Hồ
Hữu Tường,
và "Người Mỹ ưu tư"

Chân
dung Hồ Hữu Tường
Tạ Tỵ phác họa ngay sau khi ông ra khỏi khám tử hình Côn Đảo
dưới triều Ngô Đình Diệm. |
Viết về Hồ Hữu Tường, có lẽ một bài không đủ. Bởi
có quá nhiều chi tiết về chân dung con người ấy. Nguyên cuộc đời của
ông, cũng là một đề tài. Những ngày tù tôi, từ khám tối của thực dân
Pháp, đến khám tử hình của chế độ Ngô Đình Diệm rồi khám Chí Hòa
của Cộng sản và chết trong tù ngục đỏ. Thời gian bị cầm giữ với ông
lại là những ngày để suy tư và tâm thức luôn bay bổng vượt qua những
rào cản để tới những viễn kiến cho những phương trời rộng mở. Rồi
ông là một học giả, một chính trị gia, một nhà văn, và cũng là người
theo Cộng sản Đệ Tứ rồi rời bỏ, đi làm cố vấn cho Bảy Viễn nên bị
chế độ Ngô Đình Diệm kết án tử hình, rồi lập thuyết, tìm một “minh
đạo“ cho văn hóa Việt Nam. Sang thời kỳ đệ nhị của chính thể VNCH,
ông trở thành dân biểu, và viết “Người Mỹ ưu tư”, gửi thư cho John
Steinbeck, người đoạt giải Nobel văn chương và hậu thuẫn cho sự can
thiệp quân sự của Hoa Kỳ vào Việt
Nam.
Với tôi, tôi đã đọc truyện Hồ Hữu Tường từ khi
bắt đầu vào trung học khi tìm thấy sách của ông ở những tiệm cho
mướn sách. Tôi đọc truyện kiếm hiệp song song với đọc Hồ Hữu Tường.
Tôi đọc bộ sách “Gái Nước Nam làm gì?” với Thu Hương, Chị Tập, cũng
như đọc bộ “Ngàn Năm Một Thuở“ với Phi Lạc Sang tàu, Phi Lạc bỡn
Nga, Phi Lạc náo Hoa Kỳ. Những nhân vật như thằng mõ Cổ Nhuế, thằng
mõ Phù Ninh,… đã làm cho tôi hồi đó chỉ thấy được cái nét châm biếm,
như một chuyện tiếu lâm mà không để ý đến những điều sâu xa hơn từ
cách thế trào lộng. Với một đứa bé hơn mười tuổi, đọc để mà đọc
nhưng đã vô tình tạo một tâm thức trong trí óc non nớt của tôi lúc
ấy. Tôi đọc Thu Hương, Chị Tập, để biết những người kháng chiến
chống Pháp thời đó ra sao và có một chút ngưỡng mộ với những anh thư
ấy…
Nhân vật chính của bộ truyện này là hai người phụ
nữ tiêu biểu cho hai thành phần trong xã hội cùng tham gia trong
cuộc đấu tranh chống Pháp. Thu Hương thuộc thành phần trí thức tiểu
tư sản sống ở thành thị trong khi Tập thuộc thành phần lao động ít
học. Thu Hương là nữ sinh viên trường Y Khoa Hà Nội, đảng viên của
một đảng cách mạng bí mật, là một cô gái kiên cường có bản lãnh, đã
thi hành những công tác nguy hiểm như tổ chức cướp sân khấu để tuyên
truyền, ám sát bọn chó săn cũng như viên chức Pháp giữa thành phố…
Còn chị Tập là một người thuộc giới cùng đinh, bị cha mẹ bán lấy
tiền, trải qua nhiều nỗi khổ đau, bị tù tội, đầy ải sống chung với
những người cách mạng và cả những tên đầu trộm đuôi cướp. Khi được
tha khỏi trại giam, Tập trở thành một đảng viên nồng cốt tham gia
những việc như làm thổ phỉ, buôn lậu, tổ chức cướp vũ khí của quân
Nhật, xây dựng căn cứ địa để đánh Pháp… Bộ truyện này có nhiều diễn
tiến mạnh, tạo được những hình ảnh của những người phụ nữ, không kể
lao động hay trí thức, hết mình hy sinh cho đất nước…
Còn ở bộ “Ngàn Năm Một Thuở”, tôi tìm thấy những
nét trào phúng từ nhân vật Phi Lạc. Một người đậm nét của xã hội
bình dân Việt Nam, dốt nát nhưng lại hay khoe khoang chữ nghĩa,… rất
tự cao tự đại nhưng lại xun xoe nịnh hót những người có quyền thế để
thủ lợi, cũng như đầy đủ những cá tính tiểu sảo vặt. Những cá tính
thời đại này không phải chỉ có tiếng ở nhân vật Phi Lạc mà còn thấy
nhan nhản những con người như thế ở chung quanh trong xã hội. Từ
thằng mõ đến ông tiên chỉ, rồi đến các nhà bác học, những vị anh
hùng,… tất cả từ đời trước đến đời sau, như trong một tấn tuồng bi
hài mà ở đó sự có lý và vô lý như bàn tay lúc ngữa lúc úp, thay đổi
dễ dàng như trong một hài kịch có khi bi thảm, có lúc nực cười…
Trong Phi Lạc Sang Tàu, câu chuyện về nguồn cội
của nhân vật bắt đầu cho một tấn tuồng ảo hóa. Vai chính là thằng
mõ làng Phù Ninh, vô học nhưng đầy khóe lường gạt lại mồm mép giả
danh là hậu duệ họ Hồ của tông tộc Hồ Thơm Nguyễn Huệ. Lại có một
tên lừa bịp khác là thằng mõ làng Cổ Nhuế, muốn phá đám tên mõ làng
Phù Ninh nên bán đứt cho một vị sư từ Tàu qua tên là sư Hồng Hạc.
Ông này là một vị chân tu có sứ mạng là qua Việt Nam tìm đến “thảo
lư” tìm kiếm một vị vạn đại quân sư như Khổng Minh đời Tam Quốc xưa
để thành một thánh sư đời nay để trong mưu vọng phục quốc phản Thanh
phục Minh… Những nhân vật này được xếp đặt trong những cục diện,
những tình thế tròng tréo, viết theo kiểu truyện Tàu với những hồi,
với những chương nối tiếp nhau. Truyện thâm ý bài xích cái tinh
thần vọng ngoại và cái tập tục ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc. Từ chữ
nghĩa, tới tên địa danh, tên nhân vật,… đều là những biểu tượng có
hai nghĩa, có hàm ý mỉa mai, và ở trong những điều kiện ràng buộc
với nhau như trong một bố cục liên hệ. Những câu hỏi liên tiếp
nhau. Tại sao sư Hồng Hạc lại đi kiếm thánh sư ở phương
Nam? Tại sao lại đến làng Phù Ninh? Tại sao lại liên lạc với mõ làng cổ
Nhuế? Tác giả đã nối các chi tiết với nhau. Sư Hồng hạc qua Việt
Nam vì sấm truyền của Minh Thái Tổ để lại và đến làng Phù Ninh bởi
vì làng này là nơi sinh trưởng của công chúa Ngọc Hân thì chắc là
phải có hâu duệ của Hồ Thơm Nguyễn Huệ. Và liên hệ với làng Cổ Nhuế
bởi vì làng này nổi tiếng là buôn phân người nhưng đồng thời cũng là
làng có nhiều nhân tài và nhiều người đỗ đạt nhất. Những chi tiết ấy
trộn lẫn với nhau, rối nùi trong cái mê đồ để khiến người đọc nghĩ
đến những trò đành hanh của con tạo, của những bất ngờ, những cái
duyên có khi tình cờ có khi là hậu quả của những trò đùa của cuộc
đời. Trong đó, cái hóm hỉnh của truyện Trạng Quỳnh, cùng cái chửi
đời châm biếm của Ba Giai, Tú Xuất, làm nổi bật lên chủ đích của tác
giả. Hầu như mọi giá trị đều bị đảo lộn, những câu khoác lác, những
trò lừa bịp lại có ảnh hưởng rộng lớn, và bao nhiêu người tài giỏi
trên đời này nhiều khi lại thua mưu kém trí những tên vô học bởi
những trò tiểu sảo tầm thường. Những lý thuyết nhiều khi trống rỗng
và các danh nhân nhiều khi chỉ là cái bóng mờ nhạt… Đọc tới đoạn
thằng mõ, thuộc giai cấp mạt hạng trong xã hội mà lại luận đàm
thuyết lý, nói chuyện tế thế an dân với những Khổng Minh, những Hồ
Thích, có phải là một hài kịch được dàn dựng để trong đó gờn gợn
những ý tưởng phản kháng xã hội và xét lại tất cả những gì được gọi
là khuôn vàng thước ngọc của xã hội…
Lớn lên một chút, tôi đọc “Tương lai văn hóa Việt
Nam”,
một tác phẩm mà tôi nghĩ là những suy tư khởi đầu của ông để từ văn
hóa bước sang những phạm vi khác như chính trị, tôn giáo, xã hội… để
thành một người lập thuyết. Hồi nhỏ thì không ảnh hưởng lắm nhưng
bây giờ đọc lại, tôi thấy có những suy nghĩ tới bây giờ vẫn còn giá
trị. Trước hết, đây là những tâm huyết của một người muốn nói những
điều mà biết rằng sẽ có ít âm vọng nếu không nói là tiếng kêu trong
sa mạc.
“Tôi muốn cất tiếng mà kêu to. Kêu thật to để ai
nấy cùng nghe. Tôi muốn có một giọng tha thiết. Thực tha thiết để ai
nấy cùng cảm. Tôi muốn có những luận điệu đanh thép. Thực đanh thép
để ai nấy cùng tin. Nghe, cảm, tin… để cùng tôi đem một cái vinh
quang chưa hề có trên quả địa cầu về cho dân tộc ta, dân tộc Việt…”
Câu văn biền ngẫu, ý hướng tha thiết, tác giả Hồ
Hữu Tường còn muốn vạch ra một con đường văn hóa, thoát khỏi ảnh
hưởng của Trung Quốc và Tây phương. Theo ông, “Văn trong
nghĩa cầu nguyên của nó là đẹp đẽ, là hiền lành, trái với võ là hung
bạo. Hóa trong nghĩa cầu nguyên của nó là thay đổi. Hia chữ
đó mà ghép lại thì tôi cho rằng đó là cái gì làm cho người ngày càng
cao quý hơn, đẹp đẽ hơn, làm cho người (hạ tiện, xấu xa) hóa ra
Người (cao quý, đẹp đẽ)…”
Ông cho rằng mọi ý thức hệ chỉ có tác dụng trong
một thời điểm mà thôi trong ý nghĩa tích cực của nó. Nhưng khi không
còn thích hợp với cuộc sống thì nếu không bị triệt tiêu đi mà còn
tồn tại sẽ thành những chướng ngại vật chống cản lại chiều hướng
phát triển và ở trong một ý nghĩa tiêu cực sẽ thành một hiểm họa cho
nhân loại. Như vậy, chúng ta phải xây đắp một nền văn hóa dân tộc,
luôn luôn thay đổi theo chiều hướng phát triển của cuộc nhân sinh và
thoát ra được sự kềm hãm và chi phối của các ý thức hệ lỗi thời. Con
đường ấy, không bị chi phối bởi Đông hay Tây phương, nhưng kết nạp
và thu liễm những tinh túy của người để biến thành của mình. Con
đường ấy mệnh danh là con đường văn hóa, và nâng cao trình độ và vị
thế của con người.
Tác giả còn cho rằng Tây phương chưa có văn hóa mà
chỉ có quái hóa. Quái hóa ấy có thể tạo thành ở hình thức văn
chương, nghệ thuật, triết học, khoa học… nhưng ở nội dung thì chỉ là
những phương tiện để đi chinh phục. “Chính quái hóa này đã biến đổi
những tư tưởng đẹp đẽ như “tự do, bình đẳng, bác ái, thành phương
tiện, thành khí giới để chinh phục. Quái hóa đã xui khoa học chế ra
đại bác, chiến xa, tàu chiến, phi cơ, hơi ngạt, vi trùng, bom nguyên
tử để giết người, để chinh phục kẻ yếu, để đè nén áp bức chúng ta…”
Và ông kết luận : ”Văn hóa làm cho con người trở
nên Người. Quái hóa biến văn chương, nghệ thuật, triết học, khoa học
thành phương tiện. Bởi nó không theo con đường nhân bản. Còn mượn
Đạo học của Đông phương ư? Nhưng ở Đông phương chỉ có thuật tu
dưỡng, chớ đã có văn hóa bao giờ?”
Cái độc đáo và cũng là đầu đề tranh cãi khi ông
cho rằng cả Đông lẫn Tây phương không có văn hóa. Ông tạo ra con
người có khuynh hướng “mở” biết thay đổi để có một tiến trình nhân
bản đến chân thiện mỹ. Văn hóa luôn ở trong trạng thái động, là một
thái độ, một phong cách luôn luôn suy tưởng kiếm tìm.
Cuộc đời văn học của Hồ Hữu Tường có nhiều giai
đoạn sáng tác khác nhau. Mới đầu, ông chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa
Mác Lênin theo khuynh hướng đệ tứ và thời gian này ông coi như là
những năm tháng ô nhục của thời gian lầm đường lạc lối. Ông không để
lại một chút gì dấu vết lưu lại bởi vì ông chối bỏ lối lập luận kiểu
duy vật biện chứng. Sau khi từ bỏ chủ nghĩa Cộng sản, ông bị Pháp
bắt giam đầy đi Côn Đảo lần thứ nhất và ông suy nghĩ đến một hệ
thống tư tưởng mới độc lập với các hệ tư tưởng ngoại lai như Pháp,
Tàu, Nga, Mỹ,.. mà ông gọi là chủ nghĩa dân tộc. Rồi tiếp theo là
thời kỳ ông nghiên cứu để viết lên những suy tư mới về xã hôi, kinh
tế, chính trị, dân tộc. Thời kỳ này ông viết Tương Lai Văn Hóa Việt
Nam. Ông có cách nghiên cứu tìm tòi của một học giả và sự luôn luôn
khao khát với cái mới đã thúc đẩy ông trong biệc thiết lập một hệ tư
tưởng riêng biệt của dân tộc.
Sau khi bị chế độ Ngô Đình Diệm kết án tử hình và
đầy đi Côn Đảo lần thứ ba, ông viết rất nhiều và sau này in lại như
Kế Thế, Hồn Bướm Mơ Hoa, Thuốc Trường Sanh, Trầm Tư của Một Tên Tội
Tử Hình…
Sau năm 1963, ông tiếp tục sáng tác với những tiểu
thuyết như Chuyện con thằn lằn chọn nghiệp, Thằng Thuộc con nhà
nông,... và Hồi ký 41 năm làm báo.
Có một tác phẩm khá đặc biệt là Người Mỹ Ưu Tư,
một cuốn sách được in với ấn bản viết bằng tay của tác giả. Mới đầu
được in hàng ngày trên nhật báo Sống và sau có một phong trào xin
chữ ký giới thiệu để đề cử vào giải Nobel văn chương. Theo bác sĩ
Trần Ngươn Phiêu là người khỡi xướng công việc này thì đã có tới hơn
mười ngàn chữ ký để đề cử. Ông viết về một đề tài lúc đó tới giờ hơn
bốn chục năm mà vẫn còn chất sống động của thời thế. Vấn đề con lai
mà về sau này chính quyền Mỹ đã phải giải quyết để có hàng chục ngàn
con lai được định cư ở Hoa Kỳ nơi quê nội của họ.
Trong 5 bức thư gửi cho John Steinbeck, giải
Nobel văn chương, coi như lời nói đầu của bộ truyện, Hồ Hữu Tường đã
viết:
“Ở xứ tôi những nhà văn không tên tuổi thường dùng
một cái thuật để tiến thân như sau đây hễ thấy một áng văn chương
được nhiều người hoan nghinh thì họ bèn viết nối theo áng văn chương
nọ, với đầy đủ những nhân vật của áng nọ, và nếu cần thì có những
con, những cháu thêm vào. Thuật ấy gọi là cái thuật viết “hậu”. Trên
văn đàn quốc tế tôi không có tên tuổi. Tôi bèn dùng cái thuật viết
“hậu” ấy mà tháp tác phẩm của tôi vào tiểu thuyết của Graham Greene,
mà gá thân một chút xíu gì của những vấn đề của tôi, nhưng vẫn để
cho độc giả nào đã đọc The Quiet American cũng bị cám dỗ bởi cái
nhan đề “hậu” The Unquiet American.
Tuy nhiên nhân vật chánh của sáng tác của tôi phải
là Pyle, phải là Phượng (hay phải là con của họ nếu cần), phải là
tất cả những nhân vật đã sống trong tiểu thuyết của Graham Greene.
Có gì hay bằng điển hình một nhân vật Amerasien bằng một đứa con
chung của Pyle và Phượng? Đứa con ấy, tôi đặt tên cho là Loan, một
đứa con gái năm ấy được mười lăm tuổi!”
Với cách nói và diễn tả của Hồ Hữu Tường, lòng
vòng, thường xử dụng ngôn ngữ gián tiếp, những câu chuyện kể trở
thành những chuyện ngụ ngôn nhiều ẩn ý. Ông mượn những chuyện đời
xưa tới đời nay, từ chuyện dương gian đến chuyện âm phủ, để thành
những nối tiếp của những suy tư nhiều khi không liên hệ với nhau
nhưng lại là những gợi ý để khơi mở sang những ẩn dụ, những hình
tượng khác..
Ông viết cho Steinbeck:
“Người phương Tây của ông ít khi bận rộn về những
suy tư, tôi không dám nói là siêu hình mà tôi xin nói là “ngoại
hình” như vậy. Người Việt chúng tôi, mấy nghìn năm trước ở vào vùng
ảnh hưởng của Ấn Độ trước khi bị ảnh hưởng của Trung Hoa từ miền Bắc
tràn xuống. Nên chi tâm tư của chúng tôi ngày nay không ít thì nhiều
phảng phất những nét ngoại hình như vậy. Mà những nét ấy coi chẳng
ra sao lại cứ ám ảnh chúng tôi mãi…
Pyle chỉ là một oan hồn phiêu bạt, làm sao mà sống
được một đoạn lịch sử vô cùng sôi động của đất nước chúng tôi. Để
rồi chứng kiến sự nổi loạn của Phượng và Loan và để bưng chén mật
tương thân mà uống khi chứng kiến Loan xuống tóc mà làm một ni cô,
một ni cô mang một bào thai Amerasian mà chính nàng cũng là một
Ameriasian nữa.
Thế giới ngày nay là một thế giới “bốn biển một
nhà, năm châu một chợ”. Sự lai chủng tộc là một sự hiển nhiên, không
sao tránh được. Cũng như rất hiển nhiên là chúng ta đang sống trong
thời nguyên tử.
Tinh lưc nguyên tử mà ta cho nổ thì nó tàn sát
biết bao nhiêu người? Tinh lực nguyên tử mà ta áp dụng để phụng sự
hòa bình thì kết quả tốt đẹp là bao? Sự lai chủng tộc mà ta cho nổ
thì nó gây ra bao nhiêu rắc rối cho nhân loại? Sự lai chủng tộc đã
cho nổ rồi mà ta lại thêm nuôi các đương sự bằng những “chùm nho uất
hận” thì ta có thể đo lường nổi sự tai hại của nó chăng?..
Tôi nói rằng Pyle là người Hoa Kỳ ưu tư. Mà chính
tôi cũng là người ưu tư. Và tôi muốn rằng sự ưu tư của tôi được
truyền nhiễm đến ông, đến tất cả những người Hoa Kỳ là “bên nội“ của
đám Amerisian này. Vấn đề Amerisain là một vấn đề quốc tế của thời
“bốn biển một nhà, năm châu một chợ” Tôi cảm thấy rằng đem những
“chùm nho uất hận” mà giải quyết vấn đề này chỉ đem thêm hận thù mà
chồng chất lên bất công. Vì lẽ đó mà tôi kính tặng loạt thơ thay lời
tựa này cho tác giả của “Chùm Nho Uất Hận”.
Tiểu thuyết “Người Mỹ ưu tư” quả là “hậu” The
Quiet American, tiểu thuyết của Graham Greene, cũng với những nhân
vật ấy. Và, Fowler, nhân vật ký giả người Anh lại đóng vai người kể
truyện. Thêm một nhân vật, là Loan, đứa con lai của Pyle (người Mỹ
bị giết chết trong The Quiet American) và Phượng. Câu chuyện bắt đầu
như một truyện ma quái. Fowler gặp hồn ma của Vigot, một viên chức
mật thám Pháp lai để được dẫn đến một cái cốc hoang vắng gặp một
hồn ma thông thái đã đậu bằng tiến sĩ văn chương ở Pháp với một luận
án về Pascal. Và sau cuộc gặp gỡ này Fowler ngủ li bì một giấc đúng
15 ngày mới tỉnh dậy. Dù là cơn mê gặp gỡ những người âm nhưng anh
vẫn còn giữ được hộp trà có bốn hình tiên nữ với 4 câu thơ chữ hán
bắt đầu bằng bốn tiết: Thanh minh, Tiểu thử, Hàn lộ, Tiểu hàn. Sự
việc quái dị ấy và những câu chuyện luận đàm thế sự, triết lý cuộc
sống đã gieo vào đầu óc chai sạn của Fowler những ý nghĩ siêu hình
của phương Đông. Còn Vigot, thì bị chết đuối ở Vũng Tàu, chỉ 5 phút
sau khi từ trần đã dẫn Fowler đến cái cốc hoang vắng như đã kể ở
trên. Một sự kiện quái dị khác là khi Vigot sống lại thì bị linh hồn
Pyle nhập vào. Thành ra Pyle là Vigot và ngược lại Vigot là Pyle,
một mà hai, hai mà một. Pyle và Loan, thành một cặp vợ chồng và sống
ở Việt
Nam,
trôi nổi theo thời sự thăng trầm đầy biến cố ở đây. Pyle thực ra là
cha ruột của Loan, một mối tình loạn luân kỳ lạ vì Phượng dù nhận
lời làm vợ Fowler nhưng lại có con với Pyle. Và, tác gỉa kết cuộc :
Loan cắt tóc coi như đi tu nhưng trong bụng lại mang giọt máu của
Pyle.
Tiểu thuyết của Hồ Hữu Tường rất đặc biệt kiểu… Hồ
Hữu Tường. Luôn luôn trong cốt truyện hoặc trong những câu đối thoại
ông cố tình mang vào những kiến thức để tạo ra những gợi ý khác
nhiều khi không ăn nhập gì đến diễn tiến câu chuyện. Nếu dùng luận
lý thông thường thì tiểu thuyết của ông có nhiều điều vô lý không
tưởng, nhưng, đi sâu hơn một chút, thấy được sự độc đáo và cái cảm
giác khi đọc là sẽ nhiều bỡ ngỡ với lối kết cấu bừa bộn những suy
tưởng và bị dẫn đi trên những con đường mà trong vô lý thấy sự hữu
lý..
Trong bài phỏmg vấn của Nguyễn Ngu Ý, Hồ Hữu Tường
đã nhận xét về tác phẩm của mình như sau:
“Tác phẩm mà tôi mong được dịch ra tiếng Pháp,
tiếng Anh… và xuất bản ở Âu Mỹ để làm bức thư cảm ơn chung cho những
ai ở ngoại quốc và ở trong nước đã ký tên để xin ân xá cho tôi. Là
bộ “Thuốc Trường Sanh”. Tôi viết nó ở tù Côn Đảo, tháng tư và tháng
năm. Đó là một quyển khảo cứu về triết học trình bày dưới hình thức
tiểu thuyết có tính thời đại. Nó khảo cứu về thuyết nhân quả, về
hành động, về đức tin. Các nhà văn Âu Châu tả sự cô đơn của cá nhân,
trong Thuốc Trường Sanh tôi tả sự cô đơn của tập thể, sự cô đơn của
nhóm Tuyết Lê, trong thế giới hai phe đang chống đối nhau kịch liệt
bằng máu lửa, mà không theo một bên nào được, nên đuổi theo mộng
“lấp cái hố của đấu tranh, của hận thù”. Và nhân vật chánh của tiểu
thuyết tượng trưng này, tôi dành cho loài cọp, mà tôi thấy hơn loài
người, cọp giết người vì bản tính tự nhiên còn người giết người lắm
khi vì một cớ không đâu…”
Hồ hữu Tường cũng tự nhận xét về tác phẩm “Thằng
Thuộc con nhà nông”:
“Tôi viết tự truyện Thằng Thuộc con nhà nông” là
để tôi tìm hiểu lại tôi, cái tôi thật ẩn náu tận đáy lòng, ở trong
tiềm thức sau này tô lên một lớp sơn dày. Mà “Thằng Thuộc con nhà
nông” là quyển đấu của bộ “Một kinh Nghiệm Sống”. Quyển kế sẽ là
“Căm hờn”, tả nỗi lòng của tôi rụ kỷ ý thức được thân phận của mình,
thân phận của một con nhà nông nghèo bị đè đầu, bị hiếp đáp, bóc
lột, phải phục thù, tôi chụp lấy cái khí giới Mác Lê. Quyển ba là
“mê Ly Đồ” người tín đồ cuồng tín của chủ nghĩa Mác Lê là tôi đã
hành động, rồi băn khoăn để tỉnh ngộ ra sao, đó là đại ý quyển này…”
Và, có khi như tự trách mình khi làm việc ôm đồm
và thường xuyên bỏ dờ nhiều công việc: “Nhiều anh em –trong đó có
anh- trách nhẹ tôi hay bỏ mứa trong công việc viết… Bỏ dở dang những
công trình đã khởi sự. Như dịch Tam Quốc Chí,… thì dịch có quyển
đầu. Viết Lịch Sử Văn Chương Việt
Nam thì chỉ cho ra quyển một. Có biết đâu, viết văn cũng như viết báo,
đối với tôi là việc nhỏ, việc phụ.
- Thế việc lớn, việc chánh của anh là…
- Là Sống. Khi mà cái tiểu tiết là viết, là gì gì
khác mà không hợp với đại thể là tôi gạt qua bên..”
Thực ra khó mà định hình được chân dung Hồ Hữu
Tường. Ông là một chính trị gia thất bại, ở tù nhiều lần, và coi
thời gian ở tù như thời gian để chiêm nghiệm để suy tư. Và cuối cùng
ông chấm dứt cuộc sống ở tù ngục Cộng Sản. Đọc những trang sách của
ông, cái phong cách độc đáo, không giống bất cứ một tác giả nào
khác và đôi khi cũng khác với cả những điều ông viết từ trước. Tôi
không được đọc hết các tác phẩm của ông, nhưng, tôi vẫn có cảm giác
rằng ông là một người luôn đi kiếm tìm một con đường để thực sự
Sống, không phải cho riêng ông mà cho cả dân tộc Việt Nam nữa.
|