Hai nhà văn, cùng nổi tiếng, cùng đoạt giải Nobel văn chương, và
cùng bị trục xuất ra khỏi đất nước mình, nay một người trở về và
một người kiên quyết không về cho đến khi nhắm mắt. Đó là Joseph
Brodsky và Alexander Solhzenitsyn. Người không trở về, Joseph
Brodsky (1940-1996), đã mượn lời nói của văn hào Fyodor
Dostoyevsky trong tác phẩm “Notes from The Underground” để nói
về mình ”Tôi đã là một cậu bé Nga thật bình thường và tôi đã bắt
đầu để trở thành một người đàn ông thích hợp trong guồng máy.
Nhưng có một vài điều gì làm tôi quay ngược lại... Tôi đã nhận
thức được tôi là ai và là cái gì. Và điều đó đã làm cho tôi
thấy mình thật xấu xa...”
Alexander Solhzenitsyn đã trở về đất nước mình sau khi Gorbachev
thay đổi thể chế nước Nga và cái từ ngữ nhà văn lưu vong trở
thành xa lạ với ông. Còn Với Brodsky, ông vẫn đả kích những bất
toàn của chế độ và vẫn giữ nguyên vị trí của một nhà văn phản
kháng.
Brodsky sinh tại
Leningrad trong một gia đình Do Thái. Cha ông là một nhiếp ảnh viên chuyên
nghiệp của Hải Quân Nga Sô Viết. Khi chỉ có mười lăm tuổi, ông
rời khỏi trường lớp và làm nhiều nghề để kiếm sống như làm thợ
tiện, công nhân tẩm liệm ở nhà xác, thợ đốt lò, gác hải đăng,
nhân viên địa chất…. Ông có ước vọng muốn trở thành bác sĩ nhưng
không thực hiện được.
Trong cùng một thời gian ấy, ông ghi danh vào những chương trình tự
học. Ông học Anh ngữ và Ba Lan ngữ, tập dịch những bài thơ của
Czeslaw Milosz, một người mà ông rất yêu mến tài thơ và cũng là
một người bạn thân thiết. Ông cũng học hỏi kỹ càng để đến mức
sâu xa những lý thuyết về triết học, tôn giáo học, thẩm mỹ học,
và cả thi văn của các nước Anh và Hoa Kỳ. Lúc sau này, ông đã
nhìn nhận rằng ông đọc tất cả sách vở tìm kiếm được, có khi là
sách nhặt được ở thùng rác. Ông đã tìm thấy ở sách vở một người
thầy thật uyên bác.
Brodsky bắt đầu viết những bài thơ đầu tiên khi 17 tuổi. Và cũng bắt
đầu con đường dịch thuật cùng năm (1957). Cậu thanh niên trẻ đã
được khuyến khích và chịu ảnh hưởng của nữ thi sĩ Anna
Akhamatova, người đã gọi những vần thơ của ông là những vần “làm
mê hoặc người đọc”. Nhưng ông cũng không thể tốt nghiệp đại học
dù với chuyên ngành nghệ thuật tự do.
Năm 1963, ông bị bắt và kết tội là thành phần “ăn bám xã hội” bởi
chính quyền Nga Xô Viết vì một bài báo đăng trên
Leningrad
buổi chiều. Một đoạn dối thoại giữa ông và quan tòa trong phiên
xử mà ký giả Frida Vigdorova đã ghi chép lại và gửi sang các
nước tây phương đã thành một câu chuyện nổi tiếng trong lịch sử
báo chí thế giới:
Quan tòa: Và tổng quát nghề
nghiệp chính yếu của anh là gì ?
Brodsky: tôi là một thi sĩ và thông dịch ngoại ngữ.
Quan tòa: Ai chứng nhận anh là thi sĩ? Ai ghi danh anh vào cấp
hiệu thi sĩ?
Brodsky: Không có ai. Tôi tự ghi danh tôi vào cấp hiệu nhân bản
…
Quan tòa: Anh có học về những điều ấy?
Brodsky: Những điều ấy ?
Quan tòa: Anh bắt đầu trở thành thi sĩ như thế nào? Anh đã
không cố gắng để hoàn tất bậc trung học nơi họ sẽ sửa soạn cho
anh, nơi họ sẽ dạy anh học...?
Brodsky: Tôi không nghĩ ông có thể lấy được những điều ấy từ
trường học.
Quan tòa: Vậy rồi sao?
Brodsky: Tôi nghĩ rằng điều ấy…đến từ Thượng đế,”
Với tội danh ”ăn bám xã hội“ Brodsky bị tuyên án 5 năm tù ở trại
cải tạo lao động và đã phải chịu 18 tháng ở nhà tù Archangelsk.
Án được thay đổi năm 1965 khi một vài khuôn mặt tăm tiếng của
nước Nga hay của thế giới như Evgeny Evtushenko hoặc Jean Paul
Sartre lên tiếng phản đối bản án và can thiệp với các nhà lãnh
đạo Nga Xô Viết.
Ngyà 4 tháng 6 năm 1972, ông bị trục xuất ra khỏi đất nước Nga và
sang Hoa Kỳ sinh sống và dạy học. Năm năm sau, ông thành công
dân Hoa Kỳ và thành một giáo sư đại học dạy về văn chương nổi
tiếng. Đầu tiên ông dạy tại
University
of
Michigan
(UM). Ông còn là giáo sư thỉnh giảng của Queens College, Smith
College, Columbia University, và cả Cambridge University ờ Anh
Quốc. Ông còn là “Giáo sư văn chương của 5 đại học“ của trường
Mount Holyoke College.
Trong lãnh vực dạy văn chương và thi văn sĩ, ở Hoa Kỳ ông trở
thành một người có nhiều thành đạt. Năm 1978 ông nhận cấp bằng
tiến sĩ danh dự của Yale University và năm 1979 ông trở thành
một thành viên American Academy and Institute of Arts and
Letters. Năm 1986, tuyển tập khảo luận “Less Than One” đoạt giải
National Book Critic’s Award cho ngành phê bình văn học.
Năm 1987 ông đoạt giải Nobel văn chương, là nhà văn thứ năm sinh
trưởng ở Nga đoạt giải thưởng văn học này. Trong một cuộc phỏng
vấm diễn ra ở phi trường Stockhom khi có một ký giả hỏi: Ông là
một công dân Hoa Kỳ đã nhận giải thưởng về thi ca viết bằng Nga
ngữ. Vậy ông là ai ”Là người Hoa Kỳ hay người Nga?” Thì ông trả
lời ”Tôi là một người Do Thái, một thi sĩ Nga và một nhà khảo
luận viết tiếng Anh”
Brodsky từ trần vì chứng bệnh nhồi máu cơ tim ở nhà riêng tại
Newyork ngày 28 tháng giêng năm 1996 và chôn tại nghĩa trang
Isola di San Michelle ở Venice, nước Ý như lời ông mong muốn lúc
sinh tiền.
Những nhà thơ mà ông chịu ảnh hưởng có Osip Mnadelstam, WH Auden,
Robert Frost. Nhà văn cũng được giải văn chương Nobel, Derek
Walcott đã hồi tưởng và tưởng niệm Brodsky trong tuyển tập thơ
mới nhất của ông: The Prodigal.
Khi còn trẻ ở vào tuổi hai mươi, ông đã là một người cầm bút được
nhiều tán thưởng của các cây bút nổi tiếng và được xác nhận vị
trí của một thi sĩ và dịch giả có nhiều tài năng. Nhà thơ nữ
Anna Akhamatova đã tiên đoán rằng Joseph Brodsky sẽ có một số
mệnh vinh quang nhưng lại có một cuộc sống nặng nề nhiều thúc
ép…
Thơ của Joseft Brodsky có chủ đề chính là sự tương quan giữa thi ca
và xã hội. Ông cũng nhấn mạnh đến uy lực của văn chương tạo
thành những ảnh hưởng năng động đến dư luận và sự phát triển
ngôn ngữ và văn hóa trong những mục tiêu ấn định. Ông còn gợi ý
rằng truyền thống văn hóa Tây Phương là một phần của thế giới
để vượt qua những tai họa của thế kỷ 20, chủ nghĩa phát xít, chủ
nghĩa Cộng sản, và chiến tranh. Trong nhiệm kỳ ông làm thành
viên của Poet Laureate, ông đề xướng đề nghị mang truyền thống
thi ca Anglo-American tới những đối tượng rộng lớn hơn với sự
cung cấp miễn phí những thi tập tới đại chúng với sự trợ giúp
từ các chương trình của chính phủ. Nhưng những dự thảo này gặp
phải thái độ không nhiệt tâm lắm ở thủ đô
Washington
DC.
Trong lễ nhận giải Nobel văn chương, Hàn lâm Viện Thụy Điển đã tôn
vinh ông như sau: “Một nét đặc thù cuả Joseph Brodsky, người
đoạt giải Nobel năm 1987, là nỗi vui mừng bao la trong hành
trình khám phá không ngừng nghỉ. Ông tìm kiếm được những mối
liên hệ, nói về chúng một cách thật rốt ráo và chính xác rồi lại
tiếp tục nhìn ra những quan hệ mới hơn. Không hiếm hoi khi những
liên hệ ấy có lúc khá mơ hồ và thậm chí còn đối nghịch nhau, vì
thường được nảy sinh từ một ý nghĩ nhanh như ánh chớp loà” Tôi
cho rằng hồi ức đã thay thế cho phần đuôi mà chúng ta đã đánh
mất miên viễn trong con đường tiến hóa đã qua đầy may mắn. Nó
chỉ hướng cho những động tác vận động của chúng ta.
Trong những tác phẩm xuất sắc đã lôi cuốn sự chú tâm của Hàn Lâm
Viện năm nay, thi ca là hình tượng tiêu biểu nhất của cuộc sống
với chủ đề nhất quán và xuyên suốt. Chủ đề ấy được khai triển
với một tài nghệ văn chương tuyệt vời dung hợp những nét đẹp trí
tuệ cũng như sự trác tuyệt điêu luyện của ngôn từ.
Bây giờ Brodsky là công dân Hoa Kỳ nhưng nơi ông sinh trưởng và lớn
lên là
Leningrad hoặc Peter, nơi chốn mà ông gọi tên theo danh hiệu cũ của
Peterburg. Đó là nơi mà những Puskin, Gogol, và Dostoevsky đã
sống và sáng tác, và khung cảnh ấy với bối cảnh của kiến trúc và
trang trí tân kỳ đã là một phần quan yếu của lịch sử thế giới dù
đã có nhiều tàn phá vì chiến họa vào thập niên 40, 50.
Thi sĩ nằm trong truyền thống thi ca cổ điển Nga cùng vị trí với
những Osip Mandelstam, Anna Akhamatova và Boris Paternak, người
đoạt giải Nobel văn chương. Dù thuộc truyền thống như thế nhưng
lại là người cách tân thơ để áp dụng phương cách của hình thức
diễn tả tân kỳ cho thơ. Ông nhiều khi nảy sinh cảm hứng từ những
thi sĩ Tây phương, nhất là từ văn chương Anh, với nhà thơ siêu
hình John Donne hay Robert Frost và Wystan Auden.”
Thơ của Brodsky đến từ cuộc sống và viết cho cuộc sống. Nó có nét
thiết tha của người yêu vô cùng cuộc đời nhưng có những suy tư,
những câu hỏi về vấn nạn nhân sinh mà thi ca sẽ là phương tiện
dễ dàng hơn để giải thích. Thơ đi từ những thử nghiệm này đến
những trải qua khác và chính thái độ ấy đã làm thơ mới hơn và có
nhiều bản sắc hơn.
Một thí dụ, như bài thơ “A song”, thiết tha gần cận cuộc sống nhưng
lãng mạn và có nhiều nỗi niềm chuyên chở. Thơ, như những nhát cọ
của bức tranh toàn trắng, tạo thành hình ảnh của mầu sắc mờ ảo
nhưng linh động:
“Anh ước ao có em ở đây, yêu
dấu
Anh muốn em ở đây
Ngồi ở chỗ này, chỗ trường kỷ này
Và anh sát bên cạnh
Khăn tay là của em
Phần anh những giọt lệ trên gò má
Dù sự tình có như vậy, dĩ nhiên
Con đường khác đã sẵn
Anh ước ao có em ở đây
Anh muốn em ở đây
Ước muốn cùng ngồi chung trên xe hơi của anh
Và em cho xe lăn bánh
Chúng ta tự tìm kiếm một nơi chốn nào khác
Ở một ghềnh biển vô danh nào
hoặc là chúng ta sửa chữa lại
để về nơi mà chúng ta đã đến lúc trước
Anh ao ước có em ở đây, yêu dấu
Anh muốn em ở đây
Cũng như muốn anh hiểu rằng chẳng có thiên văn học
Khi những vì sao hiện ra
Khi vầng trăng lướt qua mặt nước
Đã thở dài và dâng lên cơn thiếp ngủ
Anh ước gì còn sót lại một đồng quarter
để có thể gọi số điện thoại em
Anh ao ước có em ở đây, yêu dấu
Ở nửa trái đất này
Như anh đã ngồi phệt trên ngạch cửa
Nhấm nháp ly bia
Lúc hoàng hôn mặt trời vừa lặn
Tiếng trẻ con kêu và những con hải âu rền rĩ
Đâu là tiêu điểm của lãng quên
Khi tiếp tục chạy theo từ nỗi chết?
Tôi đọc lại bài thơ đã dịch ra từ tiếng Anh rồi đến nay lại tự
mình chuyển Việt ngữ và tự hỏi mình. Không biết tự thân mình có hiểu được trung thực những gì mà tác giả muốn gửi
gấm? Nhưng quả thực, tôi cảm được nỗi nhớ nhung thiết tha và
nỗi niềm từ cuộc sống. Dù, thơ có nói gì đâu!…
Bản vinh danh Brodsky có đoạn:
“Brodsky đã trải nghiệm cuộc sống thế nào ”Cuộc sống.../ như hai hàm
răng nghiến chặt vào nhau / khi mỗi lúc hội ngộ. Mặc những gian
nan: ra tòa, giam cấm, lưu đày, ông vẫn giữ vẹn tư cách của mình
và niềm tin tưởng sự tốt đẹp của văn chương và ngôn ngữ. Có
những đánh giá hành động của mỗi người, mà sự xuất phát từ văn
chương chứ không phải từ xã hội.
Thi sĩ là người quan trọng duy nhất để hành sử công việc của người
giám sát, truy vấn để lượng định và kết luận sự kiện. Làm thơ,
là chống lại và đi ngược chiều với sự hủy hoại của thời gian.
Thi sĩ cũng chính lại là người phát ngôn cho thế giới câm lặng
hình thức của một xã hội dưới chế độ độc tài toàn trị và cất
tiếng nói trong dòng lũ truyền thông của xã hôi làm cho con
người bị sai lạc đi nhận xét của mình…
Đọc một bài thơ khác của ông “Elegy”, để thấy rằng những hình ảnh
của thi sĩ chứa đựng nhiều cảm giác của những điều khó diễn tả
trực tiếp bằng ngôn từ. Thơ, như một niềm xa vắng nào, lẩn khuất
bên ta. Thơ, không nói về sự lụn tàn nhưng dường như có nỗi sầu
nào man mác, nhẹ nhàng và sâu lắng:
“Gần cả năm trôi qua
tôi trở lại nơi chốn đã là bãi sa trường
nơi những loài chim một thời giương cánh
từ cảm giác thấm thía
của những cặp lông mày kinh ngạc nhướng lên
hoặc đôi lúc từ lưỡi dao cạo sắc
- cánh chim, nay là cái bóng của ánh nắng sớm mai
hiện nay là hình dạng của vệt máu bẩn
bây giờ, chỗ đặt của tiếng o o được đổi trao
trong gót chân còn sót lại, màu đồng đen
của bộ giáp che ngực rám nắng, chôn vùi tiếng cười, vết thương
lời đồn đại tươi rói chực chờ
ký ức của phản trắc cao độ
giặt rửa những bảng khẩu hiệu với dấu tích hằng hằng
của những người từ thuở đứng lên
tất cả che khuất từ đám đông
Sự mục nát hiếm khi ương ngạnh
Trong thể cách kiến trúc. Và trái tim cũng phân biệt
Từ những hang động tối đen
Chẳng to lớn, mà cũng không vĩ đại đủ để hãi sợ
Chúng ta có thể trượt xuống một lần nữa
Như trái trứng đui mù lăn đến một chỗ nào.
Mặt trời lên
Khi chẳng một ai chăm chăm nhìn vào khuôn mặt khác
Tôi thường xuyên
Rút bàn chân ra khỏi khuôn tượng đài đang thiêu chảy
Dài thêm giấc mơ xấu.và nói ở dưới chân ”commander
in chief”. Nhưng laị đọc thành “in grief” hoặc “in brief”.
Hoặc ”đang đi xuống thấp”…
Ông xếp (chief) rồi “nỗi đau đớn” (grief) hoặc “vắn tắt” (brief),
những vần gần nhau nhưng ý nghĩa lại cách xa nhau. Có phải
Brodsky đã xử dụng ngôn từ để viết một khúc bi ca với kết cuộc
là con người đang trong tình trạng lao xuống thấp không kềm hãm
lại được…
Tác phẩm của Brodsky gồm 5 tập thơ: A Part of Speech (1977), To
Urania (1984) So Forth (1990), Collected Poems in English
(2000), Nativity Poems (2001) và 3 tập khảo luận : Less Than One
(1986), Watermark (1992), Go Grief and Reason (1996) cùng một
tập kịch: Marbles (1986).
Với Brodsky, ngôn ngữ đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống
kinh tế và chính trị. Ông cho rằng các thế lực độc tài toàn trị
đã xử dụng ngôn ngữ như một phương tiện để khống chế mọi người.
Cũng như, Solhzenitsyn đã ví sự tuyên truyền như một thủ đoạn
dối trá để lừa dối và ngự trị... Quan niệm của Brodsky là “Các
đế quốc tồn tại không phải nhờ sức mạnh và thế lực về quân sự
hay chính trị mà nhờ ngôn ngữ. Ngôn ngữ đã đóng vai trò của một
đạo quân chủ lực để đi chinh phục“
Với Brodsky, thi ca đóng vai trò của một tặng phẩm thần thánh. Ông
có đề cập đến tôn giáo, nhưng chỉ là những ý tưởng chung chung
và không gắn liền với một tín điều nào. Thơ của ông ở trên
ngưỡng cửa siêu hình và đạo đức là yếu tố quan trọng và những
giáo điều chỉ là phần phụ thuộc.
Thơ của ông có sự linh động, ảnh hưởng bởi đời sống thực và ông cũng
chú trọng đến sự thay đổi cú pháp, để thơ giàu âm điệu hơn và
cũng chuyên chở nhiều ý tưởng hơn. Có lúc, thơ ông có nét mỉa
mai chua chát, nhưng ở đại thể, vẫn là những ý tưởng đứng đắn,
những phong cách nghiêm chỉnh, ngay cả những lúc cảm hứng tràn
đầy nhất .
Hàn Lâm viện Thụy Điển cũng có nhắc đến tính chính trị của thi ca
ông. Và trong diễn văn nhận giải ông cũng đề cập đến :
”…Nến như nghệ thuật có dạy được một điểu gì (và ưu tiên cho người
làm nghệ thuật) thì đó cũng chỉ là một yếu tố có tính cá nhân
của sự tồn tại của loài người. Ở hình thức xưa cũ nhất, -và
chính xác với nguồn gốc nhất- của những thu hoạch cá nhân, nghệ
thuật vô tình gay cố tình,thúc giục trong con người trong cảm
thức cá nhân, duy biệt, riêng tư để biến người nghệ sĩ từ một
động vật sống trong quần thể thành một phần tử có nhân cách.
Nhiều thứ có htể đem chia sẻ: bánh mì, giường nằm, người tình,
quan niệm - nhưng chẳng thể đem chia một bài thơ của Rainer
Maria Rilke. Tác phẩm nghệ thuật, đặc biệt là văn học- và một
bài thơ cách riêng, đối thoại với con người trực diện, thiết lập
quan hệ trực tiếp với con người không cần qua trung gian. Chính
vì thế mà những kẻ quá khích nhiệt tâm ủng hộ quyền lợi của đại
đồng, những kẻ đang dẫn dắt quần chúng, những kẻ đang rao giảng
tính tất yếu của lịch sử, sẽ có ác cảm với nghệ thuật nói chung,
mà văn học hoặc thi ca nói riêng. Lý do là nơi nào có dấu chân
nghệ thuật đi qua, nơi nào mà những vần thơ cất giọng lên, thì
họ sẽ cảm nhận ngay rằng những đồng tình mà họ mong đợi sẽ không
có, mà thay vào đó là sự bất đồng và thái độ bàng quang đứng
ngoài và những hành động quyết tâm được dẫn dắt là thái độ khinh
rẻ, nhàm chán. Một cách diễn tả khác, vào những con số không mà
những người lãnh đạo và những người cuồng tín với chủ nghĩa đại
đồng cứ chực chờ tìm cách điều khiển và lợi dụng, thì nghệ thuật
lại điểm lên “chấm, chấm, phẩy và dấu trừ” biến đổi mỗi một con
số không thành nét mặt nhân bản, dù không luôn luôn lôi cuốn,
nhưng là của con người...” Joseph Brodsky, giải Nobel văn
chương nam 1987, người bị trục xuất ra khỏi nước Nga, người coi
thi ca như lẽ sống của đời mình và đã không trở về quê hương sau
khi chế độ Cộng sản bị thay đổi. Thi ca của ông vẫn còn được đời
nhắc đến như một bằng chứng của tri thức trong một chế độ độc
tài toàn trị. Thơ đã cất lên và có tiếng vang cả thế giới.
Nguyễn Mạnh Trinh |