.

PSN
BỘ MỚI 2008
HỘP THƯ

                            TRANG CHÍNH

" Không có tự do Sáng Tác, thì Văn Nghệ Sĩ sẽ bị biến thành Thợ Viết, Thợ Vẽ, ... cho một ông chủ nào đó mà thôi ! " (LN)


bút
việt
hồn
quê

BIÊN TẬP

Thích Phước An | Trần Đỗ Cung | Kiều Mỹ Duyên | Trần Trung Đạo | Minh Triết TRẦN THIỆN ĐẠT | Trần Kiêm Đoàn | Phổ Đồng | Tâm Hải Đức | Nhất Hạnh | Tuệ Chương - Hoàng Long Hải | Vĩnh Hảo | Chiêu Hoàng | Đại Lãn | Lặng Lẽ | Lâm Kim Loan | Trần Quan Long | Phạm Trọng Luật | Miêng | Diệu Trân | Phan Quân | Đặng Văn Sinh | Tuệ Sỹ | Ninh Hạ - Nguyễn Đức Tâm | Phong Thu | Nguyễn Mạnh Trinh | Lê Khánh Thọ | Trần Đình Thu | Trần Khải Thanh Thuỷ | Anh Thư | Tiểu Tử | Nguyễn Ước | T. Vấn | Hiền Vy | Tác Giả Khác...

GIAI THOẠI

Bùi Giáng | Hữu Loan | Giang Hữu Tuyên |

 

 

  Nguyễn Mạnh Trinh

Hội nhập văn học?
thế nào? bao giờ?...

  • 31.03.2008

Đời sống thường có những câu hỏi. Có hay không một nền văn học lưu vong ở hải ngoại? Cũng như, những người cầm bút ở hải ngoại nghĩ thế nào về sự giao lưu và hội nhập? Mà hội nhập thế nào, hội nhập vào văn học dòng chính ở nước họ định cư, cũng như hội nhập vào dòng văn học trong nước ?

Hội nhập vào văn học  ở những nước mà họ sinh sống nổi bật nhất ở những thế hệ một rưỡi hoặc thứ hai. Họ viết bằng Anh ngữ  hoặc Pháp Ngữ và hình như dù họ viết với tâm cảm Việt Nam nhưng đối tượng độc giả có lẽ không phải chỉ riêng người Việt mà còn cả những người bản xứ. Thực tế, họ đã tạo được sự để ý của giới xuất bản cũng như phê bình và cũng chiếm được nhiều giải văn học. Họ  là Linda Le viết Pháp ngữ, là  Monique Trương, Aimee Phan, Lan Cao, Andrew Lam, Kien Nguyen, le thi diem thuy, Đao Strom, Nguyen Minh Bich, Mộng Lan,…viết Anh Ngữ.

Còn một chiều hướng khác, hội nhập vào văn học trong nước. Từ một câu hỏi, văn học hải ngoại còn là một nền văn học lưu vong mà yếu tính của nó là sự phản kháng chế độ đương quyền trong nước, có thể  là một tiền đề cho câu  trả lời có  và không. Một khi chế độ đương thời vẫn còn là một chế độ độc tài toàn trị, thì liệu sự hội nhập ấy có ý nghĩa gì không?

Theo tôi, giữa nhà văn trong nước với nhà văn hải ngoại không hề có sự đối kháng cũng như giữa những người dân ở hải ngoại và trong nước không có sự dị biệt nào để hòa đồng. Nếu có đối kháng chăng là giữa chế độ và người dân, kẻ cai trị và người bị trị. Thành ra, đặt ra vấn đề hòa giải giữa những nhà văn trong nước và hải ngoại là một chuyện dư thừa. Là người cầm bút với nhau, chắc sẽ cùng tâm cảm và ước vọng với đất nước nên nếu có trường hợp gặp gỡ thì cũng là nối giây thân hữu. Hơn nữa ngay mối liên hệ giữa nhà văn và nhà cầm quyền cũng còn nhiều trường hợp trục trặc. Như nhà thơ Trần Dần tuy được giải thưởng loại văn học bậc quốc gia nhưng vẫn bị dè chừng, tuyển tập thơ bị cắt xén, xuất bản bị làm khó dễ  đến mức cấm cản. Thì nói gì đến những nhà văn hải ngoại dù “lý lịch” có sạch sẽ thế nào chăng nữa cũng không khỏi bị nghi ngờ là những người  sẽ gây mầm mống chống đối chế độ.

Thực tế cho thấy, ở trong nước ngay cả trên mặt văn hóa, cũng có sự chỉ đạo của công an.  Một thí dụ gần đây,  trong nhóm đi tịch thu cuốn sách "Thơ Trần Dần“ ở nhà xuất bản Nhã Nam bên cạnh các nhân viên của tuyên huấn, của cục xuất bản, của công an địa phương còn có sự có mặt của A25, một thứ công an văn hóa và là bộ phận có tiếng nói quyết định.

Hội nhập. Có rất nhiều người bàn bạc đến, thậm chí còn đặt câu hỏi sẽ phải hội nhập như thế nào nữa. Viết xong một tác phẩm, lẽ ra là hoàn tất công việc của một nhà văn, nhưng thực tế thì không hẳn vậy. Những thắc mắc luôn đè nặng. Dư âm của cuộc chiến vẫn còn và chiến tuyến vô hình không phải ngày một ngày hai mà hết. Nó vẫn còn và những suy tư, những đau thương có khi là những đề tài cho văn chương và phản ánh một thời đại mà con lốc lịch sử đã đổi chiều đến độ khốc liệt.

Là nhà văn, ai cũng muốn có nhiều độc giả, nhất là ở hải ngoại muốn có độc giả từ trong nước, khi số lượng người đọc Việt ngữ càng ngày càng giảm đi. Nhưng, khi trong nước vẫn còn những hệ thống không kiểm duyệt mà siêu kiểm duyệt thì chuyện có sách được in trong nước đối với những người không có thế thần hoặc không quen xin xỏ chạy chọt khó lòng chen vào được. Thành ra, trong hiện tại, sách từ trong nước thì bán đầy ở hải ngoại mà những cuốn sách của các nhà văn hải ngoại thì ít ỏi và hiếm vắng ở trong nước. Những sách của các tác giả có “lý  lịch xấu“ ở trong nước còn bị đầy đọa huống chi những người ở hải ngoại mà lúc nào chính quyền cũng dè chừng là sẽ “chuyển lửa về quê hương”.

Những câu hỏi làm thế nào để hòa giải hòa hợp, để giao lưu, để hội nhập,… đều bị một vấn nạn chính phát xuất từ chế độ đang cầm quyền hiện nay. Từ chuyện đổi mới, cởi trói rồi trói lại rồi cởi ra, nhà văn ở trong nước chạy theo đã hụt hơi huống chi người ở ngoài.

Trên lý thuyết, thì mục đích của các suy nghĩ về gioa lưu và hội nhập đều đúng và là lý tưởng nữa. Nhưng trên thực tế, thì chưa chắc. Nếu viết mà cứ luôn luôn tự hỏi mình sẽ phải viết thế nào, nghĩ ra sao để ở “trong nước“ chấp nhận thì chẳng thà đừng viết còn hơn…

Một câu hỏi thường hay đến với người cầm bút : Viết ? Tại sao viết và viết thế nào ? Trả lời câu hỏi ấy, có khi rất giản dị nhưng cũng có khi cực kỳ khó khăn. Viết, có phải là một cách thế để sống đời sống thực ? Hay là một cách sống với thế giới riêng mình cả những ước mơ? Mỗi người một ý nghĩ, ở thời đại hiện nay, nhất là với những người Việt Nam đã trải qua nhiều biến cố, ở những vị trí khác nhau, có khi là chiến tuyến đối nghịch, thì văn chương phỉa phản ánh được nỗi niềm của cả một thế hệ. Có những người, viết để giải tỏa những ẩn ức của đời lưu lạc. Có người, coi viết là một cái nghiệp tay trái phải trả trong khi tay phải vẫn khư khư cái nghề để mưu sinh. Từ những quan niệm khác nhau, những suy tư khác nhau, có lẽ đã xảy ra cuộc tranh luận. Và, câu trả lời vẫn là những  phân vân bất định.…

Có người làm thơ lúc nào cũng bức xúc với câu trả lời phải viết thế nào và ra sao. Hình như, chỉ là sự gợi ý mà không phải là những ý nghĩ khẳng định hay phủ định. Cách nay một thế kỷ, Rainer Maria Rilke  trong tác phẩm Thư Gửi Người Thi Sĩ Trẻ Tuổi, gồm 10 lá thư gửi cho Franz Xavez Kappus đã nêu ra một vấn đề mà tới nay vẫn còn tồn tại. Một vấn đề muôn thuở của người làm thơ thường suy ngẫm. Tôi đọc một đoạn trong lá thư đầu tiên (bản dịch Phạm thị Hoài):

Không ai có thể khuyên ông và giúp ông, không một ai. Chỉ có một cách duy nhất mà thôi. Ông hãy đi vào chính mình. Hãy truy cứu cái nguyên nhân khiến mình cầm bút, hãy kiểm tra xem nó có bắt rễ từ chỗ sâu xa nhất của trái tim không, hãy tự thú xem nếu không viết liệu mình có chết nổi không? Và trước hết hãy tự hỏi mình vào giờ khắc tĩnh mịch nhất trong đêm, ta có phải viết không? Ông hãy đào xới trong chính mình tìm câu trả lời tận gốc. Và nếu có khẳng định, nên ông có quyền đáp lại câu hỏi nghiêm trọng ấy bằng một lời mạnh mẽ và giản dị rằng “Ta phải viết“ thì ông hãy xây đời mình trên sự tất yếu ấy, cuộc đời ông ngay cả trong những giây phút dửng dưng và tầm thường nhất cũng phải trở thành dấu hiệu và chứng chi của sự thôi thúc ấy. Rồi ông hãy đến gần thiên nhiên. Hãy thử làm người thứ nhất nói về những gì mình thấy, mình trải qua, yêu thương và đánh mất. Ông đừng viết thư tình, đầu tiên ông nên tránh những thể loại đã quá thông dụng và quen thuộc, đấy là những thể loại khó nhất, vì sức phải lớn và chín muồi mới đưa ra được một cái gì riêng giữa vô số thành công và phần nào thành công xuất sắc của người đi trước.  Do đó ông đừng bén mảng đến nhữn mô típ chung chung mà hãy lui về với những mô típ do chính ngày thường của  mình cung cấp, ông hãy tả ra nỗi buồn và niềm mong ước, những ý nghĩ thoảng qua và lòng tin vào một ngày tốt đẹp nào đó. Hãy tả tất cả với lòng chân thành tha thiết, thầm lặng và nhẫn nhục, và hãy xử dụng mọi vật quanh ông, những hình ảnh trong mơ và những đối tượng của hồi ức làm phương tiện diễn đạt. Nếu ông thấy ngày thường của mình quá nghèo nàn thì xin đừng buộc tội nó, hãy buộc tội chính mình, hãy tự nhủ rằng mình không đủ tầm thi sĩ để gọi ra những tài nguyên của nó, bởi lẽ không có cái nghèo  và không chỗ nào là nghèo nàn chẳng đáng đếm xỉa tới  đối với người sáng tạo…”

Đọc sách, cũng học và biết nhiều điều. Mà, ngay cả khi đàn đúm chuyện trên trời dưới đất, cũng câu hỏi trên vẫn ám ảnh, canh cánh trong lòng…

Mỗi sáng cuối tuần tôi hay ghé quán cà phê ngồi tán dóc với bạn bè. Một tuần qua rất mau với những ngày thứ hai tới thứ sáu tất bật để có những ngày thứ bảy, chủ nhật thoải mái. Cũng là một cách để cuộc đời còn có niềm vui. Ở  đó, tôi gặp nhiều người bạn. Có người, nói chuyện vui vẻ, để cho qua một buổi  sáng nhiều nụ cười, quên đi những lo lắng của cuộc sống. Những câu chuyện giỡn, những chuyện tiếu lâm. Nhưng, thỉnh thoảng, cũng có người bạn, sau khi chuyện vãn lại làm ưu tư hơn. Thí dụ như với một anh bạn mà tôi kể sau đây làm tôi cứ bâng khuâng cả tháng trời…

Thành thật mà nói, anh là người đọc sách rất nhiều và có những suy tư thấu đáo. Nói chuyện với anh, nhiều khi tôi như đi lạc vào những trang sách và có lúc như bị lạc lối không tìm được ngõ ra.  Một buổi sáng, khi nói chuyện về giải Nobel văn chương của Hàn Lâm Viện Thụy Điển, tôi buột miệng nói rằng người Việt Nam đã trải qua những cách thế có một không hai trên thế giới với những đề tài tự thân nó đã có sức thuyết phục ghê gớm, thế mà chưa có một  ai cầm bút được lọt vào trong trào lưu văn học thế giới. Thân phận con người Việt Nam, chiến tranh, thuyền nhân,.. toàn là những lãnh địa bao la cho sáng tác…

Thế là ông bạn quí của tôi có dịp “ăn nói”. Ông mang Milan Kundura để nói chuyện. Trong ”The Art of the Novel“ nhà văn này đã suy luận theo những trào lưu của văn học hiện đại. Vói những sự vận động và tìm tòi không ngưng nghỉ, sự cách tân trong bút pháp cũng như bố cục truyện được coi như một mục đích tối hậu cho bút mực. Làm mới văn xuôi tự sự cũng như thay đổi cung cách suy nghĩ về quan niệm, vai trò, vị trí, hành động, chức năng của nhân vật, Kundura đã đi từ James Joyce, Marcel  Proust, Franz Kafka đến tự bản thân mình.

Ở James Joyce, nhân vật ở trạng thái trở về hình thức đối thoại nội tâm triệt để mỗi khi bị lôi kéo vào một tình trạng chỉ trong khoảnh khắc của thì hiện tại.

Ở Marcel Proust, nhân vật được diễn tả và xuất hiện với tất cả sự huyền diệu và kích thích nỗi ngạc nhiên về cái vũ trụ nội tại của linh hồn con người. Hành trình “Đi tìm thời gian đánh mất” gồm mười lăm quyển sách mở ra những cánh cửa đi vào khung trời tiểu thuyết bao la nhiều chất suy tưởng.

Còn với Franz Kafka nhân vật chỉ còn là hiện thân cho một vấn nạn “Đâu là những khả năng tồn tại của con người trong một thế giới mà những quyết định từ bên ngoài  trở thành nặng nề đến nỗi những động cơ bên trong chẳng còn chút trọng lượng nào nữa”. Kafka mô tả những động cơ thúc đẩy từ bên trong quyết định ứng xử của bản tính con người giữa cái thúc ép của đời sống thực tế bên ngoài thành lực chi phối và luôn luôn giữ vai trò chủ chốt áp đảo trong mọi cách thế quyết định.

Riêng  chính Kundura thì cho rằng nhân vật tiểu thuyết là hiện thân cái gọi  là “bản chất cục diện hiện sinh của cái tôi.” Đây là một quá trình tìm kiếm với tất cả những dụng công để khám phá ra những chân dung còn chìm khuất từ những bức màn che kín của sự vật.

Muốn nhập vào những trào lưu như vậy, nhà văn cần phải nỗ lực làm mới và rời bỏ con đường mô tả theo lề lối truyền thống với những chi tiết của nhân vật : tên tuổi, diện mạo bên ngoài, tiểu sử,, quá khứ, đời sống,… T Joyce, Proust, Kafka, đến Kundura, tất cả những yếu tố trên về nhân vật chẳng còn là quan trọng nữa. Ngay chính những động tác để làm chuyển động  tiểu thuyết cũng không còn là chủ đích, mà cái còn lại là suy tư với những phóng chiếu luận cứ phức tạp từ những góc cạnh nhiều chiều,  nhiều phía để soi rọi vào cái sâu thẳm của bản thể mình và  đời sống mình một cách thật rốt ráo triệt để không thỏa hiệp.

Sau khi lấy những luận cứ  của Kundura làm căn bản, ông bạn trên đi đến một kết luận. Muốn đi vào những trào lưu văn học thế giới, phải từ bỏ chính cái tôi của nhân vật truyện. Chúng ta phải hủy bỏ chính cái vòng mà chúng ta tự vạch ra và tự giam mình vào. Chúng ta cứ quanh quẩn trong cái góc thế giới nhỏ nhoi mà không chịu bước ra những phương trời khoảng khoát hơn. Những sự kiện của chúng ta hôm nay chỉ có giá trị ở thì hiện tại, nhưng ở thì tương lai thì chưa chắc. Cái xốc nổi chưa chắc là cái tồn tại lâu dài. Mà, muôn đời nhất để tồn tại vẫn là hành trình tự tìm kiếm chân dung con người, chân dung muôn thuở có chung một mẫu số của nhân bản nhưng có thể khác về tử số, của những hiện tương của bây giờ. Nhà văn phải có trí tưởng tượng vươt qua cái tôi  … Tại sao chúng ta cứ viết hoài về cái đã quen thuộc đã nhàm chán. Sao không thử bước qua đi những con đường lạ. Viết để làm gì nếu không có sự tìm tòi khám phá. Viết để làm gì, nếu  văn học không mang được những nét tích cực cho cuộc nhân sinh.

Tôi suy đi nghĩ lại, những điều Kundura viết nó chung chung và hiện thực những ý tưởng ấy thành cụ thể không phải là đơn giản...  Trong bụng vẫn vương vấn những suy nghĩ. Những điều kể trên có phải thuần từ lý luận và có dễ áp dụng ở thực tế  Việt Nam không. Mà, thực hành thì ra sao? Đi tìm chính mình, soi gương mỗi ngày? Đúng quá rồi, nhưng diễn tả ra sao vì cái thực và cái ảo có khi nhập nhằng thành một.  Đằng sau cái hình của mình có khi cón cái bóng nhiều khi to lớn hơn,  lộng lẫy hơn. Làm thơ tượng trưng, thơ phá cách, thơ cách tân,… để sáng tạo? Đúng rồi, nhưng có chắc là tìm kiếm chân thực mới lạ không hay là từ ngàn xưa đã có sẵn? Tôi chợt nghĩ đến hin tượng “tẩu hỏa nhập ma” mà Kim Dung hay mô tả. Chưa đủ nội lực mà cứ đòi tập tành thì  phế thải có ngày! Làm thơ có vần chưa làm chủ được vần điệu ngôn ngữ mà đòi cách tân, phá cách thì thi ca  trở thành dị hợm mấy hồi. Cái căn bản cần thiết phải có mới đủ sức làm sâu sắc hơn, làm mới lạ hơn văn chương. Thành ra, rút cuộc vẫn là sự tự rèn luyện và khó khăn nghiêm khắc với chính mình. Nhà văn Nguyễn Hiến Lê đã tự đặt một kỷ luật cho bản thân. Mỗi ngày, dù có cảm  hứng hay không cũng ngồi vào bàn làm việc. Lâu dần sẽ thành một  thói quen tốt đẹp. Và, với cách làm việc như thế, ông đã có một công trình trước tác đồ sộ. Riêng tôi khi theo học lớp sáng tác văn học ở tại đại học ở đây cũng được chỉ dẫn rằng mỗi ngày phải viết  vài trang bằng ngôn ngữ mình và dịch vài trang từ những  tác phẩm  được kể là cổ điển để tâp thành thói quen  trong công việc vận dụng chữ nghĩa để. Cũng như đọc một cuốn sách nhiều lần, lần đầu để nắm bắt ý tưởng, lần sau tóm lược và ghi chép lại thành từng thẻ có thể hệ thống hóa. Tôi cố gắng theo nhưng hình như đời sống ở đây có quá nhiều thúc bách nên kỷ luật ấy cũng gần mai một đi. Nhưng ít ra tôi cũng tự hiểu đó là một phương thức tập luyện tốt… Kỹ thuật cũng rất cần tuy chưa đủ để tạo thành những tuyệt tác. Mà, nói đến kỹ thuật là nói đến những kinh nghiệm thu lượm được từ quá trình làm việc qua sự vận động và tìm kiếm.

Nói theo lý thuyết một cách logically như vậy thì quá dễ. Làm sao để tiếp cận được vào văn học thế giới thực sự là một câu hỏi khó cho những người cầm bút. Vượt qua những giới hạn thực tế, nhiều khi  cần phải nỗ lực trong một đời sống nhiều thúc ép hiện nay.

Câu chuyện trong quán cà phê có phải là chuyện phiếm bàn chơi? Tại vì tôi quá nặng lòng với văn chương nên thắc mắc vương vấn mà thôi. Chứ còn, ngày lại ngày, vòng quay đời sống dường như mỗi ngày bào mòn cả ước mơ. Với tôi, còn cầm bút được là vẫn còn một chút hạnh phúc nhỏ nhoi.  Viết để cho riêng mình có một thú vui, như mình nâng niu một đóa hoa, không phải là một điều thích ý sao? Mỗi lần đọc những dòng chữ do chính mình viết ra, có phải là đang tâm sự với những người cùng tri kỷ.  Và, cũng chẳng để ý làm gì đến ít  hay nhiều mắt xanh để ý đến văn chương mình? Cái gì tốt đẹp tự nhiên sẽ tồn tại, cũng như những giả trá bất toàn sẽ bị đào thải  theo  đúng luật đất trời!

Ở trong nước, câu hỏi: Tại sao viết? Viết để làm gì? và viết như thế nào? cũng là những vấn nạn thường xuyên  trên báo chí.

Nhà văn  Nguyên Ngọc trong bài phỏng vấn của Dã Tượng  đã phát biểu:

“Vâng, nhà văn viết bằng cái gì? Theo tôi có ba cái chính : tài năng “trời cho”, sự trải nghiệm hay “vốn sống” và cái thứ ba là nền tảng văn hóa dân tộc và nhân loại mà anh ta có được, anh ta “đứng“ trên đó để tiếp tục đi tới… Lớp người trẻ cầm bút ở Việt nam hiện nay thiếu hụt hơn cả chính là  cái thứ ba này...” Và ông cho rằng sự thiếu thốn kể trên vì trong nước hiện nay không có Đại  Học thực sự với chất hàn lâm phải có. Nền đại học hiện tại chỉ là những “lớp phổ thông cấp bốn“ như lời giáo sư Hoàng Ngọc Hiến ví von. Và sau đó ông còn đề cập đến không có tự do sáng tác tạo thành một nền văn học “minh họa“ nông cạn, một chiều và là công cụ cho chính quyền.

Chu Văn Sơn, trong “Tác phẩm lớn, tại sao chưa?” thì phân tích :

“... Không thiếu những cây bút sau màn trình làng đầy ấn tượng hứa hẹn một triển vọng nào đấy nhưng rồi tài năng ban đầu không cường tráng lên để thành tài năng, trái lại, cứ sa sút mai một dần. những cái ra sau chỉ là sự pha loãng cái ra trước, thậm chí loãng đến mức khó tin. Có người bi quan đã ngờ vực khôngb khéo cái tạng chính của người viết ở ta chỉ là “nhà văn của cái đầu tay”.

Giải thích về hiện tượng sa sút phong độ sau những sáng tác đầu tay, người ta thường đề cập ba thiếu hụt quen thuộc: vốn văn hóa, vốn sống và những kỹ năng sáng tạo. Vốn văn hóa không chỉ là tri thức về các bộ môn văn hóa hay hiểu biết về các nền văn hóa bốn phương, mà quan trọng hơn là cái lõi nhân văn của kẻ viết có đầy đặn hay chưa sau khi hấp thụ những tinh hoa văn hóa khắp nơi ấy. Vốn sống cũng không phải là những tri thức cuộc sống đã được nạp đầy hay vơi trong túi khôn của kẻ viết, mà đáng nói hơn là vốn ấn tượng, vốn trải nghiệm cật ruột của chủ thể sáng tạo trong trường đời đã đủ giúp anh hóa thân vào mọi nỗi đời chưa. Cũng như thế kỹ năng sáng tạo đâu chỉ đơn giản là những chiêu mới chiêu lạ chiêu độc tích cóp được từ việc học những trường phái tân kỳ hay các bậc thầy đến từ phương xa. Mà quyết định hơn là mọi thao tác kỹ năng đã ngấm vào thành ứng xử nghệ thuật thành giác quan của người viết hay chưa. Chúng ta thường khuyến cáo người viết hãy bồi đắp cho những thứ ấy đầy đặn lên, vạm vỡ hơn. Không thể chối cãi được rằng nội lực của người viết phụ thuộc rất nhiều vào sự dồi dào của ba yếu tố ấy. Chưa có một nội lực như vậy, thật khó hy vọng về tác phẩm thật sự lớn…”

Cũng có người thì lại quan niệm nghe ra hơi ngang tai nhưng không phải là không lý do trong thực trạng văn học trong nước hiện nay. Như lời phát biểu của Nguyễn Đình Chính, con ruột nhà văn Nguyễn Đình Thi và là tác giả của  tiểu thuyết “Đêm Thánh Nhân”, cũng như đã có ý định muốn ra khỏi Hôi Nhà Văn Việt Nam:

“Tôi biết rằng nhà văn thì nên đứng ra ngoài lề xã hội, ngậm miệng ăn tiền ngồi quay mặt vào vách tường mà viết văn thì mới là nhà văn lớn, mới là khôn ngoan, biết điều. Nói nhiều là ngu. Càng nói càng dại. Có lẽ tôi đang là một ví dụ cụ thể. Nhưng đã hỏi thì tôi xin có nhời. Đất nước đang tiến vào vận hội  mới Toàn dân tộc đã thoát ra khỏi cơn ngái ngủ bao cấp, ỷ lại rồi. Thú thực nhé, là một người trong cuộc mà tôi cũng chẳng hiểu văn nghệ Việt Nam hôm nay đã chạy thoát ra khỏi cơn ngái ngủ bao cấp đó chưa?

Viết để sống. Sống để viết. Hình như ở bất cứ không gian thời gian nào cũng là hai vế của một phương trình. Có lúc tưởng đối nghịch nhau nhưng tựu trung vẫn là một. Dù ở trong nước hay hải ngoại, dù thời gian cách nay cả thế kỷ cho đến bây giờ,  viết vẫn là do bức xúc từ đời sống. Sống đeo đẳng cái nghiệp viết. Và viết để làm đời sống có ý nghĩa hơn. Văn chương,  có khi là  duyên phận, là những tình cờ, của những phút giây “bắt được của trời”. Thực ra, để trở thành một nhà văn Việt Nam thường thường đã khó, huống chi còn đòi tác giả lớn, tác phẩm lớn.  Ở trong nước, thì giáo dục hạn chế,  đại học chỉ là bậc trung học nối dài, triết học căn bản không có  vì thay thế bằng học thuyết Mác Lênin. Ở hải ngoại, thì tiếp cận được với căn học thế giới nhưng ít độc giả và tất cả nỗ lực văn chương đều dồn vào  trên vai  cá nhân những người cầm bút.  Nhà văn,  chỉ có thể cầm bút được nếu không ở tâm trạng phải viết vì quá nhiều điều chất chứa từ cuộc sống phải bộc lộ, phải nói ra. Cầm bút, chính là một phương cách để tự giải phóng mình…

 


NGUYỄN MẠNH TRINH

Sinh năm 1949 tại Hà Nội. Hiện sống tại Hoa Kỳ. Chủ trương tủ sách tác gỉa tác phẩm Ðời. Trong nhóm chủ trương Hợp Lưu,  Hoa Kỳ.

Tác phẩm đã xuất bản :

Thơ Nguyễn Mạnh Trinh (Người Việt 1985).

Tuyển tập Hai Mươi Ba Người Viết Sau 1975 (biên tập cùng Trịnh Y Thư Văn Nghệ Hoa kỳ 1989).

(Hình + Tiểu sử : thoivan. com).

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt,  không kích động hận thù,  và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ,  hay bất kỳ một chính phủ nào.