Ẩn dụ
một đóa mai
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Ngoài sân đêm trước một đóa mai.
Sự hiện hữu đột biến phản diện của một đóa mai, đã đánh lay tâm thức
của người đọc một cách bất ngờ, tạo ra một mối nghi tình cho hành
giả, trong hai câu song thất kết thúc của bài kệ, mà thiền sư Mãn
Giác đã trao cho những người đi sau, nhân lúc cáo bệnh thị chúng của
ngài, chúng vẫn còn tiếp tục chảy không biết bao nhiêu bút mực để
nói về sự hiện hữu của chúng. Vì ở đây, chúng ta mỗi người phàm
tình, đang sống với cảm giác cảm tính chứ không phải trí giác của
trực giác lý tính, do đó mỗi người có mỗi cái nhìn lệ thuộc vào cảm
tính tình cảm thiên kiến của mỗi cá nhân. Vì vậy mọi cái nhìn đều lệ
thuộc vào chủ quan tính, để nói lên cái ngã tính của mình thể hiện.
Ở đây, mọi người đều có quyền thể hiện, nhưng sự thể hiện đó, chúng
được đánh giá như thế nào còn tuỳ thuộc vào tính phổ quát được mọi
người chấp nhận và đồng tình hay không, đó là điều đáng nói; còn
chuyện muốn vượt qua khỏi mức độ cho phép, thì đó là một chuyện
khác, hãy để dành cho đức Phật Di Lặc (hay những vị đạt Đạo) sau này
ra đời giải quyết nghi!
Ẩn dụ của một đóa mai theo ngôn ngữ luận lý tương đối, chúng ta có
thể có khả năng tháo gỡ bóc vỏ để chúng hiện hữu như chính chúng,
trong việc phân tích bằng vào ngôn ngữ mà mọi người có thể chấp nhận
được thì trước hết, chúng ta phải biết qua xuất xứ của bài kệ này,
để từ đó đánh giá đúng hơn về tư tưởng ẩn dụ này qua bài kệ, sau nữa
là người viết và người đọc phải tham dự vào, tiến trình động não
phân tích qua pháp phủ định những nguyên tắc, tưởng chừng như là
một chân lý khó phá vỡ vượt qua, do kinh nghiệm thói quen tập quán
mang lại trên mặt hiện tượng.
Trước khi thị tịch ngài có để lại cho chúng ta một bài kệ nhân khi
ngài cáo bệnh dạy chúng:
" Xuân đi trăm hoa rụng,
Xuân đến trăm hoa cười.
Việc đời qua trước mắt,
Già đến trên đầu rồí!
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Ngoài sân đêm trước một đóa mai".
(Thiền Uyển tập anh).
Qua xuất xứ bài kệ dạy chúng trước khi người thị tịch và nội dung
của chúng, đã kết hợp đủ để chúng ta có một cái nhìn tổng quát về
mặt hiện tượng (tướng-dụng) và ẩn dụ (thể).
Đứng về mặt hiện tướng là một vị thiền sư, ngài nói lên cái chức
năng của một người dẫn đường trước khi mình qua đời, để cảnh tỉnh
những người còn lại sau này qua việc sống-chết. Cho dù bằng vào
những kinh nghiệm sống, những thói quen tập quán, mà con người đã
rút ra được những chân lý mang tính phổ quát được mọi người chấp
nhận đi nữa, thì đó cũng chỉ là một thứ chân lý của tương đối thôi .
Vì sao? Vì việc đến đi của mùa xuân chúng tùy thuộc vào vô thường,
nếu không có vô thường thì sẽ không có đến-đi, và không có đến-đi
thì sẽ không có mùa xuân. Do đó, việc: " Xuân đi trăm hoa rụng, xuân
đến trăm hoa cười." chỉ là hiện tượng biến dịch (vô thường) THƯỜNG
chứ không gì khác. Ở đây, chúng biểu trưng cho việc sống chết của
con người mà lý vô thường luôn được hiện hữu một cách thường xuyên,
để thể hiện luật tắc Duyên khởi trong hiện tướng
(trongThành-trụ-hoại-không) của các pháp. Chỉ vì chúng ta không nhìn
ra được cái lý ẩn của: " Việc đời qua trước mắt, Già đến trên đầu
rồi", nên từ sự vô thường bất toàn của các pháp, con người đâm ra
ham sống sợ chết, sống vui chết buồn, và cũng từ đó mọi sự sợ hãi
được hình thành, ám ảnh con người, để rồi các thứ bệnh tà kiến phân
biệt chấp trước đua nhau xuất hiện trong cái lòng tin mù quán của
mọi người. Đây cũng là điều mà chính đức Phật đã dạy trong kinh
Kamala: " Đừng vội tin tưởng vào bất cứ điều gì mà chúng ta thường
nghe nhắc đi nhắc lại luôn luôn. Đừng vội tin tưởng vào điều gì mà
điều đó được coi như là một tập tục từ ngàn xưa để lại. Đừng tin
tưởng vào những sáo ngữ mà người ta thường đề cập đến luôn. Đừng tin
tưởng bất cứ điều gì dù đó là bút tích của thánh nhơn. Đừng tin
tưởng vào điều gì dù là thói quen từ lâu, khiến ta nhận là điều ấy
đúng. Đừng tin tưởng một điều gì do ta tưởng tượng ra mà lại nghĩ
rằng do một vị tối linh đã khai thị cho ta. Đừng tin tưởng vào bất
cứ điều gì mà điều đó chỉ dựa vào uy tín của các thầy dạy cho các
người. Nhưng chỉ tin tưởng vào cái gì mà chính các người đã từng
trải, kinh nghiệm và nhận cho là đúng, có lợi cho mình và người
khác. Chỉ có cái đó mới là đích tối hậu thăng hoa cho con người và
cuộc đời. Các người hãy lấy đó làm chỉ nam cho mình". Chính vì sự sợ
hãi trước cuộc sống-chết của chính mình, qua những biến động đổi
thay của vô thường luôn luôn hiện hữu bên cạnh, nên lòng mê tín dị
đoan của chúng ta nổi dậy tin chấp tà kiến vào những thế lực bên
ngoài, để rồi bị chúng cuốn hút luôn, không làm chủ được mình. Do
đó, Thiền sư Mãn Giác mới cảnh giác chúng của ông và những người đi
sau như chúng ta, qua pháp phủ định những xác định mà người đời đã
coi chúng như là một thứ chân lý, qua hai câu song thất của bài kệ:
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Ngoài sân đêm trước một đóa mai.
Qua pháp phủ định này, trước hết đứng về mặt biểu hiện, thì sự hiện
hữu của một đóa mai, không bị lệ thuộc vào việc xuân đến hay là xuân
đi như chúng thường được chấp nhận một cách tự nhiên, được coi như
là một thứ chân lý xưa nay theo kinh nghiệm: " Xuân đi trăm hoa
rụng, xuân đến trăm hoa cười." theo tiến trình thời gian, phân bố
điều trong một năm qua bốn mùa xuân-hạ-thu-đông. Như vậy có nghĩa là
chúng sẽ hiện hữu vào bất cứ lúc nào, khi những điều kiện duyên cùng
hoàn cảnh môi trường chung quanh, đủ cho phép để hiện khởi thì chúng
hiện hữu. Đó là chỉ nói đến một sự hiện hữu chưa được xác định qua
phủ định, nhưng ở đây chúng ta được thiền sư tự xác định thời gian
và nơi chốn hiện hữu của chúng qua câu hai: " Ngoài sân đêm trước
một đóa mai". Vậy ở đây, đêm trước là đêm nào? và chúng thuộc vào
mùa nào trong năm? điều này cũng dễ thôi nếu chúng ta biết liên hệ
đến thời gian cáo bệnh để dạy chúng của người . Theo tiểu sử thì
ngài nói ra bài kệ này cùng ngày trước khi ngài thị tịch, như vậy
ngày ngài qua đời là ngày 30 tháng 11 năm Hội phong thứ 5 (1096).
Qua đây chúng ta đã xác định được ngày tháng năm và nơi chốn đóa mai
hiện hữu. Chính sự hiện hữu của đóa mai này đã nói lên được: thứ
nhất sự phủ định của ngài đã đánh đổ đi được những lệ thuộc ước lệ
thời gian từ ngàn xưa để lại, mà mọi người trong chúng ta đã từng
chấp nhận như là một chân lý. thứ hai sự hiện hữu của đóa mai có thể
là bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào miễn có đầy đủ mọi duyên cùng hoàn
cảnh môi trường chung quanh cho phép thì chúng sẽ hiện hữu. Mai nở
vào mùa đông có gì không phải ? Hiện tại khoa học dư sức để tạo môi
trưòng về việc này, ngay đến việc tác tạo ra thai nhi trong ống
nghiệm họ còn làm được, qua việc trích ly tinh trùng và noãn sào của
người đàn ông và đàn bà phối hợp với nhau, cùng tạo môi trường dinh
dưỡng đầy đủ v.v... thì thai nhi hiện hữu và lớn lên. Cũng vì việc
tác tạo thai nhi trong ống nghiệm của các nhà khoa học, mà họ đã
từng bị một số tôn giáo phản đói . Nhưng đó là việc của tôn giáo,
còn khao học vẫn là khao học, khoa học không phải vì thế mà chúng
mất đi giá trị chân lý của chúng. Chân lý vẫn là chân lý khi khao
học là biểu tượng cho những thành tựu chân lý của chính nó, trong
khi tư tưởng phản khoa học chúng là vật cản đường để đi đến chân lý,
những thứ nọc độc cặn bã này rồi cũng sẽ bị thời gian đào thải mà
thôi. Qua đây đủ nói lên tính ưu việt của thuyết nhân duyên sanh
khởi của đạo Phật, mà qua đó khoa học càng ngày càng nhận thấy,
những kết quả thực nghiệm của họ khám phá ra trong hiện tại, luôn
luôn tương ứng và khế hợp với những lời dạy của đức Phật cách đây
hơn hai ngàn năm.
Đứng về mặt ẩn dụ một đóa mai, thiền sư Mãn Giác nhằm trao cho những
người đi sau đức vô úy trước việc sống-chết của đời người, và nói
lên sự hiện hữu của cái "Bản lai diện mục" của các loài hữu tình nói
riêng, và vạn vật vô tình nói chung. Chúng luôn luôn tồn tại và biến
dịch trong từng sát na một, chúng luôn tùy thuộc vào các duyên đủ để
hiện khởi, và biến khác đi nhờ lý vô thường tác động để hình thành
luật tắc " vô thường tức thị thường". Ở đây, trong tất cả những
duyên đủ để hình thành sự hiện hữu của một vật, thì các loài hữu
tình chỉ khác với loài vô tình về nghiệp lực qua năm uẩn (Về vật
chất (sắc): đất, nước, gió, lửa, không. Về tinh thần (tâm): thọ,
tưởng, hành, thức) mà thôi.
Như chúng ta biết tiến trình sinh hóa của vũ trụ vạn vật chúng luôn
tùy thuộc vào các duyên đủ để hiện khởi, do đó việc đóng khung vào
những hiện tượng bên ngoài theo kinh nghiệm, để phân chia cắt xén
thời gian và, áp đặt lên nó một nhãn hiệu nào đó theo đạo Phật điều
đó là một việc làm sai lầm. Cũng đứng trên quan điểm này thiền sư
Mãn Giác dùng "đóa mai" làm ẩn dụ cho "Bản lai diện mục" của mỗi
chúng ta. Bản lai diện mục này không những chỉ hiện hữu trong kiếp
này để rồi biến mất sau khi chết đâu, mà chúng hiện hữu bất cứ lúc
nào và bất cứ nơi đâu trong ba cõi sáu đường luân hồi này nếu đủ
duyên, việc đủ duyên ở đây chúng tôi muốn nói đến y báo và chánh báo
của nghiệp. Như vậy vấn đề sống-chết hay sinh-diệt của các pháp ở
đây chúng tôi chỉ mới nói đến Phân đoạn sanh-tử chứ chưa đề cập đến
vấn đề Biến dịch sanh-tử. Cũng như đóa mai chúng sẽ nở ra bất cứ mùa
nào trong năm cho dù là mùa đông nếu hội đủ các điều kiện của mùa
xuân thì chúng hiện hữu.
Qua pháp ẩn dụ này tuy chúng ta đã được thiền sư Mãn Giác hướng dẫn
cho chúng ta một cách nhìn đúng về sự hiện hữu và biến dịch của của
cái Bản lai diện mục chính mỗi người qua pháp phủ định, và chúng sẽ
hiện hữu - biến dịch vào bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu trong ba
cõi sáu đường. Nhưng ở đây có một điều quan trọng là chúng ta chưa
thấy được bộ mặt thật của cái Bản lai diện mục của chúng ta như thế
nào? Điều này là một vấn đề cần thiết cấp bách dành cho việc nổ lực
thực hành.của mỗi chúng ta, mà thiền sư Mãn Giác cần nơi chúng ta tự
giải quyết nghi.
|