Xuân Vũ
(1930-2004) là một nhà văn mà các tác phẩm cả về lượng lẫn phẩm
đều nổi trội. Ông viết nhiều thể loại, từ những hồi ký đến
truyện dài, từ những truyện phong tục đồng quê của Nam Bộ thời
xa xưa đến những truyện theo sát thời sự từ thuở kháng chiến
chống Pháp đến lúc vượt Trường Sơn vào
Nam.
Ông là nhà văn đoạt giải văn học năm 1973 với truyện ký “Đường
Đi Không Đến” mô tả những bước gập ghềnh của người cán binh Việt
Cộng trên con đường thiên lý trải dài những máu xương chồng
chất.
Cuộc đời của Nhà văn Xuân Vũ kể ra cũng khá đặc biệt. Ông tên
thật là Bùi Quang Triết và sinh vào năm 1930, năm mà phong trào
những người yêu nước của Việt Nam Quốc Dân Đảng nổi lên võ trang
chống lại chính quyền thực dân Pháp. Nguyễn Thái Học và 13 liệt
sĩ tử tiết đã làm gương sáng để thanh niên Việt
Nam
noi theo. Đến năm 1945 khi tiếng súng chống Pháp ở Nam Bộ bắt
đầu nổ thì Xuân Vũ mới 15 tuổi đã tham gia phong trào kháng
chiến và có lúc làm phóng viên của tờ báo “Tiếng Súng Kháng
Địch” của sở Văn hóa Thông Tin Nam Bộ. Năm 1955, Xuân Vũ tập kết
ra Bắc rồi lại trở về Nam năm 1963 để tham gia cuộc xâm lược
miền Nam theo sách lược của Cộng sản quốc tế. Nhìn thấy chân
tướng của cuộc chiến, ông ra chiêu hồi năm 1971 và viết truyện
ký “Đường Đi Không Đến” cũng như hoạt động mạnh mẽ trong chức vụ
phó giám đốc Nha Chiêu hồi của chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Xuân Vũ sinh trưởng tại quận Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre, nơi mà Việt
Cộng gọi là “quê hương đồng khởi” và là nơi nà đội quân tóc dài
của Nguyễn Thị Định tạo ra những chiến công “tưởng tượng“ và
chính Xuân Vũ đã được chỉ định về nơi này để viết về một phụ nữ
ít học tầm thường trở thành một nhân vật đầy tính tuyên truyền
như một huyền thoại không có trong thực tế. Một điều chắc chắn
Xuân Vũ rất yêu quê hương của mình. Có lần ông đã làm một bài
thơ, để nhớ về quê hương cũ đã xa ngàn trùng và chẳng thể nào
trở về ghé thăm được :
“Có nghĩa gì hai tiếng : Mỏ Cày
như đời thở nhẹ, lá me bay
đâu biết tuổi thơ.. lai bất vãng
mà dạ bâng khuâng nhớ tiếc hoài.
Hỡi ơi tóc liễu muôn năm cũ
Sao còn quấn chặt mảnh hồn tôi
trường xưa gạch ngói rêu phong vũ
Giữa bụi trần gian vẫn chói ngời
Mỏ Cày yêu dấu của riêng tôi
Tuy gần mà lại hóa xa xôi
Xa xôi vẫn hẹn ngày tao ngộ
Anh, Mỏ cày, Em, …ở một nơi
Có ai trở lại thời xa vắng
Xin hốt giùm tôi nhúm cát nâu
Bên gốc điệp già mình trốn nắng
Má em anh đặt chiếc hôn đầu”
Thơ bình thường nhưng được cái chân thật, chứa chất một tấm lòng
đối với quê hương. Bao giờ, cái tâm của người Nam Bộ cũng rõ
rệt trong từng câu chuyện kể, trong từng câu thơ viết. Từ hồi ký
đến tiểu thuyết, từ truyện dài đến truyện ngắn, cái phong cách
bộc trực cũng như những ý nghĩ có khi chua chát có lúc châm biếm
đã làm cho ông thành người viết truyện có duyên và lôi cuốn độc
giả. Những nhân vật của ông, có nét đặc thù của người Nam Bộ và
trong hoàn cảnh của một cuộc chiến tranh tương tàn đã sống thực
trong tác phẩm và chuyên chở được những nỗi niềm của người cầm
bút luôn ưu tư vì vận mệnh của đất nước. Ông đã xuất bản chừng
hơn 50 cuốn sách mà trong đó phân loại ngọn ngành ra ở nhiều thể
loại. Như bộ Đường Đi Không Đến gồm 3 quyển “Xương Trắng Trường
Sơn”, ”Mạng Người Lá Rụng”, ”Đến Mà Không Đến”. Như bộ “2000
ngày đêm trấn thủ Củ Chi” gồm 5 cuốn. Như bộ “Văn nghệ sĩ miền
Bắc như tôi biết “ gồm 3cuốn. Rồi “Kẻ Sống sót”, truyện dài.
“Nửa thế kỷ Phạm Duy “, khảo luận. Những bộ truyện dài, truyện
ngắn về đồng quê miền Nam lại có phong vị riêng, vẽ lại một thời
kỳ đã qua như “Những Độ Gà Nòi”, “Vàng Mơ Bông Lúa”, “Thầy Tư
Cóc”, “Gánh Bầu Rập”, “Tấm Lụa Đào”, “Dây bầu Năm Ngọn”…
Tác phẩm mà Xuân Vũ viết đầu tiên khi về hồi chánh là một hồi ký
”Đường Đi Không Đến“. Là người đã tập kết sau khi tham gia kháng
chiến ở miền Nam, ông đã hiểu rõ hết những nét phi nhân của chế
độ xã hội chủ nghĩa, đã thấy được những dối trá của một chủ
nghĩa đấu tranh giai cấp, hô hào bỏ đi một xã hôi bóc lột nhưng
lại thiết lập một chế độ khác bóc lột và đàn áp gấp bội. Đường
Đi Không Đến và những cuốn tiếp theo như Mạng Người Lá Rụng,
Xương Trắng Trường Sơn, Đến Mà Không Đến,.. đều có không gian
của con đường Trường Sơn, con đường được xây đắp bằng thân xác
hàng triệu sinh linh và cuồng vọng xâm lăng của những người lãnh
đạo chế độ miền bắc. Ở đó, có những mẫu nhân vật bị đẩy vào một
cuộc viễn hành không mong muốn, với cái khải hoàn môn lơ lửng
đằng trước nhưng không bao giờ đến được. Ở đó, họ sống và vì khả
năng sinh tồn nên nhiều khi những chuyện đạo đức, những lẽ phải
trái thường tình được coi là chuyện xa vời không thực tế. Ở đó,
họ chỉ cần miếng ăn và nghỉ ngơi trên con đường trường chinh
gian khổ. Để đạt mục đích ấy, họ hành xử theo bản năng và thấp
thoáng đâu đó, cái hình dạng thú vật tỏ hiện. Những chiêu bài
nói để mà nói là những lớp sơn che phủ thực tại đầy bóng tối
mà chế độ đã xử dụng để thúc đẩy cả một thế hệ xông tới như hình
ảnh bó cỏ non che trước bờm ngựa bị che mắt hai bên để chỉ nhìn
về trước mặt và gắng lao về trước theo một lối đi dành sẵn.
Trong Thay Lời Tựa của cuốn hồi ký này, Xuân Vũ đã kể lại chuyện
thuở bé mình đi học, thấy con ngựa gầy kéo xe dù mang nặng trên
vai hành khách trên xe nhưng vẫn rướn tới để đớp lấy bó cỏ non
phất phơ trước mặt và không bao giờ ngoạm đến. Một hình ảnh liên
tưởng đến những người vượt Trường Sơn. Đoạn kết của hồi ký này
cũng mang hình ảnh con ngựa gầy bị gục chết khi cố gằng kéo
chiếc xe năng và lên dốc. Nó nằm chết, miệng sùi bọt và bó cỏ
non vẫn còn chỏng chơ bên cạnh. Hình ảnh ấy đã ám ảnh Xuân Vũ
trên Đường Đi Không Đến :
“... Lạ thật những chuyện mới xảy ra hôm qua thì tôi cứ thấy nó
mờ mịt xa xưa như hàng chục năm qua của những việc cách đây mấy
mươi năm thì tôi lại cứ tưởng như mới xảy ra ngày hôm qua.
Tôi cũng không muốn phân biệt cái đã qua và cái hiện tại. Mà tôi
cũng không dám nghĩ tới ngày mai. Ngày mai của tôi ư? Trên đường
Trường Sơn này hay ở đâu mà con đường này dẫn đến, dù trái đất
có xoay dù trời mưa hay trời nắng thì cái ngày mai đó cũng chỉ
là sự lập lại của ngày nay và ngày hôm qua.
Tôi nghếch đầu lên mép võng, giương mắt cố nhìn ra ngoài. Trời
mưa đen đặc thấy gì đâu!
Ôi chao, con đường với những chặng đường… Ở phía sau lưng tôi,
cái mộ bia của anh binh sĩ bên cạnh hai bàn chân thòi ra mô đất
và cái bộ xương trong hốc đá, lẫn lộn với chiếc xe chỏng gọng
với hai bánh quay tít và bốn vó con ngựa chòi đạp trong không
khí. Còn phía trước mặt tôi thì chỉ là… Và…”
Viết hồi ký kể lại những kinh nghiệm sống của mình, Xuân Vũ còn
mang cái tâm sự ê chề của những người tập kết, bị chế độ nghi
ngờ dùng đủ mọi cách để xử dụng như múi chanh bị vắt sạch nước
và vứt bỏ đi một cácch không thương tiếc …
Năm 1989 qua sự giới thiệu của anh Đỗ Đình Tuân nhà xuất bản Văn
Khoa, anh Xuân Vũ muốn tôi viết vài dòng về tiểu thuyết “Kẻ Sống
Sót“ của anh sắp xuất bản. Qua vài lần điện thoại, với giọng
nói rặc Nam Bộ, tôi thấy được cái tâm của anh khi nói về chuyện
ông đã gặp và sống với những nhà văn miền Bắc khi đi tập kết và
ông hiểu rõ nỗi khổ tâm của họ. Cái lối nói chuyện lúc bông đùa
nửa thật nửa giỡn nhưng sâu sắc và lôi cuốn khiến tôi viết vài
hàng tâm cảm của mình trong bài giới thiệu:
“…Viết bằng ký ức. Đốt lửa nội tâm bằng chính chất liệu sống
chắc phải khác lạ hơn cách viết bằng chất liệu vụn vặt thu lượm
được, chắc chắn như thế trong trường hợp của cây bút Xuân Vũ.
Tháng ngày trôi qua, để ký ức men ủ, để ngọn lửa của trái tim
bỏng cháy trui luyện, để giấc mơ làm người chân thật cứ hoài
hoài mộng mị hàng đêm. Những cây cỏ, đá sỏi Trường Sơn chắc cũng
có hồn phách và tiếng nói ấy sẽ sống sót rất lâu trong lịch sử
loài người. Khung cảnh hoang vu của rừng núi Tây nguyên trầm mặc
có chiều sâu của một trận chiến khốc liệt. Trận đấu mất còn sống
mái giữa người với người, với trời đất, với tật bệnh. Câu chuyện
đầy những cái chết tức tười, của thân xác bị vùi dập dưới nấm mộ
sơ sài, của kiếp người bị đẩy
xô vào những cảnh ngộ bi thương không lối thoát. Hiện thực tự nó
đã có những nét khốc liệt mà trí tường tượng không với đến, lại
càng có sức sống và sự lôi kéo thuyết phục hơn. Ở trường hợp kẻ
sống sót, điểm đặc sắc và là nét son rực rỡ nổi bật là sự thực
được nhà văn nhớ lại và diễn tả bằng trí nhớ dài lâu. Hư cấu,
đóng vai trò phụ, đôi khi là bước đi quẩn quanh trong tưởng
tượng của loài người. Thực tế đã làm văn chương có sức sống và
những dòng chữ đã vượt qua biên giới của mình để thành thông
điệp gửi theo nhiều ý tưởng. Của kinh nghiệm riêng đời viết
thành chât liệu của nhiều người…”
Tiểu thuyết “Kẻ Sống Sót” là câu chuyện của một người phi công
Mỹ bị bắt và giam cầm trong một cái cũi và bị hành hạ đầy ải
như một con vật. Truyện có nét hiện thực của một cuộc chiến khốc
liệt và tàn bạo. Phần nổi bật và cũng là dụng ý của tác giả là
làm rõ nét hơn những chân dung chiến tranh, rất người nhưng cũng
nhiếu lúc rất “thú vật”. Khi ngôn ngữ tuyên truyền để lừa đảo
làm thành những chiêu bài tốt đẹp, khi con người đã xử dụng
những “kỹ thuật “ rất tinh vi để hành hạ nhau đã tạo những nét
bi để có những nét hài, những lời nói chua chát, những nụ cười
châm biếm, của những con người vượt Trường Sơn, sống gần với bản
năng để sinh tồn.
Đọc văn Xuân Vũ, tôi có cảm giác như nghe kể chuyện từ một ông
già Ba Tri của đất Nam Bộ với cái nghĩa gần nhất là “đâm những
thằng gian bút chẳng tà”. Ông viết với tâm cảm dồn nén đau
thương, từ dằn vặt quá khứ, của những suy nghĩ và hồi ức, thương
người thương chính mình. Câu hỏi mà bất cứ người Việt
Nam
nào cũng có. Tại sao dân tộc chúng ta lại cứ bị trầm luân đắm
chìm vào đau thương như vậy? Những cái chết thản nhiên hàng
ngày, những thân xác phơi hoang đồng nội, những cái sống lây lất
của những con người bị lừa gạt hoặc dồn đẩy vào con đường thiên
lý mịt mù phục vụ cho mưu đồ cuồng ngạo của những lãnh tụ đỏ.
Với suy nghĩ và tâm thức của “ông già Ba Tri”, ý tưởng như nồng
nàn hơn và ngôn ngữ như bàng bạc cay đắng hơn. Của cả một thế hệ
bị dẫn dắt lầm lạc vào con đường vào
Nam
cứu nước theo ý đồ của Công sản quốc tế.
Cuộc đời Xuân Vũ cũng trôi nổi theo cuộc chiến. Lúc thiếu thời,
tham gia kháng chiến chống Pháp. Lớn hơn một chút, đi tập kết ra
Bắc và cám cảnh cái thân phận của “con nuôi” chế độ. Trong thời
gian ấy, ông gặp các nhà văn “con đẻ” của chế độ, có người theo
thời có người phản kháng. Thời gian ấy đã giúp ông có đủ chất
liệu để viết ”Văn Nghệ Sĩ Miền Bắc Như Tôi Biết” Một bộ sách ba
cuốn phác họa rất nhiều chân dung độc đáo của một người viết với
những ký ức không phai. Nguyễn Tuân, Văn Cao, Hoàng Cầm, Xuân
Diệu, Hoàng Lập Ngôn, Kim Lân, Nguyễn Bính, Ngân Giang, Nguyễn
Xuân Khoát, của cuốn thứ nhất. Phan Khôi, Phùng Quán, Trần Dần,
Chế Lan Viên, Quang Dũng, Hữu Loan, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài,
Vũ Anh Khanh, Lê Đạt,.. của cuốn thứ hai. Và Xuân Quỳnh, Lưu
Quang Vũ, Tố Hữu, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Xuân
Khoát, Nguyên Hồng, Lưu Hữu Phước, Phùng Cung,.. của cuốn thứ
ba.
Bộ hồi ký của Xuân Vũ ghi lại một thực trạng của nền văn học
được mệnh danh là “hiện thực xã hội chủ nghĩa” với những dẫn
chứng sống động, những giai thoại có một không hai mà những ai
không sống trong chế độ đỏ tưởng tượng nổi. Nó phác họa lại
những bi kịch của những người trí thức bị coi là con ghẻ trong
một chế độ mà văn nghệ sĩ trước tiên là nhiệm vụ phục vụ cho
chế độ, cho mục đích tuyên truyền tối hậu của chính trị. Từ hoàn
cảnh mỗi người, những bi kịch có khác nhưng đều giống nhau ở một
điểm là tất cả đều là nạn nhân của chế độ, từ những văn nô theo
thời viết theo chỉ thị của tuyên huấn đến những người chân trong
chân ngoài của vòng kiềm tỏa. Tất cả bị xiết chặt trong guồng
máy chuyên chính và giống như Nguyễn Văn Linh tổng bí thư đảng
có lần đã nói văn nghệ sĩ bị trói từ nhiều năm nay cởi trói.
Nhưng, cởi rồi lại trói, cũng chính từ Nguyễn Văn Linh bởi vì
nhu cầu chính trị cần tạo một ấn tượng cho phong trào đổi mới.
Có những tiếng nói, có lúc như của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, có
lúc trong những câu chuyện, những giai thoại, để nói lên cái tâm
tư khao khát của người nghệ sĩ là tự do tư tưởng trong sáng tác.
Nhưng, làm sao được khi cái vòng kim cô của chủ nghĩa Cộng sản
xiết chặt. Để Nguyễn Tuân phải than : ”Văn học của ta vừa nhạt
lại vừa nhẽo..” Và biết bao nhiêu nhà phê bình nhận địng rằng
suốt bao nhiêu năm, văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa chỉ là
những cái “phi văn học, không có tính văn học“ của Trần Văn
Giàu…
Xuân Vũ qua những chân dung kể trên đã phác họa lại chân thực
một nền văn học mà trong đó người cầm bút lúc nào cũng viết với
cái án văn tự luôn đe dọa. Mà án văn tự như vụ Nhân văn Giai
Phẩm không văn tự, không án lệnh, nhưng chỉ là những thủ đoạn
ngấm ngầm mà độc hại gấp trăm lần những tù có án. Người chịu
đựng không phải riêng một mình mà cả những người trong gia
quyến, trong thân tộc thậm chí cả những người liên quan nữa. Một
vụ án kéo dài suốt mấy chục năm, cho đến bây giờ vẫn còn ảnh
hưởng. Như năm nay, tập thơ Trần Dần bị cấm, mặc dù ông đã được
trao giải văn học khi đã qua đời. Hay những lệnh ngầm khiến
những nhà văn bị ghi tên trong sổ đen bị gạt ra ngoài luồng và
khó có cơ hội góp mặt vào một nền văn học chính thống.
Xuân Vũ đã viết: ”.. Viết văn đối với tôi, là một việc khó khăn,
cao quý, gian khổ và đau khổ. Lắm khi còn đầy đe dọa. Nhưg nếu
chết đi mà còn được tái sinh theo thuyết luân hồi của nhà Phật
thì tôi xin được tiếp tục cầm bút để viết nốt những gì còn bỏ dở
ở kiếp này. Ôi, cây bút gầy gò nhỏ bé! Nhưng nếu không có nó thì
loài người chỉ là một lũ người câm..”
Một bộ hồi ký gồm 5 cuốn mà Xuân Vũ viết qua ký ức của Dương
Đình Lôi ”2000 Ngày Đêm trấn Thủ Củ Chi” cũng là một chứng tích
của một cuộc chiến mà những chiến công tưởng tượng và những anh
hùng là người có tên có tuổi thực nhưng được thổi phồng với
những việc làm mà óc tưởng tượng cũng phải khó khăn lắm để sáng
tạo ra. Xuân Vũ viết để những huyền thoại như Củ chi đất thép
thành đồng hay địa đạo Củ Chi dài cả gần 200 dặm sâu dưới lòng
đất. Ở đó, có những nhân vật “ông“ tướng Ba Đình, “ông” thiếu tá
sọc dưa Năm Thuận, hay ông chính ủy quân khu Võ Văn Kiệt tức
đồng chí Sáu Dân với hành động dâm ô sàm sỡ đã cưỡng hiếp cô
liên lạc viên xinh đẹp nội thành tên Lệ. Trong một cuộc sống mà
mọi người phải đóng kịch với nhau, phải nói những điều mà mình
không tin hoặc không muốn và làm những việc mà mình thấy không
phải, con người trong xã hội ấy đã trở thành những biểu tượng
đầy chất hỉ nộ ái ố để thành một vở tuồng vừa bi vừa hài, của
những cảnh chó nhảy bàn độc, của những tư tưởng ngu dốt lại dẫn
đạo và chỉ lối những người có hiểu biết hơn. Xuân Vũ, qua lời
Dương Đình Lôi, đã xé toang tấm màn bí mật, để sự thực trần
truồng hiện ra dưới ánh mặt trời. Cái mặt trái gớm ghiếc của
cuộc chiến và những sâu bọ đắc thời tha hồ tung hoành trong thời
buổi hỗn quân hỗn quan. Ông viết với sự hiểu biết rành rọt về
một vùng mình đã ở, đã sống nên chất chân thực đã tao cảm giác
cho sự lôi cuốn độc giả. Những chi tiết đã mở ra cả một thời thế
mà cuộc chiến tạo ra những mảnh đời đặc biệt, những cuộc sống
đặc biệt.
Trong lá thư gửi cho người tình đã xa, Dương Đình Lôi thổ lộ tâm
can:
“…Chúng ta hãy cùng nhau cúi hôn mảnh đất Củ Chi đau khổ của
chúng ta hiện nay đang nhục nhã vì bị bon CS đem ra làm trò bịp
thế gian.
Cộng Sản nghĩa là đại bịp. Chúng bịp nhân dân, bịp thế giới và
bịp chính mình. Anh tự muốn ngưng bút ở đây nhưng thấy còn nhiều
sự thực bị bưng bít nên viết tiếp. Hai ngàn trang sách mà anh
viết ra đây sẽ vạch trần bộ mặt láo toét kinh hoàng của bọn CS
Hà Nội mà cả anh lẫn em đều là nạn nhân. Anh muốn nhắc chúng nó
rằng thời kỳ Mỹ đóng chốt ở Đồng Dù, Củ Chi chỉ là một bãi tha
ma không một bóng người thấp thoáng, không một gốc cây còn đứng
nguyên, không một tiếng có sủa gà gáy. Tất cả các cấp ủy đều
chết, bị bắt, hồi chánh hoặc ngưng hoạt động. Ông Út Một Sơn bí
thư đầu tiên Củ Chi bị pháo Đồng Dù bắn lấp hầm chết ở bàu Lách
Nhuận Đức năm 1966. Chắc em còn nhớ chớ ? Nếu địa đạo Củ Chi nối
liền thôn xã (theo ông tác giả ngốc này mô tả thì nó chỉ kém
đường xe điện ngầm ở Mạc Tư Khoa chút thôi) thì sao quận Củ Chi
bị cắt ra làm hai Nam Chi Bắc Chi? Là vì cán bộ không đi qua lại
giữa hai phần đất này. Người ở đâu nằm chết ở đó. Mỗi sáng lóng
ngóng chờ “chụp dù“, “nhảy Đò”, “xe tăng càn” để lủi. Nhưng cũng
không có đất mà lủi. Chỉ cón một cách độc nhất
là làm hầm. Mỗi ông bà có một cái hầm bí mật (nên nhớ hầm bí mật
chỉ là cái hang ếch chứ không phải địa đạo và không có hầm bí
mật nào ăn thông ra địa đạo cả). Sự sợ hãi chết chóc làm tê liệt
mọi ý chí. Cán bộ chỉ mong bị bắt sống cho khỏe thân. Cho nên họ
ngồi trên miệng hầm ngụy trang với một vài cành lá sơ sài như
những người câu tôm câu cá ở bờ sông vậy. Do đó có danh từ “ngồi
thum”. Nhưng ngồi thum trong căn cứ cũng không an toàn vì bị máy
bay trực thăng cá rô hay quart hoặc bị ăn pháo bầy dọn bãi
trước khi Mỹ đổ chụp. Nên các bà Năm Dang, Hai Xót, khu ủy, quận
ủy mới ra tá túc ở ấp chiến lược để “chạy lan” như chuột mất
hang. Chạy lan có ngày cũng chết như trường hợp của cô Tư Bé
quận đội phó bị lính Mỹ bắn chết ở Đồng Dù hay ông Tám Châu bí
thư quận ủy bị pháo bắn mất đầu ở Bố Heo..
Đọc “2000 ngày đêm trấn thủ Củ Chi”, độc giả như thấy hiện ra
một cuộc sống mà sự khốc liệt của chiến tranh đã tàn phá cả
người, cảnh và trong môi trường ấy, con người đã ở trong những
ngõ đường cùng không lối thoát. Huyền thoại Củ Chi Thành Đồng đã
tan tành khi đọc những trang sách mà nét chân thực cũng như tâm
tình của người cán binh Cộng Sản được phô bày rõ nét. Sự hấp dẫn
đã có từng trang, từng dòng. Chiến tranh đã phác họa trong cái
dụng ý tố cáo sự lừa dối tuyên truyền của chế độ đỏ…
Xuân Vũ, dưới bút hiệu Lê Mỹ Hương đã viết những truyện ngắn,
truyện dài kể lại đời sống, phong tục của người miền Nam thuở xa
xưa khi mà Pháp còn cai trị dân ta. Ông vẽ ra những bức tranh ở
nơi thôn dã, với nét sinh động của những người dân Nam Bộ. Những
tiểu thuyết như Những Độ Gà Nòi, Thầy Tư Cóc, Trăng Kia Chưa Xế,
Vàng Mơ Bông lúa,… vẽ ra một thời kỳ đã qua trong lịch sử và
không bao giờ trở lại nữa. Ông đích danh là một nhà văn “miệt
vườn” như những người cầm bút cùng chung đề tài mà tiêu biểu là
Hồ Trường An, Xuân Tước, Ngô Nguyên Dũng, Nguyễn Tấn Hưng… Có
lần nhà văn Xuân vũ đã tâm sự rằng những truyện đồng quê như
vậy bắt nguồn từ những câu chuyện kể của mẹ ông, về những cuộc
đất ở Bến tre như Mỏ Cày, Giòng Trôm,.. Nhiều nhân vật của ông
có thực ngoài đời và những câu chuyện mà ông viết đã xảy ra và
được kể lại từ nhiều người. Có những nét dục tính của những
người quê kiểng cũng như cũng có những phong tục đầy vẻ mê tín
dị đoan. Cũng như phản ảnh lại một thời kỳ mà điền chủ sống như
ông vua trong vùng và tá điền chỉ là những thần dân bị bóc lột,
bị đé nén.
Tác giả Lê Tùng Minh đã có lần hỏi nhà văn Xuân Vũ: ”Quyển tiểu
thuyết “Xóm Cái Bần” của ông có phải là viết về xóm Cái Bần mà
ông đang kể đó không?
Ông đã trả lời ”Đúng, cái xóm đó! Ông có biết không, quê ngoại
đối với tôi là một bài thơ dài, một thiên hồi ký vô tận, không
tài nào viết ra nổi! Tôi chết tôi vẫn còn mang theo những hình
tượng đẹp đẽ về một miền quê nơi tôi cất lên tiếng khóc chào đời
trong một ngôi nhà xưa u tịch. Đối với tôi không một mảnh đất
nào đẹp bằng Quê Ngoại.. Đó là một mảnh trời riêng của tôi, mà
không thể tìm đâu ra mảnh trời riêng ấy trên cõi đời này!!
Xuân Vũ từ trần ngày 1 tháng 1 năm 2004. Với một gia tài văn
chương đồ sộ gần 50 tác phẩm, chắc chắn những người ghi chép văn
học sử không thể quên ông. Bây giờ, ông đã đến nơi chốn vĩnh
hằng chứ không phải cứ xoay vòng mãi từ Đường Đi Không Đến và
Đến Mà Không Đến. Có thể ông đã trở về Quê Ngoại của ông, nơi mà
ông gửi cả tấm lòng khi còn thuở sinh tiền cầm bút…
Nguyễn Mạnh Trinh |