.

PSN
BỘ MỚI 2008
HỘP THƯ

                            TRANG CHÍNH

" Không có tự do Sáng Tác, thì Văn Nghệ Sĩ sẽ bị biến thành Thợ Viết, Thợ Vẽ, ... cho một ông chủ nào đó mà thôi ! " (LN)


bút
việt
hồn
quê

BIÊN TẬP

Thích Phước An | Trần Đỗ Cung | Kiều Mỹ Duyên | Trần Trung Đạo | Minh Triết TRẦN THIỆN ĐẠT | Trần Kiêm Đoàn | Phổ Đồng | Tâm Hải Đức | Nhất Hạnh | Tuệ Chương - Hoàng Long Hải | Vĩnh Hảo | Chiêu Hoàng | Đại Lãn | Lặng Lẽ | Lâm Kim Loan | Trần Quan Long | Phạm Trọng Luật | Miêng | Diệu Trân | Phan Quân | Đặng Văn Sinh | Tuệ Sỹ | Ninh Hạ - Nguyễn Đức Tâm | Phong Thu | Nguyễn Mạnh Trinh | Lê Khánh Thọ | Trần Đình Thu | Trần Khải Thanh Thuỷ | Anh Thư | Tiểu Tử | Nguyễn Ước | T. Vấn | Hiền Vy | Tác Giả Khác ...

GIAI THOẠI

Bùi Giáng | Hữu Loan | Giang Hữu Tuyên |

 

 

  Nguyễn Mạnh Trinh

Trò chuyện cùng sách vở

  • 12.03.2008

Có một người làm thơ cứ bâng khuâng hoài khi giở những trang sách. Ngày xưa có người đã hỏi trời có nói gì đâu, đất có nói gì đâu thì bây giờ lại có câu hỏi. Trang giấy trắng có nói điều gì trong cái vô biên của cuộc sống:

 Bới trong câu thơ cổ
 Tìm giọt mực hồi sinh
 Thấy mênh mông cổ độ
 Bảng cấm vẫn một mình
 Đi về đâu ngôn ngữ
 Sóng ầm vang thiên thu
 Mơ màng cơn thiếp  ngủ
 Đi về đâu, về đâu?
 Chữ tiếp chữ tội nghiệp
 Vỡ toang lớp da đầu
 Mường tượng cơn thổ huyết
 Thơ vẫn chỉ vài câu!
 Giở cho nhàu trang sách
 Vẫn quẩn một góc trời
 Ơi vó con ngựa bạch
 Đành quanh quất phận người
 Nửa đêm ta thức giấc
 ý phiêu du trong đầu
 Chữ và nghĩa chồng chất
 Còn hằn một nỗi đau
 Ngửi mùi hương giấy cũ
 Dó, Bưởi thuở hoang mù
 Bâng khuâng trong góc tủ
 Chép miệng, ơi thiên thu..”

Có phải sách vở cũng cần thiết cho người viết văn như người lính cần cây súng, như người thợ cần đồ nghề,..? Nhà văn Doris Lessing, giải thưởng Nobel về văn chương năm nay, 2007, trong bài diễn văn được  giám đốc nhà xuất  bản Harper Collins đọc thay  trong buổi lễ trao giải của Hàn Lâm Viện Thụy Điển, có đoạn :

“...Nghiệp viết văn của nhà văn không thể nào khởi từ những căn nhà không sách vở. Điểm khó khăn là ở đó mà những khoảng cách cũng ở đó. Tôi đang tìm đọc các bài diễn văn của các tên tuổi đã được trao tặng giải thưởng Nobel.

Hãy đọc lại diễn từ của Orhan Pamuk khi ông cho biết rằng thân phụ của ông có tới 1500 quyển sách. Điều ấy chứng tỏ rằng tài năng của ông đâu phải là ngẫu nhiên từ trên trời rơi xuống mà phải là truyền thống vĩ đại đã liên tục từ khoảng thời gian xa xưa.

Hay đọc lại bài viết của V.S. Naipaul tiết  lộ rằng  tông tộc Veda của xứ n Độ rất quen thuộc trong ký ức gia đình ông. Thân phụ của ông thường xuyên khích lệ con mình viết văn. Đến khi ông được qua Anh Quốc du học, nơi chốn ông thường xuyên qua lại là thư viện quốc gia. Cái truyền thống vĩ đại ấy ông đã tiếp cận một cách triệt để.

Một nhà văn khác cũng đoạt giải Nobel là John Coetzee, giáo sư dạy môn văn chương tại đại học Cape Town. Ông không những tiếp cận với truyền thống mà còn là chính truyền thống ấy. Thật là ít may mắn cho tôi khi không  có dịp được ngi trong giảng đường của các lớp mà ông giảng dạy để  lãnh hội được những tinh túy của một trí tuệ tài danh mà ông truyền thụ lại cho các môn sinh.

Tóm gọn lại, muốn viết văn và trở thành những  người cầm bút viết văn làm thơ, chúng ta phải  thường xuyên lui tới các thư viện, làm quen với các pho sách từ kim văn đến cổ văn, theo một truyền thống đã có từ cổ đại đến giờ…”

Với sự xuất hiện của máy điện toán và internet,  tạo ra một tình cảnh mới, nhưng Doris Lessing lại phê phán:

“..Chúng ta đang sống trong một nền văn hóa phân tán và rời rạc, theo đó các điều chúng ta khẳng định một cách chắc chắn  cách nay vài chục năm thôi nay đều trở thành nghi vấn để phán xét lại, một nền văn hóa quen thuộc với chúng ta là các người trẻ tuổi dù đã được giáo dục để đào tạo thành chuyên viên cao cấp trong nhiều năm nhưng chung cuộc hiểu biết rất nghèo nàn về thế giới quanh họ. Họ lười đọc sách đọc truyện, chỉ hiểu biết về chuyên môn của mình hay những sở thích khác như xử dụng máy điện toán chẳng hạn…

Điều hiển nhiên đã và đang xảy ra cho chúng ta, là thực sự chúng ta đang chứng kiến một cuộc cách mạng với những phát minh kỳ diệu như máy điện toán, internet, T.V… Đây không phải là cuộc cách mạng đầu tiên mà nhân loại  đã chứng kiến. Cuộc cách mạng về máy in không phải mới bắt đầu vài thập kỷ mà kéo dài từ lâu đã thay đổi tư duy và trí óc của chúng ta. Rất táo bạo và cũng rất chủ quan, chúng ta đón nhận một cách tự nhiên và không cần đặt câu hỏi: Hậu quả thế nào cho nhân loại khi xảy ra cuộc cách mạng ấn loát? Tương tự như thế bây giờ, có ai đặt câu hỏi : Đời sống chúng ta sẽ ra sao, trí óc suy tưởng thay đổi thế nào với các phát minh vừa xuất hiện của hệ thống internet đang lôi cuốn và tạo thành cả một thế hệ ghiền máy vi tính ? Đến cả ngay những người chín chắn biết suy nghĩ cũng phải thú nhận một khi đã  đụng ngón tay vào keyboard là không rời ra nổi, suốt ngày đánh vật với các trò cùa máy computer bày ra..”

Nhưng, dù thế, vị trí của sách vở vẫn có vị trí mà tất cả các phát minh khác vẫn chưa thay thế được. Sách vở, có vị trí thiêng liêng của nó…

Nói gì với trang sách giở? Trò chuyện hay tâm sự? Sách  vở hình như cũng có linh hồn, có phải? Những buổi thức làm việc khuya,  trong cái im vắng,  dường  có tiếng thì thầm của những trang sách. Những gáy sách xếp hàng trên kệ, thân mật, hiền hòa.  Với tôi, nó là những phương trời, mở ra những khuôn cửa.  Có khi, trở lại những thời gian qua.  Có khi, là những dấn bước  về phía trước, về tương lai. Tôi yêu sách như yêu người tình vì ngày xưa các cụ nói “thư trung hữu nữ nhan như ngọc”… Qua sách vở, tôi như thấy được những chân dung tác giả, dù có khi chẳng bao giờ gặp mặt trong đời. Những trang sách, như tẩm hương thơm đời sống, làm những ô trọc bị cuốn hút đi…

Một người  yêu sách tột cùng là cụ Vương Hồng Sển.  Thế mà, sách vở  của cụ cũng bao lần chịu cơn binh lửa, bao nhiêu lần tản cư ,.. để thành tro tàn. Cụ kể lể cái nỗi đau lòng của người mê sách :

“mấy năm Nhựt chiếm đóng, lối 1940-1946, khan giấy hút thuốc vấn tay, biết là bao sách cổ bản, mộc bản, thạch bản, sách Nho, sách Nôm, lam mồi cho bợm ghiền thuốc hút, phì phà ra mây khói, một mớ khác toàn là tài liệu giá trị về văn hóa xưa, lại bị bán hốt mớ cho các chú bán ve chai, hay xổ ra phất hình tiêu diện tháng bảy hoặc làm đồ minh khí đồ mã đốt thành tro bụi…”

Nhưng, nỗi đau của cụ Vương về sau này chẳng thấm gì với cả một miền Nam, có lúc, sách vở thành  giấy vụn, và nhiều khi trở thành tai họa cho chủ nhân nữa, khi mà  Cộng sản chiếm được cả nước. Với chủ trương xóa bỏ một nền văn học  miền Nam đầy chất khai phóng và sáng tạo  của những người chiến thắng, sách vở lại bị một thời đại nạn.   Những ngày sau tháng 5 năm 1975, khi đường phố Sài Gòn thành một chợ trời khổng lồ, và trên lề đường đầy những hàng sách mới toanh mà giá thì rẻ không tưởng tượng nổi. Những bộ sách như Chiến tranh và Hòa Bình, Bác sĩ Djivago,.. dịch thuật, những Đại Cương Văn học Sử Trung Quốc, Chiến Quốc Sách,.. biên khảo, còn thơm mùi mực và chưa rọc trang, trước đây nghiêm trang trên kệ sách bây giờ nằm hỗn độn trên manh ni lông lề đường. Sách vở mà cũng phải phong trần, nói gì đến con người thời ấy !  Những tác giả, cũng chịu cơn lốc thời thế ấy, đau xót mang bán rẻ những cuốn sách làm bằng tim óc  của mình bởi họ biết, sẽ có những ngọn lửa đỏ thiêu rụi đi, để xóa vết một thời văn chương chữ nghĩa phong phú.  Có những tủ sách gia đình quí giá, cũng bị mang ra đường, chịu nắng mưa. Cả thành phố như một cơn xuất huyết, mọi người bán đổ bán tháo đồ đạc của mình để làm người vô sản trong chế độ mới...

"... Đốt sách chưa đủ, còn phải bắt giam những người cầm bút bên phía thua trận, nghĩa là vừa phần thư và khánh nho."

Trần Trọng Đăng Đàn,  viết “Văn Hóa Văn Nghệ Nam Việt Nam 1954-1975”  phê phán nặng nề  hai mươi năm văn học miền Nam và cho rằng cần phải triệt hạ đến tận gốc cái nền văn chương chống Cộng của chủ nghĩa thực dân mới.  Đốt sách chưa đủ, còn phải bắt giam những người cầm bút bên phía thua trận, nghĩa là vừa phần thư và khánh nho. Hắn liệt kê hầu hết các nhan đề sách, dù có khi là những cuốn sách vô thưởng vô phạt, để thành một danh sách cấm dài dằng dặc. Âm mưu xóa sổ đã rõ ràng.

Ba mươi năm qua, thế mà, đến bây giờ,  hai mươi năm văn học miền  Nam vẫn còn là một thực thể và chế độ chuyên chính vô sản không cách chi triệt hủy được.  Thời gian nhìn lại, nhiều người đã thay đổi cách nhìn. Nền văn học ấy, so với văn học miền Bắc, đã có sự khai phóng  và tự do tư tưởng. Khác biệt với nền văn học bị chỉ đạo bởi chính quyền, văn học miền Nam đã đóng góp phần  không nhỏ vào gia tài văn hóa của dân tộc.

Hồi trước, các nhà văn chiến thắng đã nhìn những người cầm bút bên bại trận bắng con mắt khinh miệt và hầu như không bao giờ muốn nhắc đến  nếu không có giọng bỉ thử hỗn xược. Sách vở, cũng bị triệt hủy, với sự cố tâm phi văn hóa và đầy mặc cảm, có khi pha trộn giữa tự ti và tự tôn.

Nhưng, gần đây, đã có chuyển biến. Như một bài viết của Nguyên Ngọc  đăng trên Tia Sáng số ra ngày 20 tháng tư năm nay, bài “Đọc và nghe nhìn“ có đoạn:

“… Thậm chí, có thể nói như thế này mà không sợ quá sai; xã hội ta bây giờ, nhìn chung, là một xã hội không có thói quen đọc sách, hoặc đã đánh mất đi cái thói quen ấy. Thật vậy, hãy  thử nhìn vào hai đối tượng thường là người đọc nhiều nhất trong một xã hội bình thường: sinh viên và cán bộ. Sinh viên ngày trước đọc gì? Ai đã sống ở Sài Gòn trước năm 1975 hẳn đều biết một trong những dấu hiệu cho ta nhận ra  một người là sinh viên là thấy trên tay anh hay chị ta  cầm tờ tạp chí Văn, Bách Khoa hay Đối Diện.. Bây giờ thì sao? Nếu có cầm thì họ cầm tờ Công An Nhân Dân hay tờ An Ninh Thế Giới, cùng lắm nữa là tờ gì đó nói về thời trang hay mua sắm… còn sách thì hầu như vắng bặt. Tôi không hề dám chê những tờ báo vừa kể là kém văn hóa. Nhưng nhìn cách đọc đó, nếu người ta còn chịu đọc, thì cái đọc đã rõ ràng đã chuyển từ  mối quan tâm về mở mang trí tuệ sang quan tâm về giải trí, thỏa mãn tò mò, và tiêu dùng. Đến như sinh viên, những người đang được đào tạo ra  để trở thành trí thức cũa đất nước, mà cái chọn để đọc – nếu họ còn chịu đọc, xin nhắc lại- đến như vậy, thì không phải là đáng lo nữa mà là một nguy cơ! Quả thật, chúng ta đang có một xã hội rất lười đọc sách, ngay ở cả tầng lớp có lẽ là “văn hóa“, “văn minh” nhất…”

Thời gian quả đã là một yếu tố cần thiết để nhìn lại và xác định chân lý. Nhưng, có những người đã phản tỉnh rất sớm, thí dụ như nhà văn Dương Thu Hương khi trả lời một câu hỏi cảm nghĩ của mình về ngày 30 tháng tư năm 1975 :

“Lúc đó tôi ở Quảng Bình, và một vài tuần sau đó thì tôi tìm cách vượt qua cầu Hiền Lương để vào Sài Gòn với mục đích thăm những người thân và tìm hiểu xem người dân miền Nam sống thế nào. Trong suốt một tuần lễ đi đường, tâm trạng của tôi là cả một mớ hỗn độn. Bởi vì một khi thông tin quá nhiều thì nó trở thành hiện tượng bị nhiễu trắng. Còn về cảm tưởng khi nghe chiến tranh chấm dứt thì khó nói vắn tắt lắm, nhất là cuộc chiến quá dài. Nhưng khi tham dự cuộc chiến chống Mỹ, tôi nghĩ rằng đây là  cuộc chiến chống xâm lược, tôi đã từ bỏ cuộc sống ở hậu phương mà tôi cho là hèn hạ, để rồi tôi dấn thân vào chốn chông gai như thế. Nhưng mà sau khi vào Sài Gòn, thì tôi biết rằng một cuộc chiến tranh khác lại nẩy nở trong tôi. Tôi nghỉ là cuộc chiến tranh trong lòng tôi nó lâu dài và khốc liệt hơn, vì lúc bấy giờ, khi người khác vui sướng nhất thì tôi hiểu rằng tôi hoàn toàn lầm lạc. Theo tôi, đây là cuộc chiến tranh giữa hai phe và người Việt Nam đã chia ra  thành hai đội quân đánh thuê cho hai phe và dù gì chăng nữa thì cái mô hình xã hội của cái miền đất bại trận mới chính là mô hình của nền văn minh, và chúng tôi là người trong đội ngũ chiến thắng thì thực ra chúng tôi đã chiến đấu cho một mô hình xã hội man rợ. Và điều đó khiến tôi hết sức cay đắng. Tất nhiên ngay lúc ấy cảm tưởng nó còn mù mờ, nhưng sau này, càng ngày thì sự hồ nghi của tôi nó càng rõ rệt hơn, cho nên tôi phải nói thật là trong ngày 30 tháng tư cái khoảnh khắc vui sướng như mọi người qua đi rất nhanh, nhưng đối với tôi thì trong nội tâm đã xảy ra một cuộc chiến mới và nó đã kéo dài cho mãi đến 10 năm sau đó thì nó mới biến chuyển hoàn toàn và khiến tôi trở thành một người “dissident” quyết liệt như vậy…”

Gần đây nhất, trong một bài viết “Nhìn lại 31 năm trước“ của Nguyễn Khắc Toàn  phổ biến trong  nhiều website đã viết:

“.. nhưng tôi nghĩ, nếu đất nước này không có những cuộc chiến tranh dài hơn 30 năm vì ý thức hệ, vì dùng bạo lực nhằm thống nhất giang sơn và áp đặt lên toàn bộ đất nước một chế độ chình trị  XHCN vừa xơ cứng, giáo điều, vừa phản tiến hóa và lỗi thời theo học thuyết Mác Lênin thì chăc chắn miền Nam nói riêng và cả Việt Nam nói chung sẽ có nhiều cơ hội điều kiện để xây dựng thành  quốc gia thịnh vượng phú cường về kinh tế, dân chủ tự do về chính trị và xã hội…

… Mô hình chế độ chính trị nhà nước Việt Nam Cộng Hòa trước đây, khi ở miền Bắc tôi được nghe tuyên truyền rằng đó là một loại mô hình chủ nghĩa “thực dân kiểu mới” do đế quốc Mỹ dựng nên làm tiền đồn và bàn đạp để tấn công miền Bắc và phe XHCN do Liên Xô và Trung Quốc là những nước anh em đứng đầu. Và các cơ quan tuyên truyền ở miền Bắc còn nói: về kinh tế, miền Nam Việt Nam là một thị trường để tiêu thụ hàng hóa tư bản ế thừa của các nước phương Tây. Đây cũng là  nơi mà bọn tư sản và đế quốc nước ngoài vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao động rẻ mạt của nhân dân. Về đời sống văn hóa, xã hội, giáo dục,.. thì mảnh đất mầu mỡ ở miền Nam Việt Nam là nơi để gieo mầm cho văn hóa nô dịch của đế quốc, ngoại bang nảy nở, phát triển. Trên báo, đài phát thanh, sách văn học, sách giáo khoa dạy trong các trường học ở miền Bắc thì đầy dẫy những tuyên truyền về miền Nam  là cả “một nhà tù lớn, một trại tập trung khổng lồ” Ở nông thôn thì nông dân bị kìm kẹp trong các ấp chiến lược với lớp lớp hàng rào dây thép gai bao quanh với nhiều chòi canh có lính được trang bị súng đạn tối tân canh gác đêm ngày.. nhưng trên thực tế, khi tôi đã tiếp xúc với rất nhiều người bà con gia đình hai bên nội ngoại, di cư từ quê hương miền Bắc vào miền Nam từ sau hiệp ước Genève 1954. Qua việc đó giúp tôi có một nhận thức rất khác về đời sống xã hội, kinh tế và chế độ chính trị ở miền Nam Việt nam trước năm 1975. Đó là một xã hội mà cuộc sống nhân dân được hưởng nhiều cởi mở và tự do người dân từ nông thôn đến thành thị được sống tự do dân chủ được hưởng rất nhiều quyền con người căn bản hơn, như: có tự do báo chí, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do biểu tình, mít tinh, tự do hội họp, tự do sinh hoạt chính trị đảng phái, tự do xuất dương và cư trú trong nước, tự do mưu sinh, tự do ứng cử và bầu cử..

Bi kịch lớn cảu dân tộc ta, tổ quốc ta là  ở chỗ cuộc “chiến tranh huynh đệ tương tàn” đã tốn biết bao núi xương, sông máu của nhân dân cả nước nhằm hủy diệt một chế độ đa đảng, dân chủ tự do và một nền kinh tế thị trường đã từng tồn tại ở miền Nam VN trước năm 1975, mà giờ đây nhân dân chúng ta đang phải đấu tranh để được đi lại đúng con đường này” ..

 Văn học đối với chế độ chuyên chính  chỉ là một phương tiện để phục vụ cho chính trị. Do đó, mục tiêu của  những người Cộng Sản là bôi xóa triệt để hai mươi năm văn học miền Nam và thay thế vào đó những sinh hoạt rất đỗi thô sơ của những người sống trong bưng biền của Mặt trận Giải Phóng  Miền Nam. Nhưng thực tế, thời gian  đã đãi lọc để những gì là chân giá trị sẽ tồn tại và thành gia tài văn hóa của dân tộc…

Tôi nhớ  lại những hàng sách cũ thời còn đi học, nơi mà tôi nhìn những cuốn sách quý một cách thèm thuồng, nơi mà tôi đã mang chút tiền  nhỏ nhoi của mình  để mua những cuốn sách cũ về đọc một cách say mê, ngốn ngấu từng chữ từng câu. đó,  tôi đã “tha về nhà“ những  bộ  tạp chí Quê  Hương, Nghiên Cứu Hành Chánh, Đại Học Quân Sự,.. dày cộm  mà giá rẻ, đọc, mới đầu không hiểu, nhưng từ từ cũng vỡ ra nhiều điều.  đó, tôi đã mua những cuốn sách “livre de poche“ giá ngang với một gói xôi,  về đọc, chữ đực chữ cái, tra tự điển ngất ngư, nhưng cũng cố gắng để “lòe“ mấy đứa bạn cùng trang lứa. Ở đó, tôi tập làm người trí thức, đọc lung tung bất kể những gì  mình vớ được, với cái túi tiền quá khiêm nhượng của  mình. Hè phố Lê Lợi, vỉa hè trường Trường Sơn của thầy Nguyễn Sĩ Tế đường Lê Văn Duyệt,  đường Cao Thắng, đường  Phan Đình Phùng,… những cuốn sách bán “son”, những trang sách cũ ố vàng, những cuốn sách bìa gáy long lở được mang về bọc lại, sửa lại  .. Ôi bao nhiêu là kỷ niệm..

Qua Mỹ, hơn hai mươi năm, tôi đã tạo được cho mình một tủ sách cũng khá từ một cái kệ sách cũ mua vài đồng “garage  sale“ lúc vừa tới định cư.   Lại  cái duyên với sách cũ, và cũng là khách hàng quen thuộc của mấy tiệm “thrift store” hay các ngày  bán sách cũ của thư viện.  Bây giờ, ở xứ văn minh nên thư viện thật đầy đủ, muốn sách gì để đọc cũng có. Vào các thư viện địa phương ở đây, lại thấy thảm thương cho Thư Viện Quốc Gia  ở gần sân vận động Lam Sơn thủa nào. Thế mà, bao nhiêu là nhân tài của đất nước đã ngồi học ở đó, đọc sách ở đó, suy tư ở đó và cũng mơ mộng ở đó. Nếu không có chiến tranh,  và không có những chủ thuyết ngoại lai và những bàn tay đại cường xô đẩy, thì, dù với bắt đầu ở hiện tại như thế vẫn tràn đầy hy vọng tiên tiến.  Bây giờ, hình như đã chậm, và chậm tới 197 năm để bằng người (theo như so sánh và nhận xét  cảu báo chí khi đọ với Singapore )…

Đi mua sách cũ, có cái thú vị  khi gặp một cuốn sách hay, ưng ý mà giá lại rẻ. Tôi nhớ những lúc trước khi anh Vũ Hạ còn sống, chúng tôi thường hay rủ nhau đi mua sách. Chúng tôi có hầu như tất cả danh sách những ngày mà thư viện bán sách cũ  hay địa chỉ những tiệm bán đồ cũ mà có nhiều sách giá trị. Tôi nhớ có năm  thư viện Los Angeles bị cháy và sau đó bán ra rất nhiều sách quý  tình trạng còn tốt chỉ bị ám khói sơ sơ. Tôi và anh  Vũ Hạ  mua đầy một xe sách đến nỗi chiếc xe chở nặng quá ngỏng đầu lên. Những cuốn sách về  art, về chiến tranh Việt Nam, về collection những sách  văn học “classic”, … làm chúng tôi có cảm giác như mình trúng số vậy. Anh Vũ Hạ thì khoái sách về kịch nghệ, tôi thì  thích sách về văn chương và chiến tranh Việt Nam và chúng tôi đã có giao kết ngầm để trao đổi với nhau. Nhiều khi giở lại những cuốn sách để nhớ về một người bạn. Bây giờ, anh đã phiêu du ở cõi trên và tôi vẫn thấy nụ cười của anh với đôi mắt cười theo qua làn kính cận..

Sách vở, trong suốt cuộc đời tôi, là người thầy mà cũng là một người bạn. Từ lúc còn niên thiếu, gom góp từ những đồng tiền nhỏ nhoi để có được những cuốn sách cũ đến lúc đi lính, đi đến nhiều nơi nhưng ở chỗ nào, cũng có kệ sách nhỏ và đọc thường xuyên những tạp chí văn học. Rồi khi sang xứ người,  như  lúc này đời sống ổn định, có thể mỗi tháng dành một ngân khoản vài trăm để mua sách, tôi vẫn  tìm được trong mùi giấy và nét chữ in những gì thân mến với mình nhất.  Có người nói bây giờ dân chúng không thích đọc sách nữa vì đã có  máy truyền hình và máy điện toán thế chỗ.   Nhưng, ở thực tế, sách vở vẫn có một vị trí mà không có  gì thay thế được.

Riêng tôi, một độc giả Việt nam lưu lạc xứ người, tôi vẫn có lúc tự hỏi tại sao lại có những người nỡ mang những tâm huyết của những tác giả  của hai mươi năm văn học miền Nam  đi thiêu đốt. Tội ác ấy, trời chẳng dung và đất chẳng tha.  Sẽ chẳng có ai bào chữa được những hành vi tàn bạo này !!!


NGUYỄN MẠNH TRINH

Sinh năm 1949 tại Hà Nội. Hiện sống tại Hoa Kỳ. Chủ trương tủ sách tác gỉa tác phẩm Ðời. Trong nhóm chủ trương Hợp Lưu,  Hoa Kỳ.

Tác phẩm đã xuất bản :

Thơ Nguyễn Mạnh Trinh (Người Việt 1985).

Tuyển tập Hai Mươi Ba Người Viết Sau 1975 (biên tập cùng Trịnh Y Thư Văn Nghệ Hoa kỳ 1989).

(Hình + Tiểu sử : thoivan. com).

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt,  không kích động hận thù,  và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ,  hay bất kỳ một chính phủ nào.