.

PSN
BỘ MỚI 2008
HỘP THƯ

                            TRANG CHÍNH

" Không có tự do Sáng Tác, thì Văn Nghệ Sĩ sẽ bị biến thành Thợ Viết, Thợ Vẽ, ... cho một ông chủ nào đó mà thôi ! " (LN)


bút
việt
hồn
quê

BIÊN TẬP

Thích Phước An | Trần Đỗ Cung | Kiều Mỹ Duyên | Trần Trung Đạo | Minh Triết TRẦN THIỆN ĐẠT | Trần Kiêm Đoàn | Phổ Đồng | Tâm Hải Đức | Nhất Hạnh | Tuệ Chương - Hoàng Long Hải | Vĩnh Hảo | Chiêu Hoàng | Đại Lãn | Lặng Lẽ | Lâm Kim Loan | Trần Quan Long | Phạm Trọng Luật | Miêng | Diệu Trân | Phan Quân | Đặng Văn Sinh | Tuệ Sỹ | Ninh Hạ - Nguyễn Đức Tâm | Phong Thu | Nguyễn Mạnh Trinh | Lê Khánh Thọ | Trần Đình Thu | Trần Khải Thanh Thuỷ | Anh Thư | Tiểu Tử | Nguyễn Ước | T. Vấn | Hiền Vy | Tác Giả Khác...

GIAI THOẠI

Bùi Giáng | Hữu Loan | Giang Hữu Tuyên |

 

 

  Nguyễn Mạnh Trinh

Joseph Brodsky, nhà thơ lưu vong

  • 11.05.2008


Joseph Brodsky - Bibliographie en français

Hai nhà văn, cùng nổi tiếng, cùng đoạt giải Nobel văn chương, và cùng bị trục xuất ra khỏi đất nước mình, nay một người trở về và một người kiên quyết không về cho đến khi nhắm mắt. Đó là Joseph Brodsky và Alexander Solhzenitsyn. Người không trở về, Joseph Brodsky (1940-1996), đã mượn lời nói của văn hào Fyodor Dostoyevsky trong tác phẩm “Notes from The Underground” để nói về mình ”Tôi đã là một cậu bé Nga thật bình thường và tôi đã bắt đầu để trở thành một người đàn ông thích hợp trong guồng máy. Nhưng có một vài điều gì làm tôi quay ngược lại... Tôi đã nhận thức được tôi là ai và là cái gì. Và điều đó đã làm cho tôi  thấy mình thật xấu xa...”

Alexander Solhzenitsyn đã trở về đất nước mình sau khi Gorbachev thay đổi thể chế nước Nga và cái  từ ngữ nhà văn lưu vong trở thành xa lạ với ông. Còn Với Brodsky, ông vẫn đả kích những bất toàn của chế độ và vẫn giữ nguyên vị trí của một nhà văn phản kháng.

Brodsky sinh tại Leningrad trong một gia đình Do Thái. Cha ông là một nhiếp ảnh viên chuyên nghiệp của Hải Quân Nga Sô Viết. Khi chỉ có mười lăm tuổi, ông rời khỏi trường lớp và làm nhiều nghề để kiếm sống như làm thợ tiện, công nhân tẩm liệm ở nhà xác, thợ đốt lò, gác hải đăng, nhân viên địa chất…. Ông có ước vọng muốn trở thành bác sĩ nhưng không thực hiện được.

Trong cùng một thời gian ấy, ông ghi danh vào những chương trình tự học. Ông học Anh ngữ và Ba Lan ngữ, tập dịch những bài thơ của Czeslaw Milosz, một người mà ông rất  yêu mến tài thơ và cũng là một người bạn thân thiết. Ông cũng học hỏi kỹ càng để đến mức sâu xa những lý thuyết về triết học, tôn giáo học, thẩm mỹ học, và cả thi văn của các nước Anh và Hoa Kỳ. Lúc sau này, ông đã nhìn nhận rằng ông đọc tất cả sách vở tìm kiếm được, có khi là sách nhặt được ở thùng rác. Ông đã tìm thấy ở sách vở một người thầy thật uyên bác.

Brodsky bắt đầu viết những bài thơ đầu tiên khi 17 tuổi. Và cũng bắt đầu con đường dịch thuật cùng năm (1957). Cậu thanh niên trẻ đã được khuyến khích và chịu ảnh hưởng của nữ thi sĩ Anna Akhamatova, người đã gọi những vần thơ của ông là những vần “làm mê hoặc người đọc”. Nhưng ông cũng không thể tốt nghiệp đại học dù với chuyên ngành nghệ thuật tự do.

Năm 1963, ông bị bắt và kết tội là thành phần “ăn bám xã hội” bởi chính quyền Nga Xô Viết vì một bài báo đăng trên Leningrad buổi chiều. Một đoạn dối thoại giữa ông và quan tòa trong phiên xử  mà ký giả Frida Vigdorova đã ghi chép lại và gửi sang các nước tây phương đã thành một câu chuyện nổi tiếng trong lịch sử  báo chí thế giới:

Quan tòa: Và tổng quát  nghề nghiệp chính yếu của anh là gì ?
Brodsky: tôi là một thi sĩ và thông dịch ngoại ngữ.
Quan tòa: Ai chứng nhận anh là thi sĩ? Ai ghi danh anh vào cấp hiệu thi sĩ?
Brodsky: Không có ai. Tôi tự ghi danh tôi vào cấp hiệu nhân bản …
Quan tòa: Anh có học về những điều ấy?
Brodsky: Những điều ấy ?
Quan tòa: Anh bắt đầu trở thành  thi sĩ như thế nào? Anh đã không cố gắng để hoàn tất bậc trung học nơi họ sẽ sửa soạn cho anh,  nơi họ sẽ dạy anh học...?
Brodsky: Tôi không nghĩ ông có thể lấy được những điều ấy từ trường học.
Quan tòa: Vậy rồi sao?
Brodsky: Tôi nghĩ rằng điều ấy…đến từ Thượng đế,”

Với tội danh ”ăn bám xã hội“ Brodsky bị tuyên án 5 năm tù ở trại cải  tạo lao động và đã phải chịu 18 tháng ở nhà tù Archangelsk. Án được thay đổi năm 1965 khi một vài khuôn mặt tăm tiếng của nước Nga hay của thế giới như Evgeny Evtushenko hoặc Jean Paul Sartre lên tiếng phản đối bản án và can thiệp với các nhà lãnh đạo Nga Xô Viết.

Ngyà 4 tháng 6 năm 1972, ông bị trục xuất ra khỏi đất nước Nga và sang Hoa Kỳ sinh sống và dạy học. Năm năm sau, ông thành công dân Hoa Kỳ  và thành một giáo sư đại học dạy về văn chương nổi tiếng. Đầu tiên ông dạy tại University of Michigan (UM). Ông còn là giáo sư thỉnh giảng của Queens College, Smith College, Columbia University, và cả Cambridge University ờ Anh Quốc. Ông còn là “Giáo sư văn chương của 5 đại học“ của trường Mount Holyoke College.

Trong lãnh vực dạy văn chương  và thi văn sĩ, ở Hoa Kỳ  ông trở thành một người có nhiều thành đạt. Năm 1978 ông nhận cấp bằng tiến sĩ danh dự của Yale University và năm 1979 ông trở thành một thành viên American Academy and Institute of Arts and Letters. Năm 1986, tuyển tập khảo luận “Less Than One” đoạt giải National Book Critic’s Award cho ngành phê bình văn học.

Năm 1987 ông đoạt giải Nobel văn chương, là nhà văn thứ năm sinh trưởng ở Nga đoạt giải thưởng văn học này. Trong một cuộc phỏng vấm diễn ra ở phi trường Stockhom khi có một ký giả hỏi: Ông là một công dân Hoa Kỳ đã nhận giải thưởng về thi ca viết bằng Nga ngữ. Vậy ông là ai ”Là người Hoa Kỳ hay người Nga?” Thì ông trả lời ”Tôi là một người Do Thái, một thi sĩ Nga và một nhà khảo luận viết tiếng Anh”

Brodsky từ trần vì chứng bệnh nhồi máu cơ tim ở nhà riêng tại Newyork ngày 28 tháng giêng năm 1996 và chôn tại nghĩa trang Isola di San Michelle ở Venice, nước Ý như lời ông mong muốn lúc sinh tiền.

Những nhà thơ mà ông chịu ảnh hưởng có Osip Mnadelstam, WH Auden, Robert Frost. Nhà văn cũng được giải văn chương Nobel, Derek Walcott đã hồi tưởng và tưởng niệm Brodsky trong tuyển tập thơ mới nhất của ông: The Prodigal.

Khi còn trẻ ở vào tuổi hai mươi, ông đã là một người cầm bút được nhiều tán thưởng của các cây bút nổi tiếng và được xác nhận vị trí của một thi sĩ và dịch giả có nhiều tài năng. Nhà thơ nữ Anna Akhamatova đã tiên đoán rằng Joseph Brodsky sẽ có một số mệnh vinh quang nhưng lại có một cuộc sống nặng nề nhiều thúc ép…

Thơ của Joseft Brodsky có chủ đề chính là sự tương quan giữa thi ca và xã hội. Ông cũng nhấn mạnh đến uy lực của văn chương tạo thành những ảnh hưởng năng động đến dư luận và sự phát triển ngôn ngữ và văn hóa trong những mục tiêu ấn định. Ông còn gợi ý rằng truyền thống  văn hóa Tây Phương là một phần của thế giới để vượt qua những tai họa của thế kỷ 20, chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa Cộng sản, và chiến tranh. Trong nhiệm kỳ ông làm thành viên của Poet Laureate, ông đề xướng đề nghị mang truyền thống thi ca Anglo-American tới những đối tượng rộng lớn hơn với sự cung cấp miễn phí những thi tập tới đại chúng  với sự trợ giúp  từ  các chương trình của chính phủ. Nhưng những dự thảo này gặp phải thái độ không nhiệt tâm lắm ở thủ đô Washington DC.

Trong lễ nhận giải Nobel văn chương, Hàn lâm Viện Thụy Điển đã tôn vinh ông như sau: “Một nét đặc thù cuả Joseph Brodsky, người đoạt giải Nobel năm 1987, là nỗi vui mừng bao la trong hành trình khám phá không ngừng nghỉ. Ông tìm kiếm được những mối liên hệ, nói về chúng một cách thật rốt ráo và chính xác rồi lại tiếp tục nhìn ra những quan hệ mới hơn. Không hiếm hoi khi những liên hệ ấy có lúc khá mơ hồ và thậm chí còn đối nghịch nhau, vì thường được nảy sinh từ một ý nghĩ nhanh như ánh chớp loà” Tôi cho rằng hồi ức đã thay thế cho phần đuôi mà chúng ta đã đánh mất miên viễn trong con đường tiến hóa đã qua đầy may mắn. Nó chỉ hướng cho những động tác vận động của chúng ta.

Trong những tác phẩm xuất sắc đã lôi cuốn sự chú tâm của Hàn Lâm Viện năm nay, thi ca là hình tượng tiêu biểu nhất của cuộc sống với chủ đề nhất quán và xuyên suốt. Chủ đề ấy được khai triển với một tài nghệ văn chương tuyệt vời dung hợp những nét đẹp trí tuệ cũng như sự trác tuyệt điêu luyện của ngôn từ.

Bây giờ Brodsky là công dân Hoa Kỳ nhưng nơi ông sinh trưởng và lớn lên là Leningrad hoặc Peter, nơi chốn mà ông gọi tên theo danh hiệu cũ của Peterburg. Đó là nơi mà những Puskin, Gogol, và Dostoevsky đã sống và sáng tác, và khung cảnh ấy với bối cảnh của kiến trúc và trang trí tân kỳ đã là một phần quan yếu của lịch sử thế giới dù đã có nhiều tàn phá vì chiến họa vào thập niên 40, 50.

Thi sĩ nằm trong truyền thống thi ca cổ điển Nga cùng vị trí với những Osip Mandelstam, Anna Akhamatova và Boris Paternak, người đoạt giải Nobel văn chương. Dù thuộc truyền thống như thế nhưng lại là người cách tân thơ để áp dụng phương cách của hình thức diễn tả tân kỳ cho thơ. Ông nhiều khi nảy sinh cảm hứng từ những thi sĩ Tây phương, nhất là từ văn chương Anh, với nhà thơ siêu hình John Donne hay Robert Frost và Wystan Auden.”

Thơ của Brodsky đến từ cuộc sống và viết cho cuộc sống. Nó có nét thiết tha của người yêu vô cùng cuộc đời nhưng có những suy tư, những câu hỏi về vấn nạn nhân sinh mà thi ca sẽ là phương tiện dễ dàng hơn để giải thích. Thơ đi từ những thử nghiệm này đến những trải qua khác và chính thái độ ấy đã làm thơ mới hơn và có nhiều bản sắc hơn.

Một thí dụ, như bài thơ “A song”, thiết tha gần cận cuộc sống nhưng lãng mạn và có nhiều nỗi niềm chuyên chở. Thơ, như những nhát cọ của bức tranh toàn trắng,  tạo thành hình ảnh của mầu sắc mờ ảo nhưng linh động:

“Anh ước ao có  em ở  đây, yêu dấu
Anh muốn em ở đây
Ngồi ở chỗ này, chỗ trường kỷ này
Và anh sát bên cạnh
Khăn tay là của em
Phần anh những giọt lệ trên gò má
Dù sự tình có như vậy, dĩ nhiên
Con đường khác đã sẵn
Anh ước ao có em ở đây
Anh muốn em ở đây
Ước muốn cùng ngồi chung trên xe hơi của anh
Và em cho xe lăn bánh
Chúng ta tự tìm kiếm một nơi chốn nào khác
Ở một ghềnh biển vô danh nào
hoặc là chúng ta sửa chữa lại
 để về nơi mà chúng ta đã đến lúc trước
Anh ao ước có em ở đây, yêu dấu
Anh muốn em ở đây
Cũng như muốn anh hiểu rằng chẳng có thiên văn học
Khi những vì sao hiện ra
Khi vầng  trăng lướt qua mặt nước
Đã thở dài và dâng lên cơn thiếp ngủ
Anh ước gì còn sót lại một đồng quarter
để có thể gọi số điện thoại em
Anh ao ước có em ở đây, yêu dấu
Ở nửa trái đất này
Như anh đã ngồi phệt trên ngạch cửa
Nhấm nháp ly bia
Lúc hoàng hôn mặt trời vừa lặn
Tiếng trẻ con kêu và những con hải âu rền rĩ
Đâu là  tiêu điểm của lãng quên
Khi tiếp tục  chạy theo từ nỗi chết?

Tôi đọc lại bài thơ đã dịch ra từ  tiếng Anh  rồi đến nay lại tự mình chuyển Việt ngữ và tự  hỏi mình. Không biết  t thân  mình có hiểu được trung thực những gì mà tác giả muốn gửi gấm? Nhưng quả thực, tôi cảm được nỗi nhớ nhung thiết tha và  nỗi niềm từ cuộc sống. Dù, thơ có nói gì đâu!…

Bản vinh danh Brodsky có đoạn:

“Brodsky đã trải nghiệm cuộc sống thế nào ”Cuộc sống.../ như hai hàm răng nghiến chặt vào nhau / khi mỗi lúc hội ngộ. Mặc những gian nan: ra tòa, giam cấm, lưu đày, ông vẫn giữ vẹn tư cách của mình và niềm tin tưởng sự tốt đẹp của văn chương và ngôn ngữ. Có những đánh giá hành động của mỗi người, mà sự xuất phát từ văn chương chứ không phải từ xã hội.

Thi sĩ là người quan trọng duy nhất để hành sử công việc của người giám sát, truy vấn để lượng định và kết luận sự kiện. Làm thơ, là chống lại và đi ngược chiều với sự hủy hoại của thời gian. Thi sĩ cũng chính lại là người phát ngôn cho thế giới câm lặng hình thức của một xã hội dưới chế độ độc tài toàn trị và cất tiếng nói trong dòng lũ truyền thông của xã hôi làm cho con người bị sai lạc đi nhận xét của mình…

Đọc một bài thơ khác của ông “Elegy”, để thấy rằng những hình ảnh của thi sĩ chứa đựng nhiều cảm giác của những điều khó diễn tả trực tiếp bằng ngôn từ. Thơ, như một niềm xa vắng nào, lẩn khuất bên ta. Thơ, không nói về sự lụn tàn nhưng dường như có nỗi sầu nào man mác, nhẹ nhàng và sâu lắng:

“Gần cả năm trôi qua
tôi trở lại nơi chốn đã là bãi sa trường
nơi những loài chim một thời giương cánh
từ cảm giác thấm thía
của những cặp lông mày kinh ngạc nhướng lên
hoặc đôi lúc từ lưỡi dao cạo sắc
- cánh chim, nay là cái bóng của ánh nắng sớm mai
hiện nay là hình dạng của vệt máu bẩn
bây giờ, chỗ đặt của tiếng o o được đổi trao
trong gót chân còn sót lại, màu đồng đen
của  bộ giáp che ngực rám nắng, chôn vùi tiếng cười, vết thương
lời đồn đại tươi rói chực chờ
ký ức của phản trắc cao độ
giặt rửa những bảng khẩu hiệu với dấu tích hằng hằng
của những người từ thuở đứng lên
tất cả che khuất từ đám đông
Sự mục nát hiếm khi ương ngạnh
Trong thể cách kiến trúc. Và trái tim cũng phân biệt
Từ những hang động tối đen
Chẳng to lớn, mà cũng không vĩ đại đủ để hãi sợ
Chúng ta có thể  trượt xuống một lần nữa
Như trái trứng đui mù lăn đến một chỗ nào.
Mặt trời lên
Khi chẳng một ai chăm chăm nhìn vào khuôn mặt khác
Tôi thường xuyên
Rút bàn chân ra khỏi khuôn tượng đài đang thiêu chảy
Dài thêm giấc mơ xấu.và nói ở dưới chân ”commander
in chief”. Nhưng laị đọc thành “in grief” hoặc  “in brief”.
Hoặc ”đang đi xuống thấp”…

Ông xếp (chief) rồi “nỗi đau đớn” (grief) hoặc “vắn tắt” (brief), những vần gần nhau nhưng ý nghĩa lại cách xa nhau. Có phải Brodsky đã xử dụng ngôn từ để viết một khúc bi ca với kết cuộc là con người đang trong tình trạng lao xuống thấp không kềm hãm lại được…

Tác phẩm của Brodsky gồm 5 tập thơ: A Part of Speech (1977), To Urania (1984) So Forth (1990), Collected Poems in English (2000), Nativity Poems (2001) và 3 tập khảo luận : Less Than One (1986), Watermark (1992), Go Grief and Reason (1996) cùng một tập kịch: Marbles (1986).

Với Brodsky, ngôn ngữ đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế và chính trị. Ông cho rằng các thế lực độc tài toàn trị đã xử dụng ngôn ngữ như một phương tiện để khống chế mọi người. Cũng như, Solhzenitsyn đã ví sự tuyên truyền như một thủ đoạn dối trá để lừa dối và ngự trị... Quan niệm của Brodsky là “Các đế quốc tồn tại không phải nhờ sức mạnh và thế lực về quân sự hay chính trị mà nhờ ngôn ngữ. Ngôn ngữ đã đóng vai trò của một đạo quân chủ lực để đi chinh phục“

Với Brodsky, thi ca đóng vai trò của một tặng phẩm thần thánh. Ông  có đề cập đến tôn giáo, nhưng chỉ là những ý tưởng chung chung và không gắn liền với một tín điều nào. Thơ của ông ở trên ngưỡng cửa siêu hình và đạo đức là yếu tố quan trọng và những giáo điều chỉ là phần phụ thuộc.

Thơ của ông có sự linh động, ảnh hưởng bởi đời sống thực và ông cũng chú trọng đến sự thay đổi cú pháp, để thơ giàu âm điệu hơn và cũng chuyên chở nhiều ý tưởng hơn. Có lúc, thơ ông có nét mỉa mai chua chát, nhưng ở đại thể, vẫn là những ý tưởng đứng đắn, những phong cách  nghiêm chỉnh, ngay  cả những lúc cảm hứng tràn đầy nhất .

Hàn Lâm viện Thụy Điển cũng có nhắc đến tính chính trị của thi ca ông. Và trong diễn văn nhận giải ông cũng đề cập đến :

”…Nến như nghệ thuật có dạy được một điểu gì (và ưu tiên cho người làm nghệ thuật) thì đó cũng chỉ là một yếu tố có tính cá nhân của sự tồn tại của loài người. Ở hình thức xưa cũ nhất, -và chính xác với nguồn gốc nhất- của những thu hoạch cá nhân, nghệ thuật vô tình gay cố tình,thúc giục trong con người trong cảm thức cá nhân, duy biệt, riêng tư để biến người nghệ sĩ từ một động vật sống trong quần thể thành một phần tử có nhân cách. Nhiều thứ có htể đem chia sẻ: bánh mì, giường nằm, người tình, quan niệm - nhưng chẳng thể  đem chia một bài thơ của Rainer Maria Rilke. Tác phẩm nghệ thuật, đặc biệt là văn học- và một bài thơ cách riêng, đối thoại với con người trực diện, thiết lập quan hệ trực tiếp với con người không cần qua trung gian. Chính vì thế mà những kẻ quá khích nhiệt tâm ủng hộ quyền lợi của đại đồng, những kẻ đang dẫn dắt quần chúng, những kẻ đang rao giảng tính tất yếu của lịch sử, sẽ có ác cảm với nghệ thuật nói chung, mà văn học hoặc thi ca nói riêng. Lý do là  nơi nào có dấu chân nghệ thuật đi qua, nơi nào mà những vần thơ cất giọng lên, thì họ sẽ cảm nhận ngay rằng những đồng tình mà họ mong đợi sẽ không có, mà thay vào đó là sự bất đồng và thái độ bàng quang đứng ngoài và những hành động quyết tâm được dẫn dắt là thái độ khinh rẻ, nhàm chán. Một cách diễn tả khác, vào những con số không mà những người lãnh đạo và những người cuồng tín với chủ nghĩa đại đồng cứ chực chờ tìm cách điều khiển và lợi dụng, thì nghệ thuật lại điểm lên “chấm, chấm, phẩy và dấu trừ” biến đổi mỗi một con số không thành nét mặt nhân bản, dù không luôn luôn lôi cuốn, nhưng là của con người...” Joseph Brodsky,  giải Nobel văn chương nam 1987, người bị trục xuất ra khỏi nước Nga, người coi thi ca như lẽ sống của đời mình và đã không trở về quê hương sau khi chế độ Cộng sản bị thay đổi. Thi ca của ông vẫn còn được đời nhắc đến như một bằng chứng của tri  thức trong một chế độ độc tài toàn trị. Thơ đã cất lên và có tiếng vang cả thế giới.

            
Nguyễn Mạnh Trinh


NGUYỄN MẠNH TRINH

Sinh năm 1949 tại Hà Nội. Hiện sống tại Hoa Kỳ. Chủ trương tủ sách tác gỉa tác phẩm Ðời. Trong nhóm chủ trương Hợp Lưu,  Hoa Kỳ.

Tác phẩm đã xuất bản :

Thơ Nguyễn Mạnh Trinh (Người Việt 1985).

Tuyển tập Hai Mươi Ba Người Viết Sau 1975 (biên tập cùng Trịnh Y Thư Văn Nghệ Hoa kỳ 1989).

(Hình + Tiểu sử : thoivan. com).

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt,  không kích động hận thù,  và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ,  hay bất kỳ một chính phủ nào.