Tháng
ba. Những tháng ba định mệnh của một thi sĩ tiên phong, một nhà
văn lớn. Tháng ba, tháng mà thi sĩ ra đời (5/3/1936) và tháng
ba, cũng là thời điểm thi sĩ dời trần thế (22/3/2006). 1936 -
2006.Bẩy mươi mốt tuổi thọ. Thi sĩ Thanh Tâm Tuyền.
Tháng ba, cũng là thời điểm của “Một chủ nhật khác” cuốn tiểu
thuyết cuối cùng thi sĩ viết tại miền Nam trong những giờ khắc
của một chính thể hấp hối và của một cuộc chiến đã đến lúc ngã
ngũ:
”.. Cuối tháng ba bước sang tháng tư, trận chiến bùng nổ quy mô
khốc liệt tại các vùng giới tuyến. Quảng Trị mất. Kontum, Bình
Long bị uy hiếp. Đầu tháng năm ấy hòa đàm Ba Lê lại đình hoãn vô
hạn định. Hoa Kỳ tái oanh tạc miền Bắc dội bom Hà Nội. Hải
Phòng, thả mìn phong tỏa các hải cảng Bắc Việt.
Trong thị xã xuất hiện bóng dân chạy loạn từ Kontum đến từ Huế
vào. Lính tráng đi ngoài đường đội nón sắt mang theo vũ khí.
Quân trường từng bị đột kích hồi năm Kiệt mới đổi lên, tăng
cường bố phòng. Canh gác tuần tiễu gia tăng. Báo động phòng thủ
nghiêm ngặt có đêm hai ba lần. Các sĩ quan giáo sư đều bị huy
động vào tiểu đoàn trợ chiến cho tiểu khu, các đại đội ứng chiến
phân phối cho các cứ điểm thuộc phạm vi trường. Không khí căng
thẳng xớn xác..”
Một Chủ Nhật Khác. Một chuyện tình trong bối cảnh chiến tranh
như nhà văn Mai Thảo, chủ trương nhà xuất bản Văn ở hải ngoại,
tái bản tập tiểu thuyết này, nhận xét:
”Trong không khí của mùa hè nóng bỏng chiến tranh, trên thành
phố cao rực rỡ rét mướt, là câu chuyện tình của Kiệt. Tình say
đắm. Tình thảng thốt. Tình đầu và tình cuối. Tình sống và tình
chết. Thơ mộng và tàn ác như rừng rú núi non…
Thanh Tâm Tuyền - tác giả Bếp Lửa, Cát Lầy, Tôi Không Còn Cô Độc
đã viết Một Chủ Nhật Khác, một truyện tình hết sức lãng mạn,
chứa chất những đam mê vô vọng một thời…”
Không gian của Một Chủ Nhật Khác là của một thành phố cao nguyên
tương tự như thành phố Đà lạt và quân trường mà ông mô tả giống
như trường Võ Bị Đà lạt. Những môi trường sống ấy, của năm tháng
ấy, quen thuộc với những người Đà Lạt. Và những nhân vật như
ông trung tá già trong truyện cũng là nhân vật có thực ở ngoài
đời. Có người đã cho rằng Một Chủ Nhật Khác có thể coi như một
bán tự truyện của tác giả. Kiệt có những nét giống đại úy DZư
Văn Tâm nhưng không phải là thi sĩ Thanh Tâm Tuyền, cái độc đáo
của văn chương ông là tất cả chỉ là mờ mờ không chỉ định, giống
nhưng mà không giống và đôi khi chỉ là những gợi nhớ thoáng qua…
Có thể, từ suy tư của Kiệt đã nhiễm tính chất của một thi sĩ,
nhìn đời sống bằng con mắt hoài nghi, sống theo dòng cuốn của
thời thế và đã có mầm tự sát ngay từ lúc khởi cuộc. Những cuộc
tình, như những ngã đường rẽ qua nhiều lối, nhưng rồi, vẫn là sự
chọn lựa của một người không chọn lựa, thụ động để rồi kết cuộc
là một sự chấm dứt không đột ngột bởi, cái nhân đã khởi đầu cho
cái quả. Rất lãng mạn, có không khí chiến tranh nhưng lại có nét
hững hờ của một thế giới nào khác chứa đựng những nỗi niềm nào
im lìm chìm lắng. Ngay nhân vật như ông trung tá già hay là anh
chàng đại úy On đều có nét riêng của những tâm tính riêng. Mỗi
một hoàn cảnh, mỗi một con người là những thế giới khác. Và ngay
chính trong nội tâm Kiệt cũng là những mơ hồ bất định. Đời sống
trôi đi, tình yêu có thể là lãng quên nhưng cũng có thể là oan
nghiệt nẩy mầm từ đời sống chồng vợ không hạnh phúc giữa Ly và
Siêu để thành một mối tình thật lãng mạn nhưng cũng thật nhiều
gay cấn của Kiệt và Ly. Cũng như mối tình giữa cô học trò Oanh
và thầy giáo Kiệt, trao tặng dâng hiến thân xác như một kỷ niệm
để chia xa nhưng vẫn là những nửa vời của một kết cấu nào có
những nét phá cách của những tâm tính những suy nghĩ khác thường
lập dị.
Không gian ấy có nét bảng lảng mơ hồ của một thời thế sôi sục,
của những người lính sống trong một không khí đe dọa nặng nề.
Những sinh hoạt của một quân trường với những người trí thức
khoa bảng, có nhiều nhân vật lập dị, lúc lai căng vọng ngoại,
có lúc kỳ cục dị hợm, được mô tả như một nét chấm phá của một
xã hội rệu rã đang bước suy tàn…
Trung úy Kiệt, nhân vật chính ”học cơ khí ở Đức, học Quản Trị ở
Mỹ “ là một người lính nhưng lại chọn lựa cái chết để giải
quyết những vấn nạn của cuộc sống. Những cuộc tình, dù với vợ,
Thùy, hay với người tình cũ đã một thời mê đắm, Ly, hay với cô
học trò, Oanh, tất cả đều nhuốm vẻ hư vô, và những mầm mống bi
quan. Trong hoàn cảnh chiến tranh, chứng kiến những cái chết,
những người trí thức ấy bị đẩy vào cuộc chiến một cách thụ động
và tham dự với sự lãnh đạm vô tâm. Quân đội đã tạo cho họ một
đời sống với những quy luật cứng rắn hàng ngày. Họ sống như chờ
đợi một điều gì bi thảm đang ập đến.
Trong ngày tháng ấy, tình yêu như những lửa ngọn bốc lên và
dường như chớm mầm tự hủy ngay từ lúc khởi đầu.
Tình yêu với Thùy, người vợ, có lúc nồng nàn nhưng cũng có lúc
hận thù lạnh lùng. Còn Kiệt, vợ con cũng chỉ là một điều gì mông
lung lúc nhớ lúc quên của một người như hờ hững với mọi sự trên
đời.
“…Trong thời gian này, Kiệt cũng nghe mình hờ hững lạnh nhạt với
vợ con. Chàng vẫn nghĩ tớiThùy, tới ba đứa con nhưng không tha
thiết buồn khổ lắm. Dường như chàng mải chú ý đến những điều gì
mơ hồ đâu đâu. Nhiều
khi dưng không chàng sực nhớ những chuyện vụn vặt vô nghĩa, và
những nhớ tưởng ấy ám ảnh chàng triền miên. Có lúc Kiệt ngỡ
ngàng thấy mình đang sống như cái máy. Đầu óc chàng lờ đờ chậm
chạp. Nhưng đồng thời vang vọng ở chàng một niềm hoan lạc thầm
thì khó dứt. Chàng bắt gặp những phản ứng bất chợt kinh ngạc.
Những lúc ấy chàng như tỉnh táo hẳn thất cảnh tượng trời đất
chếnh choáng trong gió hoặc bấp bênh nhẹ bổng như thiếu khí
thở…”
Như một người mộng du, Kiệt sống phân hai giữa cuộc sống đang
náo động bên ngoài
và nội tâm hờ hững bên trong. Sự bất nhất hay thay đổi cũng
như tự chính mình coi mình như một kẻ lạ khiến những hình ảnh
đàn bà như xáo lộn với nhau và gợi đến nỗi lãng quên, “Cùng một
lúc chàng nhớ Oanh và Ly, tâm thần bất định xoay chuyển như cánh
quạt gió. Chàng nhớ Ly để quên Oanh rồi chàng nhớ Oanh để quên
Ly và chàng nhớ Thùy và các con để quên hai người...” Trong một
định nghĩa nào đó, tình yêu có phải là sự lãng quên?
Đọc Một Chủ Nhật Khác, như đọc những mảnh đời của một người.
Nhưng, những mảnh đời ấy lại có chất bảng lảng của một không
gian thời gian mơ hồ của những hư cấu và hiện thực chen lẫn
nhau. Mối tình với Oanh, với Ly, mà sự khao khát dục tính như
những mồi nhử loài cá cắn câu, có khi chỉ là của sắp xếp tưởng
tượng nhưng lại bỏng rát những vết hằn nhức nhối của những điều
tình cờ mà có thể liên tưởng tới từ cuộc sống... Hình như, cuộc
đời dưới nhãn quan và suy tưởng của ông là một chuỗi thất bại.
Tình yêu thất bại, làm tình cũng thất bại mà truy hoan cũng thất
bại luôn, để đến nỗi cái chết cũng là của một định mệnh thất
bại. Và từ một liên tưởng ấy, thân phận trí thức trong một xã
hội có bóng dáng chiến tranh cũng là một thân phận của những
người dơ tay đầu hàng từ lúc khởi cuộc...
Đọc tiểu thuyết của Thanh Tâm Tuyền, phải đọc Bếp Lửa. Nhân sinh
quan của ông nằm trong nội dung của cuốn tiểu thuyết một cách
thật rõ nét. Và có nhà phê bình đã nhận định rằng đây là một
cuốn tiểu thuyết trong thời điểm đó đã mở ngỏ cho sự khai phá
những tiểu thuyết mới.
Đây là một tác phẩm mà ông đã viết khi còn
rất trẻ và mỗi lần tái bản là mỗi lần sửa chữa và viết lại bài
đề tựa. Bài đề tựa Bếp Lửa lần thứ hai:
”… Người được đề tặng sách này đã chết.
Hắn tên Vũ Đạo Ánh, chết vào một buổi sáng chủ nhật đầu tháng
chín năm 1964, tại một khu rừng tỉnh Bình Dương, một viên đạn
xuyên ngang ngực năm mới ngoài ba mươi. Vào một buổi chiều cuối
thánh tám, hắn còn đứng trước một căn nhà trong hẻm ngoại
ô, nhìn qua cửa sổ, đèn trong nhà thắp sáng nhưng mọi người đi
vắng, cất tiếng gọi. Như những ngày mùa thu, mùa đông nơi thnah
phố, xa khuất cũng hơi ngửa đầu lên cao liếc màu trời xẫm mau,
hắn gọi đứa bạn của thời niên thiếu nghèo khốn, gọi những mộng
phiêu lưu đã bị nghiền nát cùng tuổi trẻ như một Thiên Đường cửa
đóng. Hắn lủi thủi trở về như bị bỏ rơi, chạy qua thành phố Sài
Gòn buổi tối còn ngơ ngác những âm vang của mấy ngày hỗn loạn.
Có lẽ hắn nhớ tới thành phố của tuổi trẻ, như nhớ tới đứa bạn,
hắn đã chạy cuồng trong đó trên chiếc xe đạp tồi tàn giữa những
ngày tháng rách bươm, mơ ước cái cơ hội kết tập được ngày tháng
tan rã thành một đời ý nghĩa. Có lẽ hắn muốn gặp đứa bạn để hỏi
: tại sao mày không viết được gì thêm nữa ngoài cuốn sách đề
tặng tao?; cuốn sách hắn nhận được vào một ngày cuối năm nào khi
còn đóng đồn trên sườn núi ngoài Trung nhớ quê hương đã lìa bỏ
cùng mẹ và gia đình ở lại, cuốn sách vợ hắn mang liệm theo xác
như một kỷ niệm hắn muốn mang đi. Hắn không gặp đứa bạn và tự
hỏi. Nó ra sao? đã lâu không gặp, như ngày nào trong thành phố
hoài nghi và khắc khoải, hắn thường tìm bạn và hỏi: Thế nào,
chúng mình sẽ đi về đâu?
Hắn gục chết bên một gốc cây, mau lẹ, không đau đớn. Hắn nằm đó,
đầu ngoẹo sang bên, gối lên cỏ như một người ngủ mệt sau đoạn
đường hiểm trở của Định Mệnh - Định Mệnh của một thế hệ, những
người còn sống là những kẻ sống sót. Hắn đã đi từ tuổi trẻ bị
cướp đoạt, tới nằm đó trong khu rừng giữa cuộc chiến phơi mình
làm một sự thật thô sơ, ở đây, trong xứ sở khốn nạn này, cuộc
chiến phải chấp nhận không phải là lối phiêu lưu trốn chạy ngông
cuồng. Cái chết của hắn không phải là một huyền thoại Rimbaud,
một huyền thoại Lawrence, tên bạn hắn hiểu được như vậy.
Chúng muốn gì? Người chết cho kẻ khác sống. Chúng muốn gì?
Những nhà phê bình ở Hà Nội đã gọi các nhân vật trong cuốn sách
này là bọn tôi mọi nô lệ. Họ hỏi trong khi họ xây dựng xã hội
chủ nghĩa, bọn này đi đâu? Những người ở Hà Nội không khi nào tự
đặt câu hỏi với mình, những câu họ thường đặt cho kẻ địch. Bọn
chúng đã đi trong thống khổ của lịch sử tới cái chết như sự từ
chối quyết liệt. Tại sao? Đáng lẽ họ phải tự hỏi: tại sao? Cái
chết lựa chọn không phi lý, nó sẽ làm nẩy sinh sự thật, sự thật
của những người chết truyền lưu cho kẻ sống sót.
Mỗi nhà văn, chính là một kẻ sống sót?…”
Bếp Lửa có không gian của Hà Nội những ngày trước khi mà đất
nước chia cắt. Nhân vật tên Tâm đã kể lại chính về cuộc đời mình
và cả những người chung quanh trong một thành phố náo loạn bất
an. Tâm mồ côi cả bố lẫn mẹ, sống trong một xã hội vẫn còn dưới
sự đô hộ của Pháp và những tư tưởng Quốc Gia Cộng Sản xung đột
nhau dữ dội. Tác giả Bếp Lửa bằng những nét phác họa rất sắc để
tượng hình ra một môi trường sống mà ở trong đó những cá tính về
chính trị được biểu hiện rõ nét. Ông hình như không chỉ muốn
phác họa một chân dung của Tâm mà còn muốn mô tả cả một thế hệ
thanh niên trong thời kỳ đó. Như Bảo một người trong đảng phái
Quốc Gia có lúc đã tham dự vào phong trào Ngũ xã của Việt Quốc
nhưng nay đã mất tinh thần và không còn tin tưởng như thời trước
nữa. Như Đại, một người bị mê đắm đến mù quáng vì chủ nghĩa Mác
Xít và đang chuẩn bị thoát ly ra khu để theo Việt Minh, như
Đại, một người của phòng Nhì Pháp. Như Ngọc một người có tư
tưởng hư vô và không quan tâm đến thời cuộc, cũng như quốc gia
dân tộc. Hay như ông Chính, một người Việt Quốc vẫn còn kiên
cường đi và tin tưởng vào sự chọn lựa của mình, những nhân vật
ấy đã sống và mỗi người mang tâm trạng riêng, một nỗi niềm
riêng.
Chuyện tình trong Bếp Lửa có nét nhẹ nhàng và giản đơn không
khúc mắc. Tâm gặp cô bạn cũ tên Hạnh trên một chuyến xe và sau
đó đã đi ăn với nhau và ngủ với nhau tại khách sạn. Một vài lần
sau cũng tái diễn như thế và với Hạnh, bóng dáng của chiến
tranh đã làm cho nàng như lạc vào một tâm trạng khác tạo mê đắm
và hứng thú cho công việc làm tình.
Nhà văn Huỳnh Phan Anh có một nhận xét:
“Nếu Bếp lửa thể hiện một sự thật, một kinh nghiệm thì thất bại
chính là tên gọi của sự thật của kinh nghiệnm đó. Trong một bài
viết về Thanh Tâm Tuyền tôi có đi tới một nhận xét ”Đọc Thanh
Tâm Tuyền tức là tham dự một cách nào đó cuộc phiêu lưu trắc
trở của một ý thức lạc loài và bất hạnh.
Nhân vật Bếp Lửa chính là một trường hợp điển hình của ý thức
khốn khổ đó. Một ý thức khốn khổ hay một ý thức trong cuộc hành
trình vô vọng giữa hư vô và đổ vỡ. Một ý thức mà giấc mộng ”biến
cải thế giới”, “thay đổi cuộc đời” ”tự do và chọn lựa”... chỉ là
một nỗi đam mê vô ích giữa những thế lực mù quáng của Định Mệnh
và lịch sử không ngừng “lấn áp ở mọi phía”. Một ý thức trong cô
đơn và bất lực bị kết án phải “đi một mình suốt đời” giữa bốn bề
bốn động tối tăm.
Cuốn sách mở ra một cuôc hành trình, hành trình vào cõi đêm thâu
trên từng câu ngắn, trên từng ý nghĩa cô đơn, người đọc không
đọc mà lắng nghe, lắng nghe cái âm vang lạc loài của những bước
chân cô đơn quờ quạng...”
Văn tiểu thuyết của một người thất bại thì thơ là của bóng đen,
của những nỗi niềm của một thế kỷ xa lạ.
“Một người da đen một khúc hát đen
bầu trời đen sâu không cùng
những giòng nước mắt
xé nát thân thể bằng tiếng kèn đồng
bằng giọng của máu của tủy của hồn bắt đầu ngày tháng
giữa rừng không lời rừng mãi trống không
ném mình ném đám đông vào trần truồng tủi cực hờn xác thịt
tan vỡ hôm qua hôm nay kể gì ngày mai
tôi rằng không quên chẳng thể được quên
vì Blues không xanh vì điệu Blues đen
trên màu da nức nở..”
Có người đã viết những câu thơ. Một thuở nào, xa lắm. Những
ngày, mà Hà Nội chỉ còn hiện diện trong giấc mơ. Những ngày, mà
Sài Gòn đã thành hiện hữu.
Có những câu thơ, bắt đầu một thời kỳ của tình yêu bị chia cắt.
Những câu thơ, của một thi sĩ đang đi tìm lại một giấc mơ:
“sự em có mặt cần thiết như những sớm mai
(nếu đời người không có những sớm mai)
anh trở dậy
đọc thơ Nguyễn Du
những câu lục bát buồn rưng rưng cuối đường
của một ngày…”
Có một người, tự gọi tên mình để nhận diện cho ra chân dung nỗi
buồn. Vào trong góc vắng, nghe những vỡ vụn của thanh âm tiếng
chuông. Những câu thơ, hoang mang, xa lạ. Những câu thơ, của nỗi
niềm xa vắng :
“tôi buồn khóc như buồn nôn
ngoài phố
nắng thủy tinh
tôi gọi tên tôi cho đỡ nhớ
thanh tâm tuyền
buổi chiều sao vỡ vào chuông giáo đường
tôi xin một chỗ quì thầm kín
cho đứa nhỏ linh hồn
sợ chó dữ
con chó đói không mầu…”
Có một người làm thơ, tìm giấc mơ trên những giây phút cảm xúc
của nhịp thở. Hôm nay, ngày mai là chính là cái kết tinh của
ngày hôm qua. Thơ, là gợi ý cho con người bước đi trên nhịp cầu
sinh tử.
… những giấc mơ-hôm qua là phá hủy-hôm nay là ngày mai
nhỏ như con tim đôi mắt chớp lẹ
nhỏ như hơi thở trong một ngực tình cờ
hung thần chạy trốn
hào quang trên môi hôn
lời nhiệm mầu tác phẩm”
Có những câu thơ, viết về nỗi buồn. Thi sĩ, làm những câu thơ,
nói lên những nỗi niềm chung mang của một thế hệ.
“tôi biết những người khóc lẻ loi
không nguôi một phút
những người khóc lệ không rơi ngoài tim mình
em biết không
lệ là những viên đá xanh
tim rã rượi.
Đôi khi anh muốn tin
Ngoài trời chỉ còn trời sao là đáng kể
Mà bên những vì sao lấp lánh đôi mắt em
Đến ngày cuối
Đôi khi anh muốn tin
Ngoài đời thơm phức những trái cây của thượng đế
Mà bên những trái cây ngọt ngào đôi môi em
Nguồn sữa mật khởi đầu...”
Cũng những câu thơ ấy, về sau, là một trời suy tư. Chữ nghĩa, là
những để lại cho đời.
“nghe lời vọng lòng sách u uẩn
trang giấy ố mọt xông mở quên
chữ nghĩa dày dạn hàm hồ
nghe tuyệt tích cám dỗ
dưới mái dột nát tạm trú
ngọn điện chong rực lóa vắng xưa
chiếc bóng ám sàn vách loang lổ
dị hợm vô hình thù…”
Có vài khúc dạo tặng tri âm. Thơ, ở trí biệt khuất ngoài lịch
sử.
“Rũ bỏ ký ức –
ký ức người
mông muội đắm mình
không thể khác
ngậm tanh tiếng sơ sinh
lạnh bất trắc..”
Người thi sĩ bay vào miền đất lạ. Hồi trước, thi sĩ đã khóc
người bạn, thi sĩ Quách Thoại. “còn gì chăng. Tôi bưng mặt khóc
bên thềm cửa. Trời –
đất rưng rưng. Em không để cầm tay. Khi người thi sĩ ấy chết trơ
trụi.
Không một lời trối trăng từ biệt. Mắt khép không đợi vuốt. Nửa
đêm..” Bây giờ, có một câu thơ vẫn còn hiển hiện:
“xin trao thi sĩ vòng hoa tặng.
Chúng ta đã thắng giữa cuộc đời..”
Thanh Tâm Tuyền. Thi sĩ đã vừa ra đi.
Tôi Không còn Cô Độc. Liên Đêm mặt trời Tìm Thấy. Thơ Ở Đâu xa.
Những tập thơ đánh dấu những cột mốc của thi ca Việt nam. Bây
giờ, từ những vận động để làm mới thi ca cũng như những tâm sự
nỗi niềm của một thời đại, đã qua đi. Thi sĩ đã khuất vào trong
cõi vô thủy vô chung. Thơ như tài sản để lại cho đời … Của
Việt Nam chiến tranh. Của đất nước một thời chia cách…. |