Có
một người làm thơ cứ bâng khuâng hoài khi giở những trang sách.
Ngày xưa có người đã hỏi trời có nói gì đâu, đất có nói gì đâu
thì bây giờ lại có câu hỏi. Trang giấy trắng có nói điều gì
trong cái vô biên của cuộc sống:
Bới trong câu thơ cổ
Tìm giọt mực hồi sinh
Thấy mênh mông cổ độ
Bảng cấm vẫn một mình
Đi về đâu ngôn ngữ
Sóng ầm vang thiên thu
Mơ màng cơn thiếp ngủ
Đi về đâu, về đâu?
Chữ tiếp chữ tội nghiệp
Vỡ toang lớp da đầu
Mường tượng cơn thổ huyết
Thơ vẫn chỉ vài câu!
Giở cho nhàu trang sách
Vẫn quẩn một góc trời
Ơi vó con ngựa bạch
Đành quanh quất phận người
Nửa đêm ta thức giấc
ý phiêu du trong đầu
Chữ và nghĩa chồng chất
Còn hằn một nỗi đau
Ngửi mùi hương giấy cũ
Dó, Bưởi thuở hoang mù
Bâng khuâng trong góc tủ
Chép miệng, ơi thiên thu..”
Có phải sách vở cũng cần thiết cho người viết văn như người lính
cần cây súng, như người thợ cần đồ nghề,..? Nhà văn Doris
Lessing, giải thưởng Nobel về văn chương năm nay, 2007, trong
bài diễn văn được giám đốc nhà xuất bản Harper Collins đọc
thay trong buổi lễ trao giải của Hàn Lâm Viện Thụy Điển, có
đoạn :
“...Nghiệp viết văn của nhà văn không thể nào khởi từ những căn
nhà không sách vở. Điểm khó khăn là ở đó mà những khoảng cách
cũng ở đó. Tôi đang tìm đọc các bài diễn văn của
các
tên tuổi đã được trao tặng giải thưởng Nobel.
Hãy đọc lại diễn từ của Orhan Pamuk khi ông cho biết rằng thân
phụ của ông có tới 1500 quyển sách.
Điều ấy chứng tỏ rằng tài năng của ông đâu phải là ngẫu nhiên từ
trên trời rơi xuống mà phải là truyền thống vĩ đại đã liên tục
từ khoảng thời gian xa xưa.
Hay đọc lại bài viết của V.S. Naipaul tiết lộ rằng tông tộc
Veda của xứ
Ấn
Độ rất quen thuộc trong ký ức gia đình ông.
Thân phụ của ông thường xuyên khích lệ con mình viết văn. Đến
khi ông được qua Anh Quốc du học, nơi chốn ông thường xuyên qua
lại là thư viện quốc gia. Cái truyền thống vĩ đại ấy ông đã tiếp
cận một cách triệt để.
Một nhà văn khác cũng đoạt giải Nobel là John Coetzee, giáo sư
dạy môn văn chương tại đại học
Cape Town.
Ông
không những tiếp cận với truyền thống mà còn là chính truyền
thống ấy.
Thật là ít may mắn cho tôi khi không có dịp được ngồi
trong giảng
đường
của các lớp mà ông giảng dạy để lãnh hội được những tinh túy
của một trí tuệ tài danh mà ông truyền thụ lại cho các môn sinh.
Tóm gọn lại, muốn viết văn và trở thành những người cầm bút
viết văn làm thơ, chúng ta phải thường xuyên lui tới các thư
viện, làm quen với các pho sách từ kim văn đến cổ văn, theo một
truyền thống đã có từ cổ đại đến giờ…”
Với sự xuất hiện của máy điện toán và internet, tạo ra một tình
cảnh mới, nhưng Doris Lessing lại phê phán:
“..Chúng ta đang sống trong một nền văn hóa phân tán và rời rạc,
theo đó các điều chúng ta khẳng định một cách chắc chắn cách
nay vài chục năm thôi nay đều trở thành nghi vấn để phán xét
lại, một nền văn hóa quen thuộc với chúng ta là các người trẻ
tuổi dù đã được giáo dục để đào tạo thành
chuyên viên cao cấp trong nhiều năm nhưng chung cuộc hiểu biết
rất nghèo nàn về thế giới quanh họ. Họ lười đọc sách đọc truyện,
chỉ hiểu biết về chuyên môn của mình hay những sở thích khác như
xử dụng máy điện toán chẳng hạn…
Điều hiển nhiên đã và đang xảy ra cho chúng ta, là thực sự chúng
ta đang chứng kiến một cuộc cách mạng với những phát minh kỳ
diệu như máy điện toán, internet, T.V… Đây không phải là cuộc
cách mạng đầu tiên mà nhân loại đã chứng kiến.
Cuộc cách mạng về máy in không phải mới bắt đầu vài thập kỷ mà
kéo dài từ lâu đã thay đổi tư duy và trí óc của chúng ta. Rất
táo bạo và cũng rất chủ quan, chúng ta đón nhận một cách tự
nhiên và không cần đặt câu hỏi:
Hậu quả thế nào cho nhân loại khi xảy ra cuộc cách mạng ấn loát?
Tương tự như thế bây giờ, có ai đặt câu hỏi : Đời sống chúng ta
sẽ ra sao, trí óc suy tưởng thay đổi thế nào
với các phát minh vừa xuất hiện của hệ thống internet đang lôi
cuốn và tạo thành cả một thế hệ ghiền máy vi tính ? Đến cả ngay
những người chín chắn biết suy nghĩ cũng phải thú nhận một khi
đã đụng ngón tay vào keyboard là không rời ra nổi, suốt ngày
đánh vật với các trò cùa máy computer bày ra..”
Nhưng, dù thế, vị trí của sách vở vẫn có vị trí mà tất cả các
phát minh khác vẫn chưa thay thế được. Sách vở, có vị trí thiêng
liêng của nó…
Nói gì với trang sách giở? Trò chuyện hay tâm sự? Sách vở hình
như cũng có linh hồn, có phải? Những buổi thức làm việc khuya,
trong cái im vắng, dường có tiếng thì thầm của những trang
sách. Những gáy sách xếp hàng trên kệ, thân mật, hiền hòa. Với
tôi, nó là những phương trời, mở ra những khuôn cửa. Có khi,
trở lại những thời gian qua. Có khi, là những dấn bước về phía
trước, về tương lai. Tôi yêu sách như yêu người tình vì ngày xưa
các cụ nói “thư trung hữu nữ nhan như ngọc”…
Qua sách vở, tôi như thấy được những chân dung tác giả, dù có
khi chẳng bao giờ gặp mặt trong đời. Những trang sách, như tẩm
hương thơm đời sống, làm những ô trọc bị cuốn hút đi…
Một người yêu sách tột cùng là cụ Vương Hồng Sển. Thế mà, sách
vở của cụ cũng bao lần chịu cơn binh lửa, bao nhiêu lần tản cư
,.. để thành tro tàn. Cụ kể lể cái nỗi đau lòng của người mê
sách :
“mấy năm Nhựt chiếm đóng, lối 1940-1946, khan giấy hút thuốc vấn
tay, biết là bao sách cổ bản, mộc bản, thạch bản, sách Nho, sách
Nôm, lam mồi cho bợm ghiền thuốc hút, phì phà ra mây khói, một
mớ khác toàn là tài liệu giá trị về văn hóa xưa, lại bị bán hốt
mớ cho các
chú bán ve chai, hay xổ ra phất hình tiêu diện tháng bảy hoặc
làm đồ minh khí đồ mã đốt thành tro bụi…”
Nhưng, nỗi đau của cụ Vương về sau này chẳng thấm gì với cả một
miền Nam, có lúc, sách vở thành giấy vụn, và nhiều khi trở
thành tai họa cho chủ nhân nữa, khi mà Cộng sản chiếm được cả
nước. Với chủ trương xóa bỏ một nền văn học miền
Nam
đầy chất khai phóng và sáng tạo của những người chiến thắng,
sách vở lại bị một thời đại nạn. Những ngày sau tháng 5 năm
1975, khi đường phố Sài Gòn thành một chợ trời khổng lồ, và trên
lề đường đầy những hàng sách mới toanh mà giá thì rẻ không tưởng
tượng nổi. Những bộ sách như Chiến tranh và Hòa Bình, Bác sĩ
Djivago,..
dịch thuật, những Đại Cương Văn học Sử Trung Quốc, Chiến Quốc
Sách,..
biên khảo, còn thơm mùi mực và chưa rọc trang, trước đây nghiêm
trang trên kệ sách bây giờ nằm hỗn độn trên manh ni lông lề
đường. Sách vở mà cũng phải phong trần, nói gì đến con người
thời ấy ! Những tác giả, cũng chịu cơn lốc thời thế ấy, đau xót
mang bán rẻ những cuốn sách làm bằng tim óc của mình bởi họ
biết, sẽ có những ngọn lửa đỏ thiêu rụi đi, để xóa vết một thời
văn chương chữ nghĩa phong phú. Có những tủ sách gia đình quí
giá, cũng bị mang ra đường, chịu nắng mưa. Cả thành phố như một
cơn xuất huyết, mọi người bán đổ bán tháo đồ đạc của mình để làm
người vô sản trong chế độ mới...

"...
Đốt sách chưa đủ, còn phải bắt giam những người cầm bút bên
phía thua trận, nghĩa là vừa phần thư và khánh nho." |
Trần Trọng Đăng Đàn, viết “Văn Hóa Văn Nghệ Nam Việt Nam
1954-1975” phê phán nặng nề hai mươi năm văn học miền Nam và
cho rằng cần phải triệt hạ đến tận gốc cái nền văn chương chống
Cộng của chủ nghĩa thực dân mới. Đốt sách chưa đủ, còn phải bắt
giam những người cầm bút bên phía thua trận, nghĩa là vừa phần
thư và khánh nho. Hắn liệt kê hầu hết các nhan đề sách, dù có
khi là những cuốn sách vô thưởng vô phạt, để thành một danh sách
cấm dài dằng dặc.
Âm
mưu xóa sổ đã rõ ràng.
Ba mươi năm qua, thế mà, đến bây giờ, hai mươi năm văn học
miền
Nam
vẫn còn là một thực thể và chế độ chuyên chính vô sản không cách
chi triệt hủy được. Thời gian nhìn lại, nhiều người đã thay đổi
cách nhìn. Nền văn học ấy, so với văn học miền Bắc, đã có sự
khai phóng và tự do tư tưởng. Khác biệt với nền văn học bị chỉ
đạo bởi chính quyền, văn học miền
Nam
đã đóng góp phần không nhỏ vào gia tài văn hóa của dân tộc.
Hồi trước, các nhà văn chiến thắng đã nhìn những người cầm bút
bên bại trận bắng con mắt khinh miệt và hầu như không bao giờ
muốn nhắc đến nếu không có giọng bỉ thử hỗn xược. Sách vở, cũng
bị triệt hủy, với sự cố tâm phi văn hóa và đầy mặc cảm, có khi
pha trộn giữa tự ti và tự tôn.
Nhưng, gần đây,
đã
có chuyển biến. Như một bài viết của Nguyên Ngọc đăng trên Tia
Sáng số ra ngày 20 tháng tư năm nay, bài “Đọc và nghe nhìn“ có
đoạn:
“… Thậm chí, có thể nói như thế này mà không sợ quá sai; xã hội
ta bây giờ, nhìn chung, là một xã hội không có thói quen đọc
sách, hoặc đã đánh mất đi cái thói quen ấy. Thật vậy, hãy thử
nhìn vào hai đối tượng thường là người đọc nhiều nhất trong một
xã hội bình thường: sinh viên và cán bộ. Sinh viên ngày trước
đọc gì? Ai đã sống ở Sài Gòn trước năm 1975 hẳn đều biết một
trong những dấu hiệu cho ta nhận ra một người là sinh viên là
thấy trên tay anh hay chị ta cầm tờ tạp chí Văn, Bách Khoa hay
Đối Diện..
Bây giờ thì sao? Nếu có cầm thì họ cầm tờ Công An Nhân Dân hay
tờ An Ninh Thế Giới, cùng lắm nữa là tờ gì đó nói về thời trang
hay mua sắm… còn sách thì hầu như vắng bặt. Tôi không hề dám chê
những tờ báo vừa kể là kém văn hóa. Nhưng nhìn cách đọc đó, nếu
người ta còn chịu đọc, thì cái đọc đã rõ ràng đã chuyển từ mối
quan tâm về mở mang trí tuệ sang quan tâm về giải trí, thỏa mãn
tò mò, và tiêu dùng. Đến như sinh viên, những người đang được
đào tạo ra để trở thành trí thức cũa đất nước, mà cái chọn để
đọc – nếu họ còn chịu đọc, xin nhắc lại- đến như vậy, thì không
phải là đáng lo nữa mà là một nguy cơ! Quả thật, chúng ta đang
có một xã hội rất lười đọc sách, ngay ở cả tầng lớp có lẽ là
“văn hóa“, “văn minh” nhất…”
Thời gian quả đã là một yếu tố cần thiết để nhìn lại và xác
định chân lý. Nhưng, có những người đã phản tỉnh rất sớm, thí dụ
như nhà văn Dương Thu Hương khi trả lời một câu hỏi cảm nghĩ của
mình về ngày 30 tháng tư năm 1975 :
“Lúc đó tôi ở Quảng Bình, và một vài tuần sau đó thì tôi tìm
cách vượt qua cầu Hiền Lương để vào Sài Gòn với mục đích thăm
những người thân và tìm hiểu xem người dân miền Nam sống thế
nào. Trong suốt một tuần lễ đi đường, tâm trạng của tôi là cả
một mớ hỗn độn. Bởi vì một khi thông tin quá nhiều thì nó trở
thành hiện tượng bị nhiễu trắng. Còn về cảm tưởng khi nghe chiến
tranh chấm dứt thì khó nói vắn tắt lắm, nhất là cuộc chiến quá
dài. Nhưng khi tham dự cuộc chiến chống Mỹ, tôi nghĩ rằng đây
là cuộc chiến chống xâm lược, tôi đã từ bỏ cuộc sống ở hậu
phương mà tôi cho là hèn hạ, để rồi tôi dấn thân vào chốn chông
gai như thế. Nhưng mà sau khi vào Sài Gòn, thì tôi biết rằng một
cuộc chiến tranh khác lại nẩy nở trong tôi. Tôi nghỉ là cuộc
chiến tranh trong lòng tôi nó lâu dài và khốc liệt hơn, vì lúc
bấy giờ, khi người khác vui sướng nhất thì tôi hiểu rằng tôi
hoàn toàn lầm lạc. Theo tôi, đây là cuộc chiến tranh giữa hai
phe và người Việt Nam đã chia ra thành hai đội quân đánh thuê
cho hai phe và dù gì chăng nữa thì cái mô hình xã hội của cái
miền đất bại trận mới chính là mô hình của nền văn minh, và
chúng tôi là người trong đội ngũ chiến thắng thì thực ra chúng
tôi đã chiến đấu cho một mô hình xã hội man rợ. Và điều đó khiến
tôi hết sức cay đắng. Tất nhiên ngay lúc ấy cảm tưởng nó còn mù
mờ, nhưng sau này, càng ngày thì sự hồ nghi của tôi nó càng rõ
rệt hơn, cho nên tôi phải nói thật là trong ngày 30 tháng tư cái
khoảnh khắc vui sướng như mọi người qua đi rất nhanh, nhưng đối
với tôi thì trong nội tâm đã xảy ra một cuộc chiến mới và nó đã
kéo dài cho mãi đến 10 năm sau đó thì nó mới biến chuyển hoàn
toàn và khiến tôi trở thành một người “dissident” quyết liệt như
vậy…”
Gần đây nhất, trong một bài viết “Nhìn lại 31 năm trước“ của
Nguyễn Khắc Toàn phổ biến trong nhiều website đã viết:
“.. nhưng tôi nghĩ, nếu đất nước này không có những cuộc chiến
tranh dài hơn 30 năm vì ý thức hệ, vì dùng bạo lực nhằm thống
nhất giang sơn và áp đặt lên toàn bộ đất nước một chế độ chình
trị XHCN vừa xơ cứng, giáo điều, vừa phản tiến hóa và lỗi thời
theo học thuyết Mác Lênin thì chăc chắn miền Nam nói riêng và cả
Việt Nam
nói chung sẽ có nhiều cơ hội điều kiện để xây dựng thành
quốc gia thịnh vượng phú cường về kinh tế, dân chủ tự do về
chính trị và xã hội…
… Mô hình chế độ chính trị nhà nước Việt Nam Cộng Hòa trước đây,
khi ở miền Bắc tôi được nghe tuyên truyền rằng đó là một loại mô
hình chủ nghĩa “thực dân kiểu mới” do đế quốc Mỹ dựng nên làm
tiền đồn và bàn đạp để tấn công miền Bắc và phe XHCN do Liên Xô
và Trung Quốc là những nước anh em đứng đầu. Và các cơ quan
tuyên truyền ở miền Bắc còn nói: về kinh tế, miền Nam Việt
Nam
là một thị trường để tiêu thụ hàng hóa tư bản ế thừa của các
nước phương Tây. Đây cũng là nơi mà bọn tư sản và đế quốc nước
ngoài vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao động rẻ mạt của nhân
dân.
Về đời sống văn hóa, xã hội, giáo dục,.. thì mảnh đất mầu mỡ ở
miền Nam Việt
Nam
là nơi để gieo mầm cho văn hóa nô dịch của đế quốc, ngoại bang
nảy nở, phát triển. Trên báo, đài phát thanh, sách văn học, sách
giáo khoa dạy trong các trường học ở miền Bắc thì đầy dẫy những
tuyên truyền
về miền Nam là cả “một nhà tù lớn, một trại tập trung khổng lồ”
Ở nông thôn thì nông dân bị kìm kẹp trong các ấp chiến lược với
lớp lớp hàng rào dây thép gai bao quanh với nhiều chòi canh có
lính được trang bị súng đạn tối tân canh gác đêm ngày..
nhưng trên thực tế, khi tôi đã tiếp xúc với rất nhiều người bà
con gia đình hai bên nội ngoại, di cư từ quê hương miền Bắc vào
miền
Nam
từ sau hiệp ước Genève 1954. Qua việc đó giúp tôi có một nhận
thức rất khác về đời sống xã hội, kinh tế và chế độ chính trị ở
miền Nam Việt nam trước năm 1975. Đó là một xã hội mà cuộc sống
nhân dân được hưởng nhiều cởi mở và tự do
người dân từ nông thôn đến thành thị được sống tự do dân chủ
được hưởng rất nhiều quyền
con
người căn bản hơn, như: có tự do báo chí, tự do tư tưởng, tự do
ngôn luận, tự do biểu tình,
mít tinh, tự do hội họp, tự do sinh hoạt chính trị đảng phái, tự
do xuất dương và cư trú trong nước, tự do mưu sinh, tự do ứng cử
và bầu cử..
Bi kịch lớn cảu dân tộc ta, tổ quốc ta là ở chỗ cuộc “chiến
tranh huynh đệ tương tàn”
đã tốn biết bao núi xương, sông máu của nhân dân cả nước nhằm
hủy diệt một chế độ đa đảng, dân chủ tự do và một nền kinh tế
thị trường đã từng tồn tại ở miền Nam VN trước năm 1975, mà giờ
đây nhân dân chúng ta đang phải đấu tranh để được đi lại đúng
con đường này” ..
Văn học đối với chế độ chuyên chính chỉ là một phương tiện để
phục vụ cho chính trị. Do đó, mục tiêu của những người Cộng Sản
là bôi xóa triệt để hai mươi năm văn học miền Nam và thay thế
vào đó những sinh hoạt rất đỗi thô sơ của những người sống trong
bưng biền của Mặt trận Giải Phóng Miền Nam. Nhưng thực tế, thời
gian đã đãi lọc để những gì là chân giá trị sẽ tồn tại và thành
gia tài văn hóa của dân tộc…
Tôi nhớ lại những hàng sách cũ thời còn đi học, nơi mà tôi nhìn
những cuốn sách quý một cách thèm thuồng, nơi mà tôi đã mang
chút tiền nhỏ nhoi của mình để mua những cuốn sách cũ về đọc
một cách say mê, ngốn ngấu từng chữ từng câu.
Ở
đó, tôi đã “tha về nhà“ những bộ tạp chí Quê Hương, Nghiên
Cứu Hành Chánh, Đại Học Quân Sự,.. dày cộm mà giá rẻ, đọc, mới
đầu không hiểu, nhưng từ từ cũng vỡ ra nhiều điều.
Ở
đó, tôi đã mua những cuốn sách “livre de poche“ giá ngang với
một gói xôi, về đọc, chữ đực chữ cái, tra tự điển ngất ngư,
nhưng cũng cố gắng để “lòe“ mấy đứa bạn cùng trang lứa. Ở đó,
tôi tập làm người trí thức, đọc lung tung bất kể những gì mình
vớ được, với cái túi tiền quá khiêm nhượng của mình. Hè phố Lê
Lợi, vỉa hè
trường Trường Sơn của thầy Nguyễn Sĩ Tế đường Lê Văn Duyệt,
đường Cao Thắng, đường Phan Đình Phùng,… những cuốn sách bán
“son”, những trang sách cũ ố vàng, những cuốn sách bìa gáy long
lở được mang về bọc lại, sửa lại ..
Ôi
bao nhiêu là kỷ niệm..
Qua Mỹ, hơn hai mươi năm, tôi đã tạo được cho mình một tủ sách
cũng khá từ một cái kệ sách cũ mua vài đồng “garage sale“ lúc
vừa tới định cư. Lại cái duyên với sách cũ, và cũng là khách
hàng quen thuộc của mấy tiệm “thrift store” hay các ngày bán
sách cũ của thư viện. Bây giờ, ở xứ văn minh nên thư viện thật
đầy đủ, muốn sách gì để đọc cũng có. Vào các thư viện địa phương
ở đây, lại thấy thảm thương cho Thư Viện Quốc Gia ở gần sân vận
động Lam Sơn thủa nào. Thế mà, bao nhiêu là nhân tài của đất
nước đã ngồi học ở đó, đọc sách ở đó, suy tư ở đó và cũng mơ
mộng ở đó. Nếu không có chiến tranh, và không có những chủ
thuyết ngoại lai và những bàn tay đại cường xô đẩy, thì, dù với
bắt đầu ở hiện tại như thế vẫn tràn đầy hy vọng tiên tiến. Bây
giờ, hình như đã chậm, và chậm tới 197 năm để bằng người (theo
như so sánh và nhận xét cảu báo chí khi đọ với
Singapore
)…
Đi mua sách cũ, có cái thú vị khi gặp một cuốn sách hay, ưng ý
mà giá lại rẻ. Tôi nhớ những lúc trước khi anh Vũ Hạ còn sống,
chúng tôi thường hay rủ nhau đi mua sách. Chúng tôi có hầu như
tất cả danh sách những ngày mà thư viện bán sách cũ hay địa chỉ
những tiệm bán đồ cũ mà có nhiều sách giá trị. Tôi nhớ có năm
thư viện
Los Angeles bị
cháy và sau đó bán ra rất nhiều sách quý tình trạng còn tốt chỉ
bị ám khói sơ sơ. Tôi và anh Vũ Hạ mua đầy một xe sách đến
nỗi chiếc xe chở nặng quá ngỏng đầu lên. Những cuốn sách về
art, về chiến tranh Việt Nam, về collection những sách văn học
“classic”, … làm chúng tôi có cảm giác như mình trúng số vậy.
Anh Vũ Hạ thì khoái sách về kịch nghệ, tôi thì thích sách về
văn chương và chiến tranh Việt
Nam
và chúng tôi đã có giao kết ngầm để trao đổi với nhau. Nhiều khi
giở lại những cuốn sách để nhớ về một người bạn. Bây giờ, anh đã
phiêu du ở cõi trên và tôi vẫn thấy nụ cười của anh với đôi mắt
cười theo qua làn kính cận..
Sách vở, trong suốt cuộc đời tôi, là người thầy mà cũng là một
người bạn. Từ lúc còn niên thiếu, gom góp từ những đồng tiền nhỏ
nhoi để có được những cuốn sách cũ đến lúc đi lính, đi đến nhiều
nơi nhưng ở chỗ nào, cũng có kệ sách nhỏ và đọc thường xuyên
những tạp chí văn học. Rồi khi sang xứ người, như lúc này đời
sống ổn định, có thể mỗi tháng dành một ngân khoản vài trăm để
mua sách, tôi vẫn tìm được trong mùi giấy và nét chữ in những
gì thân mến với mình nhất. Có người nói bây giờ dân chúng không
thích đọc sách nữa vì đã có máy truyền hình và máy điện toán
thế chỗ. Nhưng, ở thực tế, sách vở vẫn có một vị trí mà không
có gì thay thế được.
Riêng tôi, một độc giả Việt nam lưu lạc xứ người, tôi vẫn có lúc
tự hỏi tại sao lại có những người nỡ mang những tâm huyết của
những tác giả của hai mươi năm văn học miền Nam đi thiêu đốt.
Tội ác ấy, trời chẳng dung và đất chẳng tha. Sẽ chẳng có ai bào
chữa được những hành vi tàn bạo này !!! |