mày.
Con hổ vẫn còn đang ngơ ngác thì Hà Thiết đã huýt gió chỉ tay
vào rừng:
- Thôi, đi đi ! Thỉnh thoảng về thăm tao.
Huổi Vằn như vẫn còn lưu luyến nhưng khi nhìn thấy ánh mắt ra
lệnh của chủ nó đành bước đi một cách miễn cưỡng. Anh lặng lẽ
nhìn theo cho đến khi nó mất hút giữa những bụi gai móc mèo um
tùm. Con hổ đi rồi, Hà Thiết đâm ra nhớ, còn Nhóng thì mừng ra
mặt. Thỉnh thoảng anh ra bờ suối lấy chiếc tù và bằng sừng trâu
rúc vài tiếng gọi thử dù biết lúc này nó ở mãi ngàn xanh.
Nhưng rồi mấy hôm sau Huổi Vằn về thật. Con hổ uốn thân hình mềm
mại nhảy loang loáng dưới ánh trăng, lúc ẩn lúc hiện giữa những
lùm cây kim tước không hề phát ra một tiếng động nhỏ làm Hà
Thiết giật mình. Anh nhẹ nhàng vuốt cái bờm vàng cháy mượt như
nhung từ ngang lưng đến đỉnh đầu làm con thú khoái chí khẽ gừ gừ
như ngày nào còn bé. Tuy vậy Hà Thiết không dám giữ con hổ lại
lâu. Anh rất sợ những nòng súng nạp đạn ghém của cánh thợ săn Nà
Ngườm. Họ sẵn sàng bắn vào bất cứ mục tiêu nào miễn là hạ sát
được con mồi.
Vào một đêm tháng ba, lúc ấy đã khuya lắm, bỗng có tiếng chó sủa
dữ dội. Không phải Huổi Vằn. Con hổ về thì lũ chó nhất loạt cúp
đuôi, rúm người lại, im thin thít. Chỉ có lợn rừng, hươu nai
hoặc giả là người chúng mới ra oai báo cho chủ mẫn cán đến như
thế. Hà Thiết bảo Nhóng nằm yên trong buồng rồi với cây súng nhẹ
nhàng lần xuống cầu thang. Anh không phải tìm lâu. Theo hướng
chó sủa từ xa, Hà Thiết đã thấy một hình người mặc quần áo sẫm
màu, bùn đất dính bê bết, nằm cạnh hàng rào ở tư thế hoàn toàn
không bình thường. Anh chần chừ không dám lại gần sợ có kẻ nào
đó rình rập chung quanh. Mà có thể lắm. Biết đâu đây lại chẳng
là mưu chước của cha con lão Chánh tổng khi mà chúng còn hận anh
về Nhóng. Lũ chó vẫn cắn dai dẳng. Cậy chủ ở bên cạnh, cả con
Vện và con Mực vừa sủa vừa chạy quanh kẻ lạ mặt đang nằm co
quắp, vẽ thành một vòng cung mỗi lúc một hẹp dần. Dõi mắt quan
sát ba bề bốn bên, thấy không có gì khả nghi, Hà Thiết quả quyết
lại gần. Có tiếng rên rỉ khe khẽ, tiếp theo là nhịp thở nặng
nhọc, mệt mỏi của người bị thương. Anh nạt con Vện tai cúp đang
định thò mõm lôi ống tay áo kẻ lạ mặt :
- Vện ! Ra ngoài kia !
Con chó đã biết tính chủ. Nó lẳng lặng lẩn vào góc vườn nằm
xuống đống vỏ cây, xoải hai chân trước, cặp mắt lim dim làm
nhiệm vụ cảnh giới trong khi con Mực đã bị tống vào gầm sàn đang
rên ư ử.
Kẻ lạ mặt là một người đàn ông chừng bốn mươi tuổi có mái tóc
cứng như rễ tre và bộ râu quai nón lởm chởm lâu ngày không cạo,
giống hệt tên tướng lục lâm đã từng lão luyện trong nghề chặn
đường khách thương hồ đòi tiền mãi lộ. Ông ta bị một phát đạn
vào bắp đùi trái. Vết thương toang hoác, phá ra bằng nửa bàn
tay, tuy chỉ vào phần mềm nhưng đã bị nhiễm trùng, bốc mùi hôi
làm nạn nhân bị choáng. Nghe giọng nói, Hà Thiết biết ông ta là
người Kinh. Trong lòng đầy nghi hoặc, anh nhìn bộ dạng vị khách
không mời một thoáng rồi hỏi bằng tiếng Tày :
- Khách đi chợ bản Then không biết đường lạc vào rừng Cấm à ?
Người đàn ông vểnh hàm râu chổi sể lắc đầu :
- Ta là... Cả Pháo, có dám cho vào nhà không ?
Vậy ra ông khách này là tướng cướp thật. Nghe thiên hạ đồn từ
lâu, giờ Hà Thiết mới giáp mặt. Anh thản nhiên nói với ông trùm
lục lâm :
- Sợ gì ! Ở đây chỉ có mỗi nhà tôi. Các nhà khác trong bản Nà
Ngườm đều cách nửa con dao quăng. Để tôi dìu ông khách lên nhà.
- Anh không sợ chánh tổng Bế Hữu Tài à ?
- Cả bản này thù bố con nó. - Hà Thiết quả quyết bảo - Mà nếu có
kẻ xấu báo Chánh tổng hoặc quan châu Bình Xuyên tôi sẽ đưa ông
vào lũng Vài trong rừng Cấm. Từ lũng Vài có đường tắt sang châu
Lộc Hà.
- Ta chỉ dám nhờ gia chủ vài hôm, vết thương dịu bớt là đi ngay.
- Không vội được đâu. - Hà Thiết lắc đầu ái ngại cho ông khách -
Vết thương của ông nặng lắm, chậm một ngày nữa là hỏng cái chân.
Sáng sớm Nhóng lên rừng hái thuốc. Hà Thiết pha nước muối rửa
vết thương sau đó dùng một loại lá cây lấy ở khe Đầu Quạ trông
tựa vẩy ốc, giã nhỏ trộn với mật ong rừng rịt vào. Thứ lá này có
hoạt tính cực mạnh, vừa có tác dụng sát trùng vừa làm lành những
chỗ đã bị hoại thư. Đây là bài thuốc gia truyền của họ Hà từ
nhiều đời trước. Nó được giữ bí mật ngay cả với người trong bản.
Khoảng già nửa tuần trăng, vết thương đã lên da non, sức khoẻ
của Cả Pháo dần dần hồi phục. Tối hôm ấy, trong lúc nhắm rượu
với thịt nai khô nướng trên than hồng, ông trùm kể cho vợ chồng
Hà Thiết nghe về cuộc đời mình.
Cha Cả Pháo vốn là một nghĩa binh trong quân doanh Đề Thám. Sau
mấy chục năm tung hoành làm cho người Pháp và chính quyền Nam
triều khiếp đảm, cuộc khởi nghĩa Yên Thế đến giai đoạn thoái
trào. Một số thủ lĩnh của nghĩa quân rơi vào tay giặc, bị hành
hạ rất dã man, trong đó có thân phụ ông là suất đội Trần Tung.
Nghe tin dữ, Cả Pháo lúc ấy mới mười lăm tuổi, sợ quá vội bỏ
làng, dắt mẹ đi lánh nạn. Suốt mấy tháng trời, ngày đi đêm nghỉ,
gối đất nằm sương, phải chịu bao nỗi cực nhục, đói khát dọc
đường, cuối cùng hai mẹ con đến được châu Bình Xuyên. Do có sức
khoẻ hơn người, Cả Pháo xin được chân phụ việc cho phường Sơn
Tràng kiếm gạo nuôi mẹ. Phường Sơn Tràng gồm toàn những đối
tượng có thành tích bất hảo, nguyên là bọn tội đồ trốn tránh nhà
tù thực dân đế quốc hoặc những gã đầu trộm đuôi cướp, sống ngoài
vòng pháp luật nhưng trọng nghĩa khí, sẵn sàng xả thân vì lẽ
công bằng.
Mấy năm sau, thấy Cả Pháo là người có đảm lược, tư cách trung
tín, ông trùm phường quý mến bèn truyền võ nghệ cho. Phường Sơn
Tràng toàn đàn ông, nay đây mai đó, không thể đưa mẹ đi theo nên
Cả Pháo đành gửi bà ở bản Noọng Khai trong nhà một người bà con
của Triệu Phí.
Dịp ấy, tri châu Bình Xuyên sức giấy cho các tổng phải tróc nã
bằng được toán lục lâm. Nhưng bọn này có tài xuất quỷ nhập thần,
chuyên lấy của nhà giầu chia cho dân nghèo. Một lần, anh em chạm
trán với chánh Tài ở dốc Mật. Họ đánh bạt toán lính khố xanh có
trang bị cả súng trường, cướp toàn bộ số bạc rồi biến vào rừng
như có phép lạ. Không may, một tên tay chân của chánh Tài nhận
được mặt Cả pháo. Lão cho người dò la tung tích, bất ngờ phát
hiện ra mẹ ông ở Noọng Khai liền mật báo cho tên Bang tá đem
lính bắt giam vào đề lao. Bà là người phụ nữ có khí tiết, bị
quan châu dùng cực hình tra tấn vẫn không khai, đến nửa đêm thì
cắn lưỡi tự tử để khỏi luỵ đến con trai.
Mẹ chết, Cả Pháo vô cùng đau xót. Ông ngẩng mặt lên trời kêu to
ba tiếng, thề không đội trời chung với lũ quan Tây và bọn Việt
gian phản dân hại nước. Mấy năm sau, ông trùm qua đời vì bệnh
sốt rét, Cả Pháo trở thành thủ lĩnh của phường Sơn Tràng với
những chiến tích ngoạn mục từng lưu truyền trong dân bản khắp
châu Bình xuyên như một huyền thoại. Hãi nhất là vụ đang đêm anh
em đột nhập vào dinh Bang tá, đốt nhà, mang hết vàng bạc, bắt
được một tên quan hai Tây cùng với lão khổ chủ về sào huyệt...
Hà Thiết nghe chuyện, phục lắm, bèn hỏi :
- Như vậy ông đã bị cả bọn Phú Lãng Sa mắt xanh mũi lõ và lính
quan châu rình bắt nhiều lần mà vẫn bình an vô sự, thế còn mấy
hôm trước kẻ nào bắn ông?
- Ta không nhìn rõ mặt chúng nhưng ở vùng này chắc chỉ có cha
con lão Chánh tổng...
- Ông Cả đi lối rừng Cấm rồi lội suối về Ken Chải phải không?
Cả Pháo gật đầu :
- Cứ tưởng theo lối ấy thì an toàn nào ngờ lại bị dính đạn. Lúc
ấy trời đã chạng vạng chỉ thoáng thấy một thằng khập khiễng ôm
súng chạy khi ta bắn trả.
- Thằng Tòng đấy. Cái chân thọt là do hắn ngã ở vực Thuồng
Luồng. - Hà Thiết trầm ngâm một thoáng rồi quả quyết bảo - Tôi
nghĩ mãi rồi. Tuy chân chưa khỏi hẳn nhưng ông phải đi thôi, ở
đây lâu sợ chúng tìm ra dấu vết.
- Ta cũng cảm thấy cha con lão Chánh không dễ gì bỏ cuộc khi đã
bắn bị thương con mồi. Anh nói phải. Ơn cứu mạng của vợ chồng
anh kiếp này không báo được đành hẹn kiếp sau vậy.
Nói xong, ông trùm lục lâm quỳ sụp xuống vái Hà Thiết ba vái. Hà
Thiết vội đỡ Cả Pháo dậy :
- Hà tất ông Cả phải làm như thế. Ông là người nghĩa khí bênh
vực dân nghèo, trị tội lũ ác bá, không chỉ chúng tôi mà ngay cả
bà con dân bản cũng sẵn lòng cưu mang. Đêm mai tôi sẽ đưa ông
tắt rừng Ken Chải sang bản Puốn.
- Phải lắm. Ở bản Puốn ta có một người quen là ông Lầu Phềnh...
Mờ sáng hôm sau, Nhóng vừa lùa đàn trâu lên rừng thì cha con
chánh Tài cưỡi ngựa dẫn một toán lính khố xanh đến cổng. Mấy con
chó chạy xô ra sủa toáng lên. Bế Tòng nổ một phát súng "mút"2
thị uy làm lũ chó bị kích động nhảy vọt qua hàng rào thưa lao
vào con ngựa bạch của lão Chánh tổng. Nó bị bất ngờ, hí lên một
tiếng rồi bổ nước đại hất Bế Hữu Tài xuống bờ ruộng bậc thang.
Lão vừa ngượng vừa tức, lồm cồm bò dậy, ra lệnh cho bọn thuộc hạ
bao vây ngôi nhà sàn. Hà Thiết thừa biết chuyện gì sẽ xảy ra
liền đẩy Cả Pháo vào góc nhà, xách cây súng kíp bước ra đầu sàn
hỏi :
- Có việc gì mà ông Chánh đem lính tráng đến nhà tôi từ sáng sớm
?
Lão Chánh hực lên giống như tiếng con lợn độc3
bị sập bẫy :
- Mày muốn sống thì mang thằng tướng cướp ra nộp quan. Ta biết
là hắn đang bị thương nằm trong nhà...
- Này ông Chánh, đừng quen thói gắp lửa bỏ tay người. Ở đây
không có ai là tướng cướp. Ông bảo người nhà về đi, nếu không
đừng trách Hà Thiết này nóng tính.
Chánh tổng cười gằn, hất hàm bảo lũ tay chân :
- Chúng mày vào nhà lôi tên Cả Pháo ra đây. Đứa nào chống lại,
bắn.
Hà Thiết chĩa nòng súng vào lão Chánh dằn giọng :
- Ta thách đấy ! Kẻ nào dám đặt chân lên bậc cầu thang là sẽ
được về với ông vải.
Hà Thiết chưa nói hết câu thì "đoàng", một viên đạn bay sát ngay
cây cột đầu chái làm vỡ toác chiếc hòm trên gác lửng. Thì ra Bế
Tòng, từ lâu vẫn âm ỉ mối hận tình, nay có thời cơ, từ ngoài
cổng đã nhằm vào anh nổ súng. Hà Thiết nép nhanh vào góc khuất,
bình tĩnh chờ. Thằng Tòng nghĩ đối phương đã trúng đạn liền lách
qua hàng rào. Một nửa người hắn vừa thò vào thì Hà Thiết nháy
cò. Con trai lão Chánh vừa ngã xuống, một loạt tiếng súng đồng
thời rộ lên, tất cả đều nhằm vào ngôi nhà sàn. Không kịp nhồi
đạn, Hà Thiết lao vào buồng lấy khẩu súng bắn đạn ria thì đã
thấy Cả pháo chĩa nòng khẩu trường "mút" của ông qua khe cửa
nhằm vào bọn lính khố xanh. Viên đạn hất một tên ngã ngửa ra,
đầu đập xuống tảng đá chắn hàng rào.
Ở trên rừng, nghe tiếng súng, Nhóng biết là có chuyện chẳng
lành. Cô thả trâu rồi ba chân bốn cẳng chạy về. Vừa đến đầu
nhà, Nhóng giật mình thấy phía trước có tiếng hò hét. Nguy rồi,
chắc bọn chức việc đến bắt ông người Kinh phải nhanh chóng chạy
về Nà Ngườm báo cho trưởng bản Lục Phát mới được. Nhưng họ chỉ
có hai người, nếu chẳng may trúng đạn thì nguy. Thử tìm cách lại
gần xem sao đã. Nhóng luồn qua những lùm cây lúp xúp bò dần vào
gầm sàn, ngẩng lên thấy chồng đang nạp đạn. Qua hàng rào đổ, cô
thoáng nhìn thấy Bế Tòng. Thì ra hắn mới chỉ bị thương nhẹ, tay
nó run run rê nòng khẩu súng trường về phía Hà Thiết. Trong
khoảnh khắc tính mệnh chồng ngàn cân treo sợi tóc, Nhóng bỗng
đứng thẳng lên hét to "Anh Thiết, nằm xuống" rồi lao đến chân
cầu thang. Gần như đồng thời, nòng súng của Bế Tòng bốc khói.
Nhóng giật nảy người, chới với một lúc rồi ngã.
Thấy vợ trúng đạn, Hà Thiết uất lắm, quẳng khẩu súng đã vỡ toác
nòng, rút con dao phát rừng định nhảy xuống quyết sống mái với
chúng một phen. Nhưng rồi anh lại nghĩ, không thể liều chết
được. Nhìn sang gian bên, ông Cả cũng hết đạn đang lâm vào thế
tiến thoái lưỡng nan. Bất chợt một ý nghĩ vụt loé lên... Hà
Thiết lật ván sàn, bám cây cột gian giữa tuột xuống gầm nhà,
khom người chạy ra bờ suối, hướng về phía rừng Cấm rúc một hồi
tù và. Anh thổi hai tiếng ngắn lại một tiếng dài. Vừa đúng ba
lần như thế thì từ cánh rừng trước mặt bỗng rồ lên như sắp có
trận cuồng phong. Rồi một con hổ vằn to lớn xuất hiện. Nó chỉ
nhảy vài bước đã vượt qua dòng suối Bạc lao thẳng về ngôi nhà
quen thuộc. Đúng là Huổi Vằn rồi. Với vóc dáng oai hùng của vị
chúa sơn lâm, chỉ bằng cú vờn chớp nhoáng, Huổi Vằn đã táp bay
một nửa đầu Bế Tòng. Những tên lính khố xanh còn lại, chưa kịp
định thần vì quá hoảng loạn, vội vàng quẳng súng ù té chạy.
Nhưng con hổ có vẻ như không thèm đụng đến lũ lâu la mà nó vọt
lên rượt theo tên cai áo vàng rồi chĩa cặp móng vuốt sắc như dao
cạo cào một vệt vào lưng hắn. Lão Chánh tổng là tên ranh ma,
biết đối phương hết đạn, hắn định leo lên cầu thang. Lúc này Cả
Pháo đang trấn giữ ở trên bằng con dao phát rừng to bản khá lợi
hại Hà Thiết chuyển cho. Nhìn thấy lưỡi dao sáng loáng, chánh
Tài khựng lại, đi giật lùi, ghếch nòng súng về phía ông trùm.
Nhưng lão chưa kịp xiết cò thì Huổi Vằn từ ngoài cổng chồm đến
sau khi đã hạ gục tên cai khố xanh. Chánh Tài vốn là tay thợ săn
giầu kinh nghiệm, mặc dù vô cùng khiếp đảm, lão vẫn đủ bình tĩnh
tìm cách tháo lui. Tuy nhiên Huổi Vằn có cách trấn áp kẻ thù
bằng một độc chiêu và luôn bất khả chiến bại. Nhìn thấy họng
khẩu trường "mút", nó lập tức dựng đứng hai chân, cặp mắt sáng
rực như hai đạo hào quang ma quái chiếu vào Bế Hữu Tài rồi gầm
lên dữ dội. Tiếng gầm của ông ba mươi khiến hồn vía lão Chánh
tổng lên mây, ngã vật xuống, miệng sùi bọt. Chỉ đợi có vậy, Huổi
Vằn chồm tới "con mồi" định kết thúc số phận gã Việt gian nhưng
Hà Thiết đã quát :
- Thôi đủ rồi ! Huổi Vằn, về rừng !
Nghe tiếng chủ, con hổ ve vẩy chiếc đuôi dài, chui qua gầm sàn
đến bên Hà Thiết. Anh vỗ vỗ vào lưng nó rồi chỉ tay về phía
trước. Huổi Vằn hiểu ý lững thững ra bờ suối Bạc.
Con hổ đi rồi, Cả Pháo xuống cầu thang đến bên lão Chánh tổng
vẫn còn đang chết khiếp, kề sát hàm râu quai nón vào mặt hắn,
dằn giọng :
- Với tội phản dân hại nước của mày, đáng lẽ phải để con hổ xé
xác hoặc cho một nhát dao phát rừng. Tuy chủ nhà đã tha nhưng
không thể cho mày nguyên vẹn trở về bản rồi sau này vẫn chứng
nào tật ấy.
Nói xong, ông trùm lục lâm rút con dao găm trong người cắt xoẹt
một bên tai khiến lão Chánh tổng rú lên lấy hai tay bưng thái
dương. Hà thiết trừng mắt quát :
- Đi đi !
Buổi chiều, Cả Pháo và Hà Thiết vào rừng Ken Chải đào huyệt chôn
cất Nhóng. Anh ở bên mộ vợ đến chập tối mới về. Cả Pháo thấy vẻ
rầu rĩ của Hà Thiết, thương lắm bảo :
- Bỏ quách cái nhà này đi. Chú theo tôi lên núi dẹp nỗi bất công
cho người nghèo.
Hà Thiết gật đầu :
- Cho nó mồi lửa...
- Phải, ở đời chẳng nên lưu luyến mãi những thứ đã thuộc về quá
khứ.
Sáng hôm sau, hai người lội qua suối Bạc sang bản Puốn. Họ vừa
đi vừa nghỉ vì vết thương của ông trùm lục lâm vẫn còn đau.
Hôm ấy là một ngày âm u. Trên cao, những tảng mây xám xịt, nặng
nề, ướt sũng nước. Trời lại sắp mưa.
1
Một loại lê của người Tày
3Lợn lòi rất
hung dữ, thường đi ăn một mình
|