Đời sống
thường có những câu hỏi. Có hay không một nền văn học lưu vong ở
hải ngoại? Cũng như, những người cầm bút ở hải ngoại nghĩ thế
nào về sự giao lưu và hội nhập?
Mà hội nhập thế nào, hội nhập vào văn học dòng chính ở nước họ
định cư, cũng như hội nhập vào dòng văn học trong nước ?
Hội nhập vào văn học ở những nước mà họ sinh sống nổi bật nhất
ở những thế hệ một rưỡi hoặc thứ hai. Họ viết bằng Anh ngữ hoặc
Pháp Ngữ và hình như dù họ viết với tâm cảm Việt
Nam
nhưng đối tượng độc giả có lẽ không phải chỉ riêng người Việt mà
còn cả những người bản xứ. Thực tế, họ đã tạo
được
sự để ý của giới xuất bản cũng như phê bình và cũng chiếm được
nhiều giải văn học. Họ là Linda Le viết Pháp ngữ, là Monique
Trương, Aimee Phan, Lan Cao, Andrew Lam, Kien Nguyen,
le thi diem thuy, Đao Strom, Nguyen Minh Bich, Mộng Lan,…viết
Anh Ngữ.
Còn một chiều hướng khác, hội nhập vào văn học trong nước.
Từ một câu hỏi, văn học hải ngoại còn là một nền văn học lưu
vong mà yếu tính của nó là sự phản kháng chế độ đương quyền
trong nước, có thể là một tiền đề cho câu trả lời có và
không. Một khi chế độ đương thời vẫn còn là một chế độ độc tài
toàn trị, thì liệu sự hội nhập ấy có ý nghĩa gì không?
Theo tôi, giữa nhà văn trong nước với nhà văn hải ngoại không hề
có sự đối kháng cũng như giữa những người dân ở hải ngoại và
trong nước không có sự dị biệt nào để hòa đồng. Nếu có đối kháng
chăng là giữa chế độ và người dân, kẻ cai trị và người bị
trị. Thành ra, đặt ra vấn
đề
hòa giải giữa những nhà văn trong nước và hải ngoại là một
chuyện dư thừa. Là người cầm bút với nhau, chắc sẽ cùng tâm cảm
và ước vọng với đất nước nên nếu có trường hợp gặp gỡ thì
cũng là nối giây thân hữu. Hơn nữa ngay mối liên hệ giữa nhà văn
và nhà cầm quyền cũng còn nhiều trường hợp trục trặc. Như nhà
thơ Trần Dần tuy được giải thưởng loại văn học bậc quốc gia
nhưng vẫn bị dè chừng, tuyển tập thơ bị cắt xén, xuất bản bị làm
khó dễ đến mức cấm cản.
Thì nói gì đến những nhà văn hải ngoại dù “lý lịch” có sạch sẽ
thế nào chăng nữa cũng không khỏi bị nghi ngờ là những người sẽ
gây mầm mống chống đối chế độ.
Thực tế cho thấy, ở trong nước ngay cả trên mặt văn hóa, cũng có
sự chỉ đạo của công an. Một thí dụ gần đây, trong nhóm đi tịch
thu cuốn sách
"Thơ
Trần Dần“ ở nhà xuất bản Nhã Nam bên cạnh các nhân viên của
tuyên huấn, của cục xuất bản, của công an địa phương còn có sự
có mặt của A25, một thứ công an văn hóa và là bộ phận có tiếng
nói quyết định.
Hội nhập. Có rất nhiều người bàn bạc đến, thậm chí còn đặt câu
hỏi sẽ phải hội nhập như thế nào nữa. Viết xong một tác phẩm, lẽ
ra là hoàn tất công việc của một nhà văn, nhưng thực tế thì
không hẳn vậy.
Những thắc mắc luôn đè nặng. Dư âm của cuộc chiến vẫn còn và
chiến tuyến vô hình không phải ngày một ngày hai mà hết. Nó vẫn
còn và những suy tư, những đau thương có khi là những đề tài cho
văn chương và phản ánh một thời đại mà con lốc lịch sử đã đổi
chiều đến
độ
khốc liệt.
Là nhà văn, ai cũng muốn có nhiều độc giả, nhất là ở hải
ngoại muốn có độc giả từ trong nước,
khi số lượng người đọc Việt ngữ càng ngày càng giảm đi. Nhưng,
khi trong nước vẫn còn những hệ thống không kiểm duyệt mà siêu
kiểm duyệt thì chuyện có sách được in trong nước đối với những
người không có thế thần hoặc không quen xin xỏ chạy chọt khó
lòng chen vào được.
Thành ra, trong hiện tại, sách từ trong nước thì bán đầy ở hải
ngoại mà những cuốn sách của các nhà văn hải ngoại thì ít ỏi và
hiếm vắng ở trong nước. Những sách của các tác giả có “lý lịch
xấu“ ở trong nước còn bị đầy đọa huống chi những người ở
hải ngoại mà lúc nào chính quyền cũng dè chừng là sẽ “chuyển lửa
về quê hương”.
Những câu hỏi làm thế nào để hòa giải hòa hợp, để giao lưu, để
hội nhập,…
đều bị một vấn nạn chính phát xuất từ chế độ đang cầm quyền hiện
nay. Từ chuyện đổi mới, cởi trói rồi trói lại rồi cởi ra, nhà
văn ở trong nước chạy theo đã hụt hơi huống chi người ở ngoài.
Trên lý thuyết,
thì mục đích của các suy nghĩ về gioa lưu và hội nhập đều đúng
và là lý tưởng nữa. Nhưng trên thực tế, thì chưa chắc. Nếu viết
mà cứ luôn luôn tự hỏi mình sẽ phải viết thế nào, nghĩ ra sao để
ở “trong nước“ chấp nhận thì chẳng thà đừng viết còn hơn…
Một câu hỏi thường hay đến với người cầm bút : Viết ? Tại sao
viết và viết thế nào ?
Trả lời câu hỏi ấy, có khi rất giản dị nhưng cũng có khi cực kỳ
khó khăn. Viết, có phải là một cách thế để sống đời sống thực ?
Hay là một cách sống với thế giới riêng mình cả những ước mơ?
Mỗi người một ý nghĩ, ở thời đại hiện nay, nhất là với những
người Việt Nam đã trải qua nhiều biến cố, ở những vị trí khác
nhau, có khi là chiến tuyến đối nghịch, thì văn chương phỉa phản
ánh được nỗi niềm của cả một thế hệ.
Có những người, viết để giải tỏa những ẩn ức của đời lưu lạc. Có
người, coi viết là một cái nghiệp tay trái phải trả trong khi
tay phải vẫn khư khư cái nghề để mưu sinh. Từ những quan niệm
khác nhau, những suy tư khác nhau, có lẽ đã xảy ra cuộc tranh
luận. Và, câu trả lời vẫn là những phân vân bất định.…
Có người làm thơ lúc nào cũng bức xúc với câu trả lời phải viết
thế nào và ra sao. Hình như, chỉ là sự gợi ý mà không phải là
những ý nghĩ khẳng định hay phủ định. Cách nay một thế kỷ,
Rainer Maria Rilke trong tác phẩm Thư Gửi Người Thi Sĩ Trẻ
Tuổi, gồm 10 lá thư gửi cho Franz Xavez Kappus đã nêu ra một vấn
đề mà tới nay vẫn còn tồn tại. Một vấn đề muôn thuở của người
làm thơ thường suy ngẫm. Tôi đọc một
đoạn
trong lá thư đầu tiên (bản dịch Phạm thị Hoài):
Không ai có thể khuyên ông và giúp ông, không một ai. Chỉ có một
cách duy nhất mà thôi. Ông hãy đi vào chính mình. Hãy truy cứu
cái nguyên nhân khiến mình cầm bút, hãy kiểm tra xem nó có bắt
rễ từ chỗ sâu xa nhất của trái tim không, hãy tự thú xem nếu
không viết liệu mình có chết nổi không? Và trước hết hãy tự hỏi
mình vào giờ khắc tĩnh mịch nhất trong đêm, ta có phải viết
không? Ông hãy đào xới trong chính mình tìm câu trả lời tận gốc.
Và nếu có khẳng định, nên ông có quyền đáp lại câu hỏi nghiêm
trọng ấy bằng một lời mạnh mẽ và giản dị rằng “Ta phải viết“ thì
ông hãy xây đời mình trên sự tất yếu ấy, cuộc đời ông ngay cả
trong những giây phút dửng dưng và tầm thường nhất cũng phải trở
thành dấu hiệu và chứng chi của sự thôi thúc ấy. Rồi ông hãy đến
gần thiên nhiên. Hãy thử làm người thứ nhất nói về những gì mình
thấy, mình trải qua, yêu thương và đánh mất. Ông đừng viết thư
tình, đầu tiên ông nên tránh những thể loại đã quá thông dụng và
quen thuộc, đấy là những thể loại khó nhất, vì sức phải lớn và
chín muồi mới đưa ra được một cái gì riêng giữa vô số thành
công và phần nào thành công xuất sắc của người đi trước. Do đó
ông đừng bén mảng đến nhữn mô típ chung chung mà hãy lui về với
những mô típ do chính ngày thường của mình cung cấp, ông hãy tả
ra nỗi buồn và niềm mong ước, những ý nghĩ thoảng qua và lòng
tin vào một ngày tốt đẹp nào đó. Hãy tả tất cả với lòng chân
thành tha thiết, thầm lặng và nhẫn nhục, và hãy xử dụng mọi vật
quanh ông, những hình ảnh trong mơ và
những đối tượng của hồi ức làm phương tiện diễn đạt. Nếu ông
thấy ngày thường của mình quá nghèo nàn thì xin đừng buộc tội
nó, hãy buộc tội chính mình, hãy tự nhủ rằng mình không đủ tầm
thi sĩ để gọi ra những tài nguyên của nó, bởi lẽ không có cái
nghèo và không chỗ nào là nghèo nàn chẳng đáng đếm xỉa tới đối
với người sáng tạo…”
Đọc sách, cũng học và biết nhiều điều. Mà, ngay cả khi đàn đúm
chuyện trên trời dưới đất, cũng câu hỏi trên vẫn ám ảnh, canh
cánh trong lòng…
Mỗi sáng cuối tuần tôi hay ghé quán cà phê ngồi tán dóc với bạn
bè. Một tuần qua rất mau với những ngày thứ hai tới thứ sáu tất
bật để có những ngày thứ bảy, chủ nhật thoải mái. Cũng là một
cách để cuộc đời còn có niềm vui. Ở đó, tôi gặp nhiều người
bạn. Có người, nói chuyện vui vẻ, để cho qua một buổi sáng
nhiều nụ cười, quên đi những lo lắng của cuộc sống. Những câu
chuyện giỡn, những chuyện tiếu lâm. Nhưng, thỉnh thoảng, cũng có
người bạn, sau khi chuyện vãn lại làm ưu tư hơn.
Thí dụ như với một anh bạn mà tôi kể sau đây làm tôi cứ bâng
khuâng cả tháng trời…
Thành thật mà nói, anh là người đọc sách rất nhiều và có những
suy tư thấu đáo. Nói chuyện với anh, nhiều khi tôi như đi lạc
vào những trang sách và có lúc như bị lạc lối không tìm được ngõ
ra. Một buổi sáng, khi nói chuyện về giải Nobel văn chương của
Hàn Lâm Viện Thụy Điển, tôi buột miệng nói rằng người Việt Nam
đã trải qua những cách thế có một không hai trên thế giới với
những đề tài tự thân nó đã có sức thuyết phục ghê gớm, thế mà
chưa có một ai cầm bút được lọt vào
trong trào lưu văn học thế giới.
Thân phận con người Việt Nam, chiến tranh, thuyền nhân,.. toàn
là những lãnh địa bao la cho sáng tác…
Thế là ông bạn quí của tôi có dịp “ăn nói”. Ông mang Milan
Kundura để nói chuyện. Trong
”The Art of the Novel“ nhà văn này đã suy luận theo những trào
lưu của văn học hiện đại. Vói những sự vận động và tìm tòi không
ngưng nghỉ, sự cách tân trong bút pháp cũng như bố cục truyện
được coi như một mục đích tối hậu cho bút mực.
Làm mới văn xuôi tự sự cũng như thay đổi cung cách suy nghĩ về
quan niệm, vai trò, vị trí, hành động, chức năng của nhân vật,
Kundura đã đi từ James Joyce, Marcel Proust, Franz Kafka đến tự
bản thân mình.
Ở James Joyce, nhân vật ở trạng thái trở về hình thức đối thoại
nội tâm triệt để mỗi khi bị lôi kéo vào một tình trạng chỉ trong
khoảnh khắc của thì hiện tại.
Ở Marcel Proust, nhân vật được diễn tả và xuất hiện với tất cả
sự huyền diệu và kích thích nỗi ngạc nhiên về cái vũ trụ nội tại
của linh hồn con người. Hành trình “Đi tìm thời gian đánh
mất” gồm mười lăm quyển sách mở ra những cánh cửa đi vào khung
trời tiểu thuyết bao la nhiều chất suy tưởng.
Còn với Franz Kafka nhân vật chỉ còn là hiện thân cho một vấn
nạn “Đâu là những khả năng tồn tại của con người trong một thế
giới mà những quyết định từ bên ngoài trở thành nặng nề đến nỗi
những động cơ bên trong chẳng còn chút trọng lượng nào nữa”.
Kafka mô tả những động cơ thúc đẩy từ bên trong quyết định ứng
xử của bản tính con người giữa
cái thúc ép của đời sống thực tế bên ngoài thành lực chi phối và
luôn luôn giữ vai trò chủ chốt áp đảo trong mọi cách thế quyết
định.
Riêng chính Kundura thì cho rằng nhân vật tiểu thuyết là hiện
thân cái gọi là “bản chất cục diện hiện sinh của cái tôi.” Đây
là một quá trình tìm kiếm với tất cả những dụng công để khám phá
ra những chân dung còn chìm khuất từ những bức màn che kín của
sự vật.
Muốn nhập vào những trào lưu như vậy, nhà văn cần phải nỗ lực
làm mới và rời bỏ con đường mô tả theo lề lối truyền thống với
những chi tiết của nhân vật : tên tuổi, diện mạo bên ngoài, tiểu
sử,, quá khứ, đời sống,…
Từ
Joyce, Proust, Kafka, đến Kundura, tất cả những yếu tố trên về
nhân vật chẳng còn là quan trọng nữa. Ngay chính những động tác
để làm chuyển động tiểu thuyết cũng không còn là chủ đích, mà
cái còn lại là suy tư với những phóng chiếu luận cứ phức tạp từ
những góc cạnh nhiều chiều, nhiều phía để soi rọi vào cái sâu
thẳm của bản thể mình và đời sống mình một cách thật rốt ráo
triệt để không thỏa hiệp.
Sau khi lấy những luận cứ của Kundura làm căn bản, ông bạn trên
đi đến một kết luận. Muốn đi vào những trào lưu văn học thế
giới, phải từ bỏ chính cái tôi của nhân vật truyện. Chúng ta
phải hủy bỏ chính cái vòng mà chúng ta tự vạch ra và tự giam
mình vào. Chúng ta cứ quanh quẩn trong cái góc thế giới nhỏ nhoi
mà không chịu bước ra những phương trời khoảng khoát hơn.
Những sự kiện của chúng ta hôm nay chỉ có giá trị ở thì hiện
tại, nhưng ở thì tương lai thì chưa chắc. Cái xốc nổi chưa chắc
là cái tồn tại lâu dài. Mà, muôn đời nhất để tồn tại vẫn là hành
trình tự tìm kiếm chân dung con người, chân dung muôn thuở có
chung một mẫu số của nhân bản nhưng có thể khác về tử số, của
những hiện tương của bây giờ. Nhà văn phải có trí tưởng tượng
vươt qua cái tôi … Tại sao chúng ta cứ viết hoài về
cái đã quen thuộc đã nhàm chán. Sao không thử bước qua đi những
con đường lạ.
Viết để làm gì nếu không có sự tìm tòi khám phá. Viết để làm gì,
nếu văn học không mang được những nét tích cực cho cuộc nhân
sinh.
Tôi suy đi nghĩ lại, những điều Kundura viết nó chung chung và
hiện thực những ý tưởng ấy thành cụ thể không phải là đơn giản...
Trong bụng vẫn vương vấn những suy nghĩ. Những điều kể trên có
phải thuần từ lý luận và có dễ áp dụng ở thực tế Việt
Nam
không. Mà, thực hành thì ra sao? Đi tìm chính mình, soi gương
mỗi ngày? Đúng quá rồi, nhưng diễn tả ra sao vì cái thực và cái
ảo có khi nhập nhằng thành một. Đằng sau cái hình của mình có
khi cón cái bóng nhiều khi to lớn hơn, lộng lẫy hơn. Làm thơ
tượng trưng, thơ phá cách, thơ cách tân,…
để sáng tạo? Đúng rồi, nhưng có chắc là tìm kiếm chân thực mới
lạ không hay là từ ngàn xưa đã có sẵn? Tôi chợt nghĩ đến hiện
tượng “tẩu hỏa nhập ma” mà Kim Dung hay mô tả. Chưa đủ nội lực
mà cứ đòi tập tành thì phế thải có ngày! Làm thơ có vần chưa
làm chủ được vần điệu ngôn ngữ mà đòi cách tân, phá cách
thì thi ca trở
thành dị hợm mấy hồi. Cái căn bản cần thiết phải có mới đủ sức
làm sâu sắc hơn, làm mới lạ hơn văn chương. Thành ra, rút cuộc
vẫn là sự tự rèn luyện và khó khăn nghiêm khắc với chính mình.
Nhà văn Nguyễn Hiến Lê đã tự đặt một kỷ luật cho bản thân. Mỗi
ngày, dù có cảm hứng hay không cũng ngồi vào bàn làm việc. Lâu
dần sẽ thành một thói quen tốt đẹp. Và, với cách làm việc như
thế, ông đã có một công trình trước tác đồ sộ. Riêng tôi khi
theo học lớp sáng tác văn học ở tại đại học ở đây cũng được chỉ
dẫn rằng mỗi ngày phải viết vài trang bằng ngôn ngữ mình và
dịch vài trang từ những tác phẩm được kể là cổ điển để tâp
thành thói quen trong công việc vận dụng chữ nghĩa để. Cũng như
đọc một cuốn sách nhiều lần, lần đầu để nắm bắt ý tưởng,
lần sau tóm lược và ghi chép lại thành từng thẻ có thể hệ thống
hóa. Tôi cố gắng theo nhưng hình như đời sống ở đây có quá nhiều
thúc bách nên kỷ luật ấy cũng gần mai một đi. Nhưng ít ra tôi
cũng tự hiểu đó là một phương thức tập luyện tốt…
Kỹ thuật cũng rất cần tuy chưa đủ để tạo thành những tuyệt tác.
Mà, nói đến kỹ thuật là nói đến những kinh nghiệm thu lượm được
từ quá trình làm việc qua sự vận động và tìm kiếm.
Nói theo lý thuyết một cách logically như vậy thì quá dễ. Làm
sao để tiếp cận được vào văn học thế giới thực sự là một câu hỏi
khó cho những người cầm bút. Vượt qua những giới hạn thực tế,
nhiều khi cần phải nỗ lực trong một đời sống nhiều thúc ép hiện
nay.
Câu chuyện trong quán cà phê có phải là chuyện phiếm bàn chơi?
Tại vì tôi quá nặng lòng với văn chương nên thắc mắc vương vấn
mà thôi. Chứ
còn, ngày lại ngày, vòng quay đời sống dường như mỗi ngày bào
mòn cả ước mơ. Với tôi, còn cầm bút được là vẫn còn một chút
hạnh phúc nhỏ nhoi. Viết để cho riêng mình có một thú vui, như
mình nâng niu một đóa hoa, không phải là một điều thích ý sao?
Mỗi lần đọc những dòng chữ do chính mình viết ra, có phải là
đang tâm sự với những người cùng tri kỷ. Và, cũng chẳng để ý
làm gì đến ít hay nhiều mắt xanh để ý đến văn chương mình? Cái
gì tốt đẹp tự nhiên sẽ tồn tại, cũng như những giả trá bất toàn
sẽ bị đào thải theo đúng luật đất trời!
Ở trong nước, câu hỏi:
Tại sao viết? Viết để làm gì? và viết như thế nào? cũng là những
vấn nạn thường xuyên trên báo chí.
Nhà văn Nguyên Ngọc trong bài phỏng vấn của Dã Tượng đã phát
biểu:
“Vâng, nhà văn viết bằng cái gì? Theo tôi có ba cái chính : tài
năng “trời cho”, sự trải nghiệm hay “vốn sống” và cái thứ ba là
nền tảng văn hóa dân tộc và nhân loại mà anh ta có được, anh ta
“đứng“ trên đó để tiếp tục đi tới… Lớp người trẻ cầm bút ở Việt
nam hiện nay thiếu hụt hơn cả chính là cái thứ ba này...”
Và ông cho rằng sự thiếu thốn kể trên vì trong nước hiện nay
không có Đại Học thực sự với chất hàn lâm phải có. Nền đại học
hiện tại chỉ là những “lớp phổ thông cấp bốn“ như lời giáo sư
Hoàng Ngọc Hiến ví von. Và sau đó ông còn đề cập đến không có tự
do sáng tác tạo thành một nền văn học “minh họa“ nông cạn, một
chiều và là công cụ cho chính quyền.
Chu Văn Sơn, trong “Tác phẩm lớn, tại sao chưa?” thì phân tích :
“...
Không thiếu những cây bút sau
màn trình làng đầy ấn tượng hứa hẹn một triển vọng nào đấy nhưng
rồi tài năng ban đầu không cường tráng lên để thành tài năng,
trái lại, cứ sa sút mai một dần. những cái ra sau chỉ là sự pha
loãng cái ra trước, thậm chí loãng đến mức khó tin. Có người bi
quan đã ngờ vực khôngb khéo cái tạng chính của người viết ở ta
chỉ là “nhà văn của cái đầu tay”.
Giải thích về hiện tượng sa sút phong độ sau những sáng tác đầu
tay, người ta thường đề cập ba thiếu hụt quen thuộc: vốn văn
hóa, vốn sống và những kỹ năng sáng tạo. Vốn văn hóa không chỉ
là tri thức về các bộ môn văn hóa hay hiểu biết về các nền văn
hóa bốn phương, mà quan trọng hơn là cái lõi nhân văn của kẻ
viết có đầy đặn hay chưa sau khi hấp thụ những tinh hoa văn hóa
khắp nơi ấy. Vốn sống cũng không phải là những tri thức cuộc
sống đã được nạp đầy hay vơi trong túi khôn của kẻ viết, mà đáng
nói hơn là vốn ấn tượng, vốn trải nghiệm cật ruột của chủ thể
sáng tạo trong trường đời đã đủ giúp anh hóa thân vào mọi nỗi
đời chưa. Cũng như thế kỹ năng
sáng tạo đâu chỉ đơn giản là những chiêu mới chiêu lạ chiêu độc
tích cóp được từ việc học những trường phái tân kỳ hay các bậc
thầy đến từ phương xa. Mà quyết định hơn là mọi thao tác kỹ
năng đã ngấm vào thành ứng xử nghệ thuật thành giác quan của
người viết hay chưa. Chúng ta thường khuyến cáo người viết hãy
bồi đắp cho những thứ ấy đầy đặn lên, vạm vỡ hơn. Không thể chối
cãi được rằng nội lực của người viết phụ thuộc rất nhiều vào sự
dồi dào của ba yếu tố ấy. Chưa có một nội lực như vậy, thật
khó hy vọng về tác phẩm thật sự lớn…”
Cũng có người thì lại quan niệm nghe ra hơi ngang tai nhưng
không phải là không lý do trong thực trạng văn học trong nước
hiện nay. Như lời phát biểu của Nguyễn Đình Chính, con ruột nhà
văn Nguyễn Đình Thi và là tác giả của tiểu thuyết “Đêm Thánh
Nhân”, cũng như đã có ý định muốn ra khỏi Hôi Nhà Văn Việt Nam:
“Tôi biết rằng nhà văn thì nên đứng ra ngoài lề xã hội, ngậm
miệng ăn tiền ngồi quay mặt vào vách tường mà viết văn thì mới
là nhà văn lớn, mới là khôn ngoan, biết điều. Nói nhiều là ngu.
Càng nói càng dại. Có lẽ tôi đang là một ví dụ cụ thể. Nhưng đã
hỏi thì tôi xin có nhời. Đất nước đang tiến vào vận hội mới
Toàn dân tộc đã thoát ra khỏi cơn ngái ngủ bao cấp, ỷ lại rồi.
Thú thực nhé, là một người trong cuộc mà tôi cũng chẳng hiểu văn
nghệ Việt
Nam
hôm nay đã chạy thoát ra khỏi cơn ngái ngủ bao cấp đó chưa?
Viết để sống. Sống để viết. Hình như ở bất cứ không gian thời
gian nào cũng là hai vế của một phương trình. Có lúc tưởng đối
nghịch nhau nhưng tựu trung vẫn là một. Dù ở trong nước hay hải
ngoại, dù thời gian cách nay cả thế kỷ cho đến bây giờ, viết
vẫn là do bức xúc từ đời sống. Sống đeo đẳng cái nghiệp viết. Và
viết để làm đời sống có ý nghĩa hơn. Văn chương, có khi là
duyên phận, là những tình cờ, của những phút giây “bắt được của
trời”. Thực ra, để trở thành một nhà văn Việt
Nam
thường thường đã khó, huống chi còn đòi tác giả lớn, tác phẩm
lớn. Ở trong nước, thì giáo dục hạn chế, đại học chỉ là bậc
trung học nối dài, triết học căn bản không có vì thay thế bằng
học thuyết Mác Lênin. Ở hải ngoại, thì tiếp cận được với căn học
thế giới nhưng ít độc giả và tất cả nỗ lực văn chương đều dồn
vào trên vai cá nhân những người cầm bút. Nhà văn, chỉ có
thể cầm bút được nếu không ở tâm trạng phải viết vì quá nhiều
điều chất chứa từ cuộc sống phải bộc lộ, phải nói ra. Cầm bút,
chính là một phương cách để tự giải phóng mình…
|