Yên
Tử
Sử cũ, người xưa
Về
thăm Yên Tử không chỉ để thưởng ngoạn núi rừng hùng vĩ và phong cảnh
kỳ thú của thiên nhiên. Vì nếu như thế, ngay ở trong nước, chưa nói
chi các miền đất lạ trên thế giới đã từng đi qua, hẳn có nhiều nơi
khác lôi cuốn hơn. Thăm Yên Tử lại càng không phải chỉ để chiêm
ngưỡng kiến trúc chùa lăng am tháp. Vì nếu như thế, tuy có nét độc
đáo, nhưng lại cũng quá khiêm tốn nếu so với các di sản tráng lệ rực
rỡ, các công trình đồ sộ rất đáng thán phục của các nước lân cận như
Cam bốt, Thái Lan, Trung Hoa và Nhật.
Thế nhưng, trước mỗi mộ tháp và trên từng bực đá của Yên Tử, khách
hành hương hay tha hương trở về quê tổ có một niềm xúc động, một
tình cảm thiêng liêng rất sâu lắng mà không nơi chốn nào khác đã đi
qua có được. Mối ràng buộc níu kéo mời gọi, nhất là với những ai từ
lâu lưu lạc xa quê, đó chính là hồn nước ngàn năm kế truyền trong
huyết quản.
Thế nên, về Yên Tử mà chỉ mô tả chùa tháp núi rừng thì quả là thiếu.
Yên Tử núi thiêng không phải chỉ vì mạch nguồn phong thủy, mà chính
là nơi hành trì và đắc đạo của tổ của tăng. Nơi dấu tích hưng phế
của triều đại và sự thăng trầm của thiền môn, đạo pháp. Nơi mà những
chuyện thị phi hồ đồ hàng trăm năm cũ cũng tựa như những điều đang
chứng kiến hôm nay.
Từ Yên Tử trở về lại miên man trong dòng nghĩ, mông lung về sử cũ và
người xưa. Trên từng trang sử đọc ẩn hiện bóng hình Yên Kỳ Sinh,
Hiện Quang, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang.
Những người, trong rất nhiều người, theo thứ tự thời gian đã lưu dấu
ở đây và làm cho núi rừng Yên Tử trở thành kỳ tích mang hồn thiêng
dân tộc.
Trần Nhân Tông, vị sao bắc đẩu của non sông, của thiền tông và Phật
đạo thì sử sách đã nói nhiều, nói đủ. Ðặc biệt là các khảo cứu biên
soạn rất khoa học và công phu của Lê Mạnh Thát, Nguyễn Lang.
Không còn gì để thêm.
Với tôi còn lại đôi điều lạm bàn loanh quanh dưới các tiểu mục:
·
An Kỳ Sinh. Tăng nhân hay đạo sĩ
·
Thiền Sư Hiện Quang. Vầng trăng mây che.
·
Trần Thái Tông. Ngai vàng hay sơn môn
·
Thiền Sư Pháp Loa. Bồ tát,Trượng phu.
·
Huyền Quang. Nghệ sĩ thiền sư mặc áo Bụt ở với ma.
Yên Kỳ Sinh.
Tăng nhân hay Ðạo Sĩ
Yên Kỳ Sinh đến Yên Tử tu luyện lúc nào?
Có nhiều người vẫn còn không đồng ý về việc Yên Kỳ Sinh là một sư
tăng hay là một đạo sĩ. Cho rằng Dược Am, Thung Am dấu tích Am thuốc
và Am luyện thuốc ở trên ngọn Tử tiêu, chẳng qua cũng chỉ là sản
phẩm tưởng tượng, không là bằng chứng cụ thể để xác quyết ông là đạo
sĩ. Lại nữa Yên Kỳ Sinh tu đạo ở Phổ Ðà Sơn, chuyện trò thâu ngày
thâu đêm với Tần Thủy Hoàng, ai cấm ông đến Yên Tử để thiền định và
giác ngộ Phật tánh.
Bằng chứng? Hiện nay trong vùng có chùa Yên Kỳ để thờ ông. Chùa để
thờ Phật, tăng, tổ, đâu có thờ đạo sĩ. Xin trả lời. Ðừng nói chuyện
cả mấy ngàn năm về trước, bây giờ mời về Việt
Nam . Một ngôi chùa to nhất từ xưa đến nay, đang xây cất với nhiều
tai tiếng bất bình đến phẫn nộ ở Bình Dương, thờ ông Hồ Chí Minh
cùng với Phật. Chùa Tây Phương, không xa Hà Nội, nơi có những tượng
gỗ La Hán tuyệt đẹp với nghệ thuật điêu khắc thần kỳ, khách thăm
cũng dị ứng khó chịu thấy hình Hồ Chí Minh lạc lõng trên bàn thờ tổ,
rất khó coi. Rất nhiều chùa trong nước hiện nay thờ ông Hồ. Ông Hồ
là tăng hay tổ?
Yên Kỳ Sinh không thể là một tu sĩ Phật giáo. Rõ ràng ông sống vào
đời Tần hay thọ lắm cũng đến đầu thời Tiền Hán. Phật giáo lúc đó
chưa có mặt tại Trung quốc. Nhà Tần và các vua đầu nhà Hán rất tôn
sùng Lão giáo và Ðạo Giáo. Phật giáo đến Trung Quốc vào khoảng thời
Hán Ðế, đầu tây lịch (6 BC). Ðến đời Minh Ðế (67 BC) hai tăng nhân
Ca Diếp Ma Ðằng và Trúc Pháp Lan đã cỡi ngựa trắng, theo Ðường Tơ
Lụa, từ Ấn Ðộ mang kinh sách đến Trung Quốc. Việc này ứng với giấc
mộng của Minh Ðế, nên vua cho dựng chùa Bạch Mã để tạ ơn và thờ
Phật. Chùa đó đến nay vẫn còn. Lại nữa. Từ Phật cho đến tổ, khi đã
chứng ngộ thì trở lại thế gian để giáo hóa quần chúng. Ít có ai đạt
đạo rồi phiêu diêu hưởng nhàn tiên cảnh bặt tăm như đạo sĩ.
Yên Kỳ Sinh có tới tu ở ngọn Tử Tiêu thì ông đến đây vào khoảng thế
kỷ thứ ba trước tây lịch. Ðó là lúc Tần Thủy Hoàng sai Ðồ Thư và Sử
Lộc mang quân đánh chiếm Bách Việt vì hám ngọc ngà châu báu. Ðặc
biệt là ngọc trai và ngọc cơ, loại ngọc không tròn . Nước Tàu thời
đó còn ở miền Bắc Trung hoa bây giờ, dọc theo sông Hoàng Hà. Bờ biển
thấp lầy lại lạnh nên không có trai ngọc như các nước ở vùng biển ấm
phía nam như Việt Nam, Nhật. Sau này Thái thú Tô Ðịnh cũng bắt dân
xuống biển mò ngọc, dân ta thù oán theo hai Bà Trưng nổi lên đánh
giết. Bách Việt nay là Chiết Giang, Quảng Ðông, Quảng Tây và một
phần miền Bắc nước ta (Nước Âu Lạc thời An Dương Vương). Ðồ Thư sau
đó bị nghĩa quân nước ta giết chết.
Khi Tần Thủy Hoàng mất, con nối ngôi, là Nhị Thế Hoàng Ðế. Triệu Ðà
dẫn quân đến nước ta. Cùng với đoàn quân xâm lược, có thêm nửa triệu
dân Tàu bị lưu đày. Ðây là lần đầu tiên trong lịch sử, người Trung
quốc rầm rộ đến địa bàn nước ta với mưu đồ Hán hóa như họ đã thành
công với Hung Nô, rợ Hồ ở phương Bắc. Nhờ đó, Trung quốc mới có được
lãnh thổ bao la và hơn một tỉ dân cư như bây giờ. Trước đó và mãi
lâu về sau, miền đất phương Nam và cư dân ở đây họ xem như “Man di”
mọi rợ, núi non cách trở, ít có người mạo hiểm tới.
Triệu Ðà đóng quân ở Tiên Du, Bắc Giang. Vùng núi Yên tử bây giờ.
Nếu An Kỳ Sinh có mặt trong đợt di dân này thì ở ngay đúng vùng Yên
Tử. Nhân lúc nhà Tần bị diệt, Triệu Ðà tự phong là Nam Việt Vương.
Sau đó, Ðà đánh bại An Dương Vương của Âu Lạc. (Truyền thuyết chuyện
tình bi lụy Mỵ Châu-Trọng Thủy, thành Cổ Loa, thần Kim Quy và nỏ
thần). Nước ta bị Bắc thuộc lần thứ nhất. Triều đại này kéo dài qua
đến đời nhà Hán. Ðây cũng là thời gian quan dân người Hán với nhiều
lý do khác nhau đến nước ta. (Trong đó có Yên Kỳ Sinh ?).
Yên Kỳ Sinh chắc chắn là người không những giỏi về thuốc mà còn rất
giỏi phong thủy. Khi đến nước ta thấy ngọn Tử Tiêu thì biết ngay đây
là linh địa. Bởi thế cũng có truyền thuyết, ông đem theo xương cốt
của cha đến chôn ở đây, nhưng bị sét đánh bật mồ. (Thổ địa Việt
Nam không cấp hộ khẩu cho người Hán !) Không chỉ riêng Yên Kỳ sinh,
ta còn đọc thấy trong Bắc thành địa dư chí lục. “Núi Yên tử... Long
mạch chi tả bổ xuống các núi ơ Hải dương...”. Lại nữa, Lý Tư Thông
trong Hải Nhạc Danh Sơn Ðồ đời Tống (1049-1053), cho núi này là “một
trong bốn đất phúc của Giao Châu... Trên núi (Tiên) có chùa Hoa Yên,
gọi Tử tiêu, lại có khe Giải Oan, tên Long hàm, khéo léo thanh vắng,
thật là nơi bồng đảo của thiên nhiên...”. Lý Tư Thông ghi lại.
Tân kỳ chóp núi nêu vài nụ
Yểu điệu hình khe trổ một ngành
Tiên cởi loan qua ngôi cảnh tịnh
Người xem rồng xuống giỡn đầm xanh.
(Ban Sử Liệu VÐH Huế dịch)
Tóm lại. Yên Kỳ Sinh đến Yên Tử vào khoảng thế kỷ thứ ba trước tây
lịch. Ông không trường thọ để đến trễ hơn. Ngay cả Lão Tử (Họ Lí tên
Nhỉ), tổ sư của Lão giáo, theo truyền thuyết cũng chỉ thọ 150 tuổi
(điều này tin được, hiện nay có người thọ cũng xấp xỉ tuổi này). Yên
tử của Việt
Nam thật sự là một linh địa. Ðạo Sĩ và Tăng tổ tu ở đó nhiều người
đắc đạo. Có một điều lý thú cả hai đạo sĩ cuối đời đều về đất Phật.
Lão Tử cuối đời cũng tuyệt tích, có truyền thuyết cho rằng ông về
Tây phương, đất Phật.
Bàn thêm.
Sách sử của ta đều chép Tần Thủy Hoàng hám châu báu mà xua quân đánh
chiếm Bách Việt. Ðiều này khó chấp nhận được. Một hoàng đế thao
lược, tóm thâu thiên hạ như Tần Thủy Hoàng, bên cạnh lại có thêm
những quân sư pháp gia lừng lẫy như Hàn Phi, Lý Tư, không lẽ xua gần
một triệu quân và thứ dân sang nước ta chỉ vì... hám ngọc. Hành động
chiếm nước ta nhất định trong kế hoạch bành trướng lãnh thổ về phía
nam đến tận vùng Ðông Nam Á. Mở đường biển giao thương mua bán với
Ân Ðộ, Ba Tư, La Mã, Hy Lạp, để trao đổi tơ lụa rất nổi tiếng của
họ.
Vào thời bấy giờ, vì miền Bắc Trung quốc địa thế núi non hiểm trở,
sa mạc mênh mông nắng cháy lại thêm các dân tộc Hồ khống chế nên
chưa có Con Ðường Tơ Lụa để nối kết với vùng Trung Á, Tây Á và vùng
bờ đông Ðịa trung Hải. Con đường mà ngài Huyền Trang với hành trình
Tây Du thần thoại hóa đã sang Ấn Ðộ để thỉnh kinh, dưới đời Ðường.
Con đường đã đưa Trung quốc tiếp cận các nền văn minh và văn hóa đa
dạng khác ở miền tây vực. Con đường đã đưa Phật giáo, Thiên chúa
giáo và cả Hồi giáo đến Trung Hoa. Sau cùng là con đường đã làm giàu
cho các triều đại Trung Quốc. Con đường trọng yếu lịch sử, giao lưu
đông tây được thế giới đặt tên là “ Con Ðường Tơ Lụa” (Tơ trù chi
lữ. The Silk Road), được thành hình dưới thời Hán Vũ Ðế, với sự đóng
góp khai phá của Trương Khiêm (164-114 BC), nhà thám hiểm lừng danh
và công lao hàng đầu trong lịch sử Trung Quốc.
Thiền Sư Hiện Quang
?- 1221
Vầng trăng thoáng mây che
Sau An Kỳ Sinh với nhiều truyền thuyết thần kỳ mập mờ hư ảo, một
thiền sư Việt Nam mà cuộc đời cũng nhiều gian nan, hàm oan trắc trở,
đã đến ẩn dật ở đây, tu hành, lập chùa Vân Yên và trở thành vị khai
sơn của phái thiền Yên Tử.
Tên của sư trong Thiền Uyển Tập Anh thì ghi là Huyền Quang, những
nơi khác thì ghi là Hiện Quang. Ðể tránh nhầm với Huyền Quang, tổ
thứ ba Trúc Lâm Yên tử sau này, nên ở đây gọi là Hiện Quang để phân
biệt.
Sư Hiện Quang tên tục là Lê Thuần, quê ở Thăng Long. Mồ côi từ nhỏ,
nên sinh năm nào không ai biết rõ. Thời ấu thơ của sư là những năm
tháng gian khổ, đói rét và bơ vơ. Năm 11 tuổi, sư hết sức may mắn cả
đời lẫn đạo khi được Thiền sư Thường Chiếu, là tổ thế hệ thứ 12 của
thiền phái Vô Ngôn Thông, đang tu ở chùa Lục tổ (Ðình Bản, Từ Sơn,
Bắc Việt) đem về nuôi và nhận làm đệ tử. Vô Ngôn Thông, (759-826),
người Trung Quốc quê ở Quảng Châu đến truyền pháp tại nước ta lập
nên thiền phái lấy tên người. Ngài trầm hậu. Ít nói mà biết mọi
chuyện. Im lặng mà rõ mọi việc. Người đương thời gọi là Vô Ngôn
Thông hay Bất Ngữ Thông. (Ðời nay người như thế thật hiếm. Những
người nói nhiều mà rỗng thì... quá nhiều!).
Theo Thiền Tuyển Tập Anh. “Sư học vấn thông tuệ, một ngày học hàng
vạn chữ, không đầy mười năm gồm thông tam học” (Tam học: Giới, Ðịnh,
Tuệ). Có điều, kinh tạng thì thông suốt, nhưng cốt lõi của thiền
môn, tuy cận kề với thầy thì rất ít chú tâm. Sư đã bỏ mất cơ duyên,
khi kịp nhận ra thì Thiền sư Thường Chiếu đã mất. Sư lại phải khởi
đầu hành trình tìm thầy học đạo. Tự trách. “Ta đây ví như con nhà
giàu, lúc cha mẹ còn sống ăn chơi lêu lỗng, đến khi cha mẹ chết thì
mờ mịt ngu muội, không biết châu báu trong nhà nằm ở đâu, đến nỗi
cuối cùng thành nghèo thiếu”.
Một sự việc xẩy ra đã làm thay đổi cuộc đời tu hành của sư. Theo sử
sách còn ghi, sư là người có dung mạo đẹp đẽ lại ăn nói dịu dàng.
Ðạo hạnh của ngài được nhiều người ngưỡng mộ. Trong đó có cả vua và
hoàng tộc. Ðây âu cũng là nghiệp chướng. Công chúa Hoa Dương, con
vua Lý Anh Tôn, thường hay đến cúng dường cho sư. Từ đó mà những lời
đồn đãi hàm hồ vô căn cứ, phỉ báng bôi xấu, thổi phồng lan tràn.
Con người, ngàn năm trước hay vạn năm về sau vẫn thế. Vẫn tin vào
lời đồn xấu, đồn nhảm. Nhất là đối tượng là người nổi tiếng, nổi
danh, người được yêu kính. Nói tốt cho ai thì như gió thoảng qua
tai. Nói xấu về ai thì chỉ một thoáng là loan truyền khắp xứ. Khi đã
tin như thế rồi thì dù cho có ai trưng bằng cớ hay cải chính cũng
chẳng đổi thay. Ðố kỵ, ganh ghét là cội rễ. Phải chăng vì thế Tuân
Tử từ xưa đã đúng khi cho rằng “Nhân chi sơ tính bản ác. Con người
vốn tính ác”. Ðối nghịch với “Nhân chi sơ tính bản thiện. Tính người
vốn lành” của Khổng Tử và Mạnh Tử.
Trước sự việc đang xẩy ra, để cầu giác ngộ, sư bỏ chùa, lìa xa xóm
làng thị tứ, đi vào tu trong vùng núi Uyên Trừng, Nghệ An. Trước khi
đi vào nơi tịnh thất, lời của sư dầu đã hơn tám trăm năm qua, tưởng
chừng như không phải nói cho riêng ngài, mà là chân lý đúng cho cả
những hành giả đang bị hủy nhục hôm nay. “Phàm người được thế tục
ngưỡng mộ tất không tránh khỏi bị hủy nhục. Nay ta là như thế sao?
Và, con đường Bồ tát thì rộng lớn, còn Phập pháp thì vô lượng, kẻ sĩ
giữ đạo trung dung còn nhiều khi phải buồn tẻ khóc thầm. Nếu như
không dõng mãnh tự xét, dùng sự nhẫn nhục làm giáp trụ, lấy việc
tinh tấn làm khí giới, thì làm sao tránh được ma quân, phá được
phiền não, cầu được giác ngộ vô thượng.”
Kể từ đó sư không nhận lương thực cúng dường, mặc áo lá chân trần,
sống chay tịnh thanh đạm cùng thú rừng thuần thục. Vua Lý Huệ Tôn
rất cảm phục đời sống đạo hạnh thanh cao của sư, nhiều lần sai sứ
giả đem lễ vật đến thỉnh sư về triều. Biết được nghiệp chướng trùng
trùng nếu vướng vào sẽ khó đường giác ngộ, sư lánh mặt và nhắn tâu
với vua. “Bần đạo sinh trên đất vua, ăn lộc vua, ở trong núi thờ
Phật trải nhiều năm, mà công đức chưa thành, rất lấy làm thẹn. Nay
nếu về thăm vua thì không những không có ích gì cho việc trị an, mà
lại bị chúng sinh bài báng...”.
Mây một lần đã qua, thoáng che trăng sáng, rồi cũng tan nhanh theo
gió núi. Trăng lại vằng vặc soi. Chỉ một lần thôi, sư đã biết, đã
lánh được oan khiên trần tục, tiếp nối đường tu.
Mùa xuân năm Tân Tỵ (1221). Sư tọa thiền trên phiến đá, truyền cho
đệ tử Ðạo Viên một bài thơ ngắn hai mươi chữ (Gọi là Kệ) gói trọn
chân lý đạt ngộ. Rồi an nhiên thị tịch. Có nơi cho rằng sư mất an
táng trong hang núi, không biết ở đâu. Nhưng sử sách ghi, cuối đời
ngài lập chùa Vân Yên ẩn thân tu hành, truyền thừa cho tăng chúng,
lập thiền phái tại Yên Tử. Như vậy ngài mất tại Yên Tử là điều đáng
tin.
Bàn thêm.
1. Ai lập ra thiền phái Trúc Lâm Yên Tử?
Trong tác phẩm nghiên cứu về Trần Nhân Tông, Giáo sư Lê mạnh Thát
ghi rằng. “ Thông Thiền, lược dẫn Thiền phái đồ coi là người thành
lập nên tông môn Trúc Lâm Yên Tử. ” Nhưng, cũng trong cùng sách đã
dẫn, một đoạn khác lại dựa vào Ðại Nam Thiền Uyển Kế Ðăng Lược Lục
của An Thiền thì lại ghi 23 thiền sư liên tục trụ trì sơn môn Yên
Tử, Hiện Quang là tổ thứ nhất, Trần Nhân Tông là tổ thứ sáu. Sau đó
là Pháp Loa và Huyền Quang.
Cần làm sáng tỏ một vài điểm:
·
Thông Thiền là đệ tử kế truyền Thiền Sư Thường Chiếu, thiền phái Vô
Ngôn Thông. Hiện Quang vào tu ở núi Yên Tử, là sư sau cùng của phái
này. Như vậy Hiện Quang mới là người tổng hợp ba dòng thiền Tì Ni Da
Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo đường để hình thành Thiền Phái Yên tử
thay thế ba dòng thiền kia đã cùng suy tàn vào cuối thế kỷ 13.
·
Vua Trần Nhân Tông, hiệu Trúc Lâm Ðầu Ðà là vị tổ thứ sáu của thiền
phái Yên Tử. Pháp hiệu Trúc Lâm lại trùng với Trúc Lâm Quốc sư là
tôn xưng của vua Trần Thái Tông cho Ðạo Viên,tổ thứ hai của Yên Tử (
Cũng là Viên chứng hay Phù Vân Quốc sư). Cho nên rất dễ nhầm lẫn.
Trúc Lâm Ðầu Ðà Trần Nhân Tông mới là người được suy tôn làm Sơ tổ
thiền phái mới mang tên của ngài với chủ trương nhập thế “Cư trần
lạc đạo”. Như vậy Thông Thiền đã không phải là người sáng lập thiền
phái Yên Tử, lại càng không thể là người sáng lập dòng Trúc Lâm Yên
Tử được.
2. Vụ
việc Công chúa Hoa Dương nằm trong mưu đồ chính trị cướp ngôi nhà
Lý.
Sư Hiện quang bị bôi nhọ vì cho rằng có tư tình với công chúa Hoa
Dương không phải là chuyện nhỏ trong phạm vi cung đình. Nó được thổi
phồng lan truyền có kế hoạch đến nỗi sử sách còn chép lại “Tiếng đời
phỉ báng nổi lên như ong”.
Nhìn lại sự việc trong bối cảnh bi thảm những năm tại vị của vua Lý
Huệ Tông để hiểu được vấn đề. Lý Huệ Tông có vợ là Trần Thị Dung, em
gái họ của Trần Thủ Ðộ. Hai người tư thông, năm hết quyền hành trong
triều và tiến hành âm mưu đoạt ngôi nhà Lý. Sư Hiện Quang là người
có uy tín và ảnh hưởng trong giới hoàng tộc. Từ đại chúng, công chúa
cho đến vua đều ngưỡng mộ. Ðặc biệt là Lý Huệ Tông. Trong ý đồ chính
trị, Trần Thủ Ðộ chắc hẳn muốn loại trừ Hiện Quang. Giết đi thì
không được vì sợ phản ứng của dân chúng rất sùng đạo và quan trọng
hơn là vì thế lực của giới tăng chúng. Hay nhất là triệt hạ uy tín
của sư bằng thủ đoạn vu khống dựng chuyện Hiện quang và Hoa Dương.
Một mũi tên bắn hai chim. Triệt hạ uy tín chỗ dựa tinh thần của vua,
đồng thời kéo dân chúng về mình lên án đạo đức của công chúa, nói
chung là bêu xấu dòng họ của vua nhà Lý.
Muốn hạ nhục một nhà sư không gì dễ hơn là loan truyền về quan hệ
tình ái hay vợ con không rõ ràng. Thấy việc xưa mà ngẫm chuyện trước
mắt. Ngàn năm sau không khác. Nhưng sự thật, cũng như ánh trăng và
tia nắng, không thể phủ che.
Trần Thái Tông 1225-1258
Ngai vàng hay sơn môn
Sau Thiền sư Hiện Quang một vị vua của nhà Trần đã đến núi. Và, lúc
đó Yên Tử có thể đã trở thành cung điện triều đình. Ðó là vua Trần
Thái Tông, vua đầu tiên của nhà Trần và là ông nội của Thượng hoàng
Trần Nhân Tông, Ðiều Ngự Giác Hoàng sau này.
Hãy ôn lại một đoạn sử. (Chú thích trong ngoặc là của người viết)
Năm 1208, Vua Lý Cao Tông cùng hoàng gia trốn khỏi kinh thành chạy
giặc Quách Bốc. Thái Tử Sam chạy đến nương náu nhà Trần Lý. Thấy con
gái của chủ nhà Trần Thị Dung xinh đẹp quá nên cưới ngay làm vợ (
Rước nợ oan gia!). Gia đình họ Trần chuyên nghề chài lưới giàu có,
mộ quân dẹp loạn hộ tống vua về Thăng Long. (Ơn này sẽ trả bằng ngai
vàng và sinh mạng!). Về kinh một năm thì vua mất. Thái tử Sam lên
ngôi, đó là vua Lý Huệ Tông, Trần thị Dung được phong hoàng hậu. (
Nhanh quá. Số trời). Từ đó anh em họ Trần nắm hết quyền hành trong
triều.
Sau cùng, quyền lực khống chế vua và quần thần thâu gọm trong tay
người anh họ Trần Thủ Ðộ. Ông cũng là nhân tình của vợ vua. Sau cùng
giết vua rồi lấy luôn hoàng hậu. Không biết chữ, nhưng ông rất thông
minh lại giỏi võ và âm mưu thâm độc tàn ác thì trong lịch sử nước ta
không ai sánh được.
Lý Huệ Tông không có con trai (lại thêm một tai họa), có hai người
con gái cùng hoàng hậu Trần Thị Dung. Công chúa Thuận Thiên gã cho
Trần Liễu, con trưởng của Trần Thừa ( Ông này là anh ruột của hoàng
hậu. Như vậy là anh em cô cậu ruột lấy nhau.) Người con gái thứ hai
là Chiêu Thánh, được Lý Huệ Tông yêu thương hết mực nên lập làm thái
tử. ((Không có con trai nối dõi đã là nguy, lại còn bỏ con trưởng
lập con thứ). Năm 1224, Lý Huệ Tông mang bệnh cuồng, (Bệnh thật vì
căn thẳng thần kinh hay giả điên như Tôn Tẫn để thoát chết), bị ép
buộc nhường ngôi cho Chiêu Thánh vào tu ở chùa Chân giáo. Từ đấy
quyền hành định đoạt trong tay bà Trần Thái hậu và ông anh Trần Thủ
Ðộ.
Dưới sự sắp đặt của Trần Thủ Ðộ, Lý Chiêu Hoàng lấy con thứ của Trần
Thừa là Trần Cảnh mới 8 tuổi làm chồng. (Ông anh ruột của Trần Thái
Hậu cho hai con trai lấy hai con gái của em ruột.) Sau đó đúng theo
dự mưu của Trần Thủ Ðộ, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh tức
là vua Trần Thái Tông.
Theo Ðại Việt Sử Ký Tiền Biên, tuy đã cướp được ngôi vua, Trần Thủ
Ðộ đã từ lâu muốn giết Lý Huệ Tông mà chưa thực hiện được. Thường
ngày thấy vua ngồi xổm nhỏ cỏ trước cửa chùa, Trần Thủ Ðộ nói câu để
đời. “Nhổ cỏ thì nhổ hết rễ”. Vua trả lời. “Ta hiểu ý ngươi rồi”.
Thêm nữa. Vua Huệ Tông, trong bộ áo nhà sư, thường lê đôi giày cỏ,
chống gậy tre thất thểu ra chơi chợ Ðông, dân chúng tranh nhau chạy
đến xem, có người thương khóc. Thủ Ðộ sợ lòng người nhớ vua cũ sinh
biến loạn ép vua treo cổ tự tử. Xong chính thức lấy vợ vua.
Về việc này sử thần Ngô Thì Sĩ có lời bàn. “Thủ Ðộ lập tâm nham hiểm
phải chịu tiếng ác giết vua, khiến cho nhà Trần chịu tai họa báo
ứng. Vua Thái Tông là con rể đã cướp được ngôi lại còn giết cha vợ.
(Sau này) Quý Ly cũng là con rể cướp ngôi Trần, lại còn là cha vợ
giết con rể. Sự hưng vong như giấc mộng; việc báo ứng như vòng tròn.
Ăn ở bất nghĩa có ích gì đâu.” Và. “Nàng Thiên cực kia vốn là đàn bà
góa của nhà Lý (Vợ vua), cũng từng là em của Trần Thủ Ðộ ở triều vua
Huệ Tông. Con lợn nái sao đến nỗi mất thể diện, con cáo đực sao lại
dám vô lễ, mà lấy ngày thầy tăng chùa Chân Giáo lên cõi Nát bàn làm
ngày kiến gia hoàng hậu hạ giá, tuy đã đổi gọi là công chúa , nhưng
vì trong họ còn là anh em gần, thật là làm trái lẽ rối loạn đạo
thường, thực không bằng loài cầm thú...”
Chưa hết. Thủ Ðộ đã giết vua Huệ Tông, tôn thất nhà Lý nhiều người
ấm ức thất vọng. Nhằm lúc họ làm lễ tế tiên tổ ở thôn Thái Ðường xã
Hoa Lâm, Thủ Ðộ cho người ngầm đào hố sâu, dựng nhà lên trên, giật
máy cho nhà đổ, chôn sống hết tôn thất nhà Lý. (Tưởng hết, nhưng
còn!) “Trong số con cháu còn sót lại, đặc biệt có hậu duệ của Hoàng
tử Lý Long Tường, hiện đang sinh sống tại Hàn quốc.
Nguyên vào năm 1226, sau khi nhà Trần lật đổ nhà Lý, Hoàng tử Lý
Long Tường, con thứ hai của vua Lý Anh Tông, (tức là anh của công
chúa Hoa Dương đã nhắc đến trong phần sư Hiện Quang), em vua Lý Cao
Tông, cùng thuộc hạ vượt biển chạy trốn, bị bão đánh dạt vào lãnh
thổ Cao Ly (Ðại Hàn). Tại đây Hoàng tử có công giúp nước Cao Ly
chiến thắng quân Nguyên Mông vào năm 1253. Vua Cao Ly ưu đãi phong
tước Hoa sơn tướng quân. Hiện nay hậu duệ của Hoàng tử gồm chừng 200
gia đình đang sinh sống tại
Seoul và Youdo-dong”. (asvnonline). Gần đây ông Lý Xương Căn, cháu
đời 26 của Hoàng tử đã về Việt nam thăm tổ tiên. (Và xuất hiện trên
video Thúy Nga).
Chuyện còn dài. Vua Trần Thái Tông được vợ, được ngôi. Nhưng, chờ
mãi mà Lý Chiêu Thánh không có con. Lúc đó Lý thị ( Tức Công chúa
Thuận Thiên, chị ruột của vợ mình) là vợ của ông anh ruột Trần Liễu
(Cha của Trần Hưng Ðạo Trần Quốc Tuấn) đã có mang được ba tháng. Thủ
Ðộ (Trăm sự do ông này) cùng Thiên Cực công chúa (Vợ vua Huệ Tông
giáng chức xuống làm công chúa Thiên Cực) bày mưu riêng nhà vua là
nên nhận liều để có lợi về sau, vì thế mới đem Lý thị vào ở trong
cung. Trần Liễu tức giận tụ tập người nổi loạn. (Giựt vợ đoạt con ai
mà không nổi điên).
Nhà vua áy náy không yên lòng, đêm lẻn lên núi Yên Tử vào chùa của
Phù Vân Quốc Sư (Tên gọi này không đúng. Ðây là Thiền Sư Ðạo Viên
được vua tôn xưng Trúc Lâm Quốc Sư) . Ngày hôm sau, Thủ Ðộ đem bầy
tôi đến đón xa giá về kinh. Vua từ chối nhất định đi tu. Thủ Ðộ ra
bảo với mọi người. “ Xa giá vua ở đâu, tức là triều đình ở đấy”. Nói
rồi, liền cấm mốc chăng dây chia thành hàng ngũ trong núi, phỏng
theo kích thước cung điện ở kinh thành, bắt thợ xây dựng (Dọa vua
thôi). Quốc sư Phù Vân hoảng quá nài nỉ nhà vua. “Bệ hạ nên sớm quay
loan giá về kinh thành, không nên để họ làm hại đến núi rừng của đệ
tử này”. Vua không nghe. Phù Vân nói. “Trong núi vốn không có Phật.
Phật chỉ ở trong tâm. Nếu thánh thượng hiểu được tâm. thì đứng đâu
là Phật ở đó”. Vua chợt ngộ ra. Bây giờ nhà vua mới trở về kinh.
(Khâm Ðịnh Việt Sử).
Bàn thêm.
·
Sử gia và nhiều người đúng, khi cho rằng Trần Thủ Ðộ đã làm một cuộc
đảo chánh không đổ máu. Thắt cổ vua và chôn sông tôn thất nhà Lý thì
đâu có đổ giọt máu nào!
·
Vua Trần Thái Tông dưới mắt sử gia Ngô Thì Sĩ. “Vua là người khoan
nhân đại độ có lượng đế vương, điển chương chế độ rõ ràng đáng được
nêu lên. Song sự xếp đặt công việc đất nước đều do Trần Thủ Ðộ làm
(Vậy người đáng khen là Trần Thủ Ðộ). Ðạo tam cương không giữ đúng,
trong chốn phòng the còn nhiều điều hổ thẹn.” (Quá nhẹ. Chốn phòng
the thì chuyện gì mà không hổ thì... thẹn).
·
Vua Thái Tông càng về sau, ngay cả sau khi Trần Thủ Ðộ mất, trở
thành vua giỏi. Thông hiểu Phật pháp, vừa trị nước vừa lo tu. Là tác
giả của hai tác phẩm Phật học giá trị. “Thiền tôn chỉ nam”, chỉ về
tu thiền, và “Khóa hư”, nguyên nhân khổ và diệt khổ.
Thiền sư Pháp Loa 1284-1330
Bồ tác,
Trượng phu.
Yên Tử đời Lý đã có chùa, nhưng thật sự trở thành trung tâm Phật
giáo với hàng trăm công trình chùa am, tu viện là do Thượng hoàng
Trần Nhân Tông xây dựng trong thời gian tu hành và truyền pháp ở đó.
Sau khi người qua đời, người kế thừa là tổ thứ hai Pháp Loa Ðồng
Kiên Cương. Trong 19 năm tu hành, ông tiếp tục phát triển Yên Tử và
nhiều nơi khác.
Từ lúc sinh ra cho đến khi mất, cuộc đời thường và tu trì của sư
thật may mắn suông chảy, đầy duyên lành và quyền lực. Sinh ra đã có
căn tu. Không thích thịt cá. Vừa 21 tuổi, gặp Ðiều Ngự đang trên
đường hành đạo và được nhận ngay làm đệ tử.
Ngày mồng một Tết năm Mậu thân, 1308, tại chùa Siêu Loại Bắc Ninh,
vào lúc tuổi đời chỉ mới 24, đã nhận tâm ấn và kinh tạng bửu bối
viết bằng máu, tự tay sơ tổ Trúc Lâm Ðầu Ðà truyền thừa. Ðiều đặc
biệt nữa chưa từng xẩy ra trong lịch sử của thiền môn Phật giáo, là
buổi lễ long trọng này có lễ có nhạc, trước sự chứng kiến của vua
Trần Anh Tông và quan viên tăng chúng. Sự kiện này được tường thuật
đầy đủ, khắc ghi lại trên bia đá còn giữ lại tại tháp Viên Thông,
chùa Thanh Mai, Chí Linh, Hải Dương.
Hãy đọc trích dịch một phần văn bản của bia đá.
“...Ngày rằm bố tát xong, (Điều ngự) đuổi tả hữu ra, đem y bát và
viết tâm kệ giao cho sư, bảo phải giữ gìn. Ngày mồng một tháng giêng
năm Mậu Thân Hưng Long thứ 16 (1308), sư vâng lệnh làm trụ trì nối
dòng pháp ở
Cam
Lộ đường chùa Siêu Loại. Ðể khai đường và làm lễ trao truyền, vua
cho đặt bài vị của liệt tổ, tấu Ðại nhạc, đốt hương thơm.
Ðiều Ngự dẫn sư lên lễ tổ đường xong. Sau khi ăn cháo, sai tấu nhạc,
đánh trống pháp, tập hợp đại chúng lên pháp đường. Bấy giờ Anh Tông
xa giá đến chùa. Sau khi đặt ngôi chủ khách xong, vua Anh Tông vì là
đại thí chủ của Phật pháp, đứng vào ngôi khách ở pháp đường, thượng
tể đem bá quan đứng ở dưới sân. Điều Ngự lên tòa thuyết pháp. Giảng
xong, bèn đi xuống, đỡ sư lên tòa. Ðiều Ngự đứng đối diện chắp tay
hỏi han. Sư đáp lễ xong, nhận pháp y mặc vào. Ðiều Ngự bèn bước sang
một bên, ngồi trên giường khúc lục, nghe sư thuyết pháp.
Ðem chùa Siêu Loại của sơn môn Yên Tử sai sư kế thế trụ trì là đời
thứ hai của dòng Trúc Lâm. Lại đem ngoại thư kinh sử 100 hộp và Ðại
Tạng 20 hộp nhỏ chép bằng máu chích ra, để mở rộng việc học nội và
ngoại điển...”
Với chủ trương không phân biệt tại gia hay xuất gia, Sư được Trần
Nhân Tông đào tạo trở thành bồ tát của sơn môn và trượng phu của thế
tục. Sự nghiệp của sư với Phật giáo Việt nam vô cùng to lớn. Sáng
tác nhiều tác phẩm giá trị, in ấn phát hành kinh sách, giảng pháp
truyền đạo. Ðặc biệt là việc xây dựng những chùa am thiền tự nổi
tiếng như Côn Sơn, Thanh Mai Sơn, Quỳnh Lâm, Hồ thiên. Ðào tạo hàng
ngàn tăng đồ. Theo sư có đến 15 ngàn đệ tử.
Trước tình trạng lạm dụng nơi chùa chiền để trốn thuế, trốn lao
động, Sư là người đầu tiên trong lịch sử Phật giáo đã thực hiện được
việc kiểm tra và lập sổ bộ tăng chúng để quản lý. Vì thế Sư là một
người rất có uy quyền và được vua sùng kính.
Sử thần Ngô Thì Sĩ có lời bàn. “Pháp Loa trong khoảng niên hiệu Hưng
Long thường tâu xin giảm số độ thầy tu, từ chối sự ban cấp cho phu
chèo thuyền, khước bỏ những của bố thí như ruộng đất, vàng, bạc của
các vương tôn quý chủ, giữ luật răn mình rất nghiêm, giữ đức hạnh
rất cao, giác ngộ chân lý rất nhanh, hết thảy những vinh hoa, lợi
dục, chung đỉnh, thiết việt không một vật gì có thể lay chuyển được.
Cho nên xử những việc lớn vẫn điềm nhiên, pháp luật trong đời không
ràng buộc được, người đời không ai không tôn trọng đạo của ông, tin
tấm lòng của ông.”
Năm 1330, ngày mùng 5 tháng 2, Sư phát bệnh trong hội giảng kinh Hoa
Nghiêm tại An Lạc tàng viện. Ðến ngày mùng 1 tháng 3 , Thượng hoàng
Trần Minh Tông đích thân đến thăm và cho Thái y của triều đình chạy
chữa. Lúc lâm chung, có sư Huyền Quang cận kề hỏi pháp. Khi sắp viên
tịch, đệ tử cùng đến và hỏi. “Người xưa lúc sắp tịch đều có để kệ
dạy cho đệ tử, riêng thầy sao không có?” Sư ngồi dậy viết bài kệ rồi
ném bút, an nhiên thị tịch. Lúc đó sư mới 47 tuổi. Vua Trần Minh
Tông tặng mười lượng vàng xây tháp để nhục thân ở Thanh Mai Sơn.
So với đại lễ truyền thừa cho Pháp Loa do Ðiều Ngự tổ chức rất long
trọng, thì rõ ràng hành động của Pháp Loa lúc sắp qua đời ở đây quá
mập mờ. Với một người giỏi cả việc đạo, thạo việc đời như Pháp Loa,
đây không thể là sự sơ suất thiếu chuẩn bị mà phải chăng đó là ý
định của ngài? Phải chăng lúc Pháp Loa mất thì Huyền Quang cũng đã
quá già yếu cận kề tuổi 80 và 4 năm sau thì cũng viên tịch.
Chính vì sự mập mờ này mà về sau có giả thuyết cho rằng Huyền Quang
chỉ được tổ Pháp Loa truyền pháp chứ không được truyền tông kế thừa
ngôi tổ. Tổ thứ ba phải là Thiền sư Kim Sơn, một thiền sư thông tuệ,
tác giả nhiều kinh sách, trong đó cuốn sử thiền nổi tiếng Thiền Uyển
Tập Anh có người cũng cho là của Kim Sơn. Tin như thế vì sư Kim Sơn
được vua Trần Minh Tông rất kính phục và trong thư gửi cho sư lúc
vua lâm bệnh đã gọi sư Kim Sơn là Tam Ðại Thiền Tổ, thiền tổ thứ ba.
Huyền Quang
1254-1334
Thi sĩ thiền sư, mặc áo Bụt ở với ma
·
Ai là Tổ thứ ba kế thừa Pháp Loa
Thiền sư Huyền Quang cận kề, hỏi pháp bên giường bệnh của Pháp Loa
trước giờ lâm chung. Nhưng Pháp Loa có truyền y bát truyền thừa rõ
ràng để trở thành Tổ thứ ba của Trúc Lâm Yên Tử, như đã được viết
trong Việt Nam Phật Giáo Sử Lược của Thích Mật Thể, lại là một câu
hỏi. Một vài điểm cần được giải thích
-
Vua Trần Anh Tông rất kính trọng và có mối liên hệ rất tốt với Pháp
Loa tuy rằng sư còn trẻ. Với Huyền Quang lại không được như vậy.
Bằng chứng là đã cho cung nữ tín cẩn dụ dỗ Huyền Quang để thử thách
về đạo hạnh lúc sư đã ở tu trong núi và đã 60 tuổi (sẽ nói rõ sau).
- Vua Anh Tông là người chủ trì việc trao y bát cho Pháp Loa tự tay
vua cha, Sơ tổ Ðiều Ngự Giác Hoàng, để trở thành tổ thứ hai. Anh
Tông chắc chắn sẽ rất lưu tâm về việc chọn tổ thứ ba. Nhưng khi sắp
chết, Anh Tông không chịu gặp Pháp Loa. Lý do gì? Bất đồng về việc
chọn người kế truyền chăng?
- Vua Trần Minh Tông, kế vị vua cha Trần Anh Tông, giữ mối liên hệ
với Pháp Loa còn tốt hơn. Bằng chứng đã đến thăm, cho thái y chạy
chữa khi Pháp Loa bệnh nặng sắp mất. Sau khi chết lại cấp vàng xây
mộ tháp. Lần gặp sau cùng này, với trách nhiệm đối với đất nước, với
đạo pháp và nhất là với sơ tổ Trần Nhân Tông, vua không thể không
hỏi Pháp Loa về người truyền thừa ngôi tổ. Nếu tổ thứ ba Pháp Loa
chọn là Huyền Quang, thì sao không công khai truyền y bát. Lại nữa,
nếu đã rõ ràng như vậy thì lúc sắp chết vua Trần Minh Tông đã không
gọi sư Kim Sơn là Trúc Lâm Thiền Tổ Thứ Ba (Trúc Lâm Tam Ðại Thiền
Tổ)
Sở dĩ có sự rối rắm thắc mắc, suy diễn này chỉ vì bản Tổ Gia Thực
Lục, sách ghi rõ tiểu sử của ba vị tổ của Trúc Lâm đã bị lấy mất.
Thử đọc lại đoạn sử ly kỳ liên quan đến quyển sách này. Nhà Minh lúc
sang đánh chiếm Việt Nam vào năm 1407-1428, vơ vét sách vở và tất cả
đồ quý đem về Kim Lăng, trong số đó có bản Tổ Gia Thực Lục. Vị
thượng thư nhà Minh là Hoàng Phúc, khoảng 1426-1435, là người nhận
sách và giữ sách. Trong suốt thời gian giữ sách trong nhà, ông
thường mơ thấy sư Huyền Quang hiện ra đòi ông đem trả sách về cho
Việt
Nam. Chưa có cách nào trả lui, ông cho làm chùa ở làng mình lấy tên
là Chùa An Nam, Thiền sư Huyền Quang, để phụng thờ. Chùa rất linh
ứng khi con cháu cầu đảo. Ðến khoảng năm 1522-1558, tức là hơn một
trăm năm sau, Tô Xuyên Hầu Lê Quang Bí, triều Lê, đi sứ sang Tàu.
Ðến năm 1569, mười chín năm sau, mới trở về nước. Cháu bốn đời của
Hoàng Phúc là Hoàng Thừa Tổ lại nằm mơ thấy sư nhắc chuyện trả sách
đúng theo lời tổ phụ lưu truyền. Hoàng Thừa Tổ tìm đến tiễn sứ và
trả sách Tổ Gia Thực Lục để sứ đem về.
Trong sách này trang cuối ghi rõ. Huyền Quang được phong là “Trúc
Lâm thiền sư đệ tam đại, đặc phong tự pháp Huyền Quang tôn giả”. Căn
cứ trên Tổ Gia Thực Lục, vào thế kỷ 18 Ngô Thời Nhiệm đã viết nên
tác phẩm “Tam Tổ Thực Lục”. Từ đó chính thức thừa nhận ba tổ của
Trúc Lâm Thiền phái là Ðiều Ngự Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền
Quang. Bản thân Ngô Thời Nhiệm, một trí thức hàng đầu, một sử gia
lừng lẫy của Việt Nam theo giúp vua Quang Trung, cuối đời cũng vào
Trúc Lâm tu học, lấy pháp danh là Hải Lượng. Tự xưng là “Trúc Lâm đệ
tứ tôn”.
·
Theo bước Nhân Tông
Sư tên là Lý Ðạo Tải, cha thuộc dòng dõi quan liêu. Khác với Hiện
Quang và Pháp Loa dung mạo tuấn tú, Huyền Quang hình dung kỳ dị (nói
gọn là xấu trai) nhưng rất đỗi thông minh. Mới 21 tuổi đã thi đậu
trạng nguyên. Ðược bổ làm quan ở Hàn Lâm Viện và đi sứ Trung Hoa. Có
nơi thì nói là tiếp sứ. Ông nổi tiếng về tài văn thơ khi ứng xử nên
được nể phục. Không những những người giàu sang, thượng quan triều
đình đòi gả con, mà An sinh Vương (Thân sinh của Hưng Ðạo Vương Trần
Quốc Tuấn) cũng đòi gã cháu là công chúa Liễu Nữ. Ông từ chối nhất
định sống độc thân.
Một hôm theo vua Trần Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm nghe Thiền sư
Pháp Loa thuyết pháp, ông giác ngộ. Từ quan xuất gia theo hầu Ðiều
Ngự và Pháp Loa với pháp hiệu Huyền Quang do chính thượng hoàng đặt
cho. Kể từ đó cho đến khi Ðiều Ngự mất, ba thấy trò cùng nhau đi
khắp nơi để truyền pháp cho đại chúng..
Lúc gặp Pháp Loa, ông bước qua tuổi năm mươi. Tuổi để biết trời cho
được gì. Ngũ thập tri thiên mệnh. Với Pháp Loa, so về tuổi tác ông
vào hàng cha chú. Về học vấn, văn thơ thế tục thì cũng vượt xa. Sau
cùng về từng trải và kinh nghiệm đời thì khỏi cần nói đến. Thế mà
chỉ nghe Pháp Loa giảng kinh bỗng tỉnh thức bước theo con đường tìm
giác ngộ. Pháp Loa quả thật là một thiền sư xuất chúng. (Thời nay
nay không ít các thầy thuyết pháp tràng giang. Người nghe không biết
thầy đang nói gì đã đành, mà thầy cũng không biết mình đang nói
chuyện chi. Sư đã để quên đồng hồ!)
Sư mất tại Côn sơn ngày 23 tháng Giêng năm Giáp Tuất. Thọ 80 tuổi.
·
Mặc áo Bụt ở với ma
Sử thần Ngô Thời Sĩ nhận xét về Huyền Quang. “ Cuộc đời của sư đạm
bạc giản dị đơn sơ”. Khi trú trì ờ chùa Hoa Yên kế tục Pháp Loa,
hàng nghìn tăng ni theo học. Ngoài việc in kinh, lập chùa, sư nổi
tiếng nhân đức vì việc làm bố thí. Từ thượng quan đến cùng đinh dân
dã đều ngưỡng mộ đạo hạnh của sư. Không ai nghi ngờ. Trừ một: Trần
Anh Tông.
Nếu những việc khác trong sự nghiệp trị nước, vua được cho là sáng
(minh) nên được liệt vào hàng minh quân. Nhưng trong nhiều việc làm
khác, đặc biệt cho cung phi vào núi dụ dỗ để thử Huyền Quang lúc sư
đã 60 tuổi thì rõ ràng ông có hành động ấu trĩ nông nổi của một u
(tối) quân. Một dạng thức bệnh tâm lý.
Về nhà Trần, các nhà sử học cho rằng, một trong những điều rất hay
là chế độ vua cha nhường ngôi cho con, lui về làm thượng hoàng. Như
vậy vua trẻ có thời gian thực tập công việc trị nước dưới sự cố vấn,
giám sát và giáo dục nghiêm khắc của vua cha. Nếu không có việc này
thì có lẽ nhà Trần đã nhiều phen mất ngôi. Một trong những ví dụ là
trường hợp Trần Anh Tông.
Lúc đã lên ngôi, là vua lãnh đạo nước, Trần Anh Tông vẫn còn nhiều
thói hư và việc làm bất xứng.
Việc thứ nhất.
Ðêm đêm cùng đám hầu cận, vua lẻn khỏi cung điện đi chơi la cà cho
tới sáng. Có hôm bị côn đồ ném đá lũng đầu chảy máu. Nhờ đám lính hô
lên “Nhà vua đấy!”, côn đồ bỏ chạy. Thoát nạn, vua mang đầu máu về
cung. Thượng hoàng thấy hỏi... lắc đầu chặt lưỡi.
Việc thứ hai.
Thượng Hoàng ở phủ Thiên Trường về cung để “kiểm tra bất thần”,
không thấy vua con ra nghênh đón. Chờ đến bữa cơm dọn ra, vua cũng
biệt tăm. Hỏi ra mới biết vua uống rượu quá say ngủ mê mệt, đánh
thức cũng không tỉnh lại được. Thượng hoàng giận lắm quay về đã muốn
phế bỏ, cho lệnh các quan hôm sau đến “trình diện”. Khi tỉnh rượu
nghe nói, vua bủn rủn tay chân, không kịp đem theo quân hầu, vừa đi
vừa chạy đến lạy cha xin tạ tội. Trên đường đi, bối rối suy nghĩ
chưa biết phải ăn nói giải thích làm sao với thượng hoàng thì gặp
học sinh thất nghiệp Ðoàn Nhử Hài đang đi lất phất. Vua nói qua
chuyện mình (Buồn ngủ gặp chiếu manh.). Nhử Hài phóng bút viết lời
trần tình. Vua cho đi theo và đẩy đi trước đến quỳ gối đội đầu dâng
sớ. Thượng hoàng không tiếp. Trời bỗng mưa to gió lớn, Nhử Hài đánh
nước lỳ, tiếp tục quỳ. (Chịu khó một buổi mà vinh quang cả đời).
Thượng Hoàng vốn là Phật sống, động lòng phải tiếp đọc. Ðọc tờ biểu
xong hết giận. Gọi vua vào quở trách và hỏi tác giả của bài văn. Vua
thành thật khai báo. Thượng hoàng biết Nhử Hài là kẻ có tài, từ đó
trọng dụng. Vua thoát tội bị phế truất. Phong ngay cho vị cứu tinh
non choẹt mới 20 tuổi, miệng còn hơi sữa, làm Ngự Sử Trung Tán và từ
đó trở thành một cận thần thân tín và đảm nhận nhiều trọng trách,
rạng rỡ lưu danh. Vua ăn năn và thề bỏ rượu. (Miệng còn hôi sữa là
chữ do các quan trong triều nhạo báng Nhử Hài. Lấy theo câu, Khẩu
tồn nhũ xứ, mà vua Hán Cao Tổ chê Bá Trực, tướng của Ngụy là trẻ
con)
Việc thứ ba.
Tổ tiên nhà Trần vốn là người Phúc kiến Trung quốc, sang Việt Nam
chuyên nghề đánh cá. Vì thế có cổ tục xâm mình. Tục này xưa thì rất
phổ biến trong nhân gian sau này không còn, chỉ còn lưu truyền trong
dòng dõi hoàng tộc nhà Trần. Tất cả vua kế nghiệp đều xâm hình rồng
trên bắp đùi. Hôm Thượng Hoàng đến để chứng kiến việc này thì vua
Trần Anh Tông né đi chỗ khác. Thượng Hoàng biết ý lờ luôn. (Hay
Thượng hoàng đã muốn dẹp từ lâu mà chưa có cớ). Kể từ đó tục này
được bãi bỏ.
Chính sử sau này ca tụng vua Trần Anh Tôn đã có một hành động cách
mạng cải cách hủ tục. Nhưng nên coi lại. Vua vốn ham đi chơi đêm bên
ngoài nên giấu giếm tông tích cho dễ bề trác táng. Có lần đã bị ném
đá bể đầu may chúng biết là vua nếu không thì đã vỡ sọ. Bằng lòng
cho xâm hình rồng trên bắp đùi thì chốn ăn chơi khi trần truồng làm
thế nào che dấu tông tích mình là vua. Vì thế Trần Anh Tông phải né
cũng là điều dễ hiểu. (Bao nhiêu anh hùng và hành động anh hùng có
khi cũng chỉ là... “Chó ngáp trúng ruồi!”)
Việc thứ tư.
Trần Anh Tông dự phần trong việc làm cho Phật giáo thời cuối Trần đi
lệch con đường chính đạo để nhuốm nhiều yếu tố mê tín dị đoan. Anh
Tông cho phép đạo sĩ Tồn Ðạo từ Trung Quốc đến lưu trú và hành nghề
phù thuật. Phù thủy, phù chú, cầu đảo... bắt đầu từ đây.
Lại nữa. Một tăng sĩ Lạt Ma Giáo người Hồ (Tây tạng?) tên là Du Chi
Bà Lam với nhiều phép thuật đã đến và phổ biến bùa chú huyền bí mê
tín. Áp dụng lệch lạc mật tông. Ông được vua Trần Anh Tông ưu đãi. Ở
lại Thăng Long và chết tại đây. Tại sao ông được nâng đỡ như vậy?
Ðơn giản. Vua thấy con gái của ông thầy Tây tạng này là Da La Thanh
đẹp nên sung vào hậu cung!
(Hứa với Thượng hoàng bỏ rượu, tửu. Ðâu có hứa bỏ gái đẹp, sắc.)
Việc tệ nhất.
Sai cung nữ thị Bích vào chùa trong núi sâu Yên Tử dụ dỗ ngài Huyền
Quang.
Trần Anh Tông là một vị vua giỏi. Nhưng từ thuở trẻ đã ham mê tửu
(sau này đã bỏ) nhưng ham mê sắc dục thì đến chết chắc cũng không
chừa. Thấy một Huyền Quang, lúc trẻ có tài có chức trọng, lại một
mực khước từ xa lánh mọi quyến rũ của nữ giới, kể cả công chúa, vào
chùa đi tu. Khó tin được. Chẳng qua là chưa gặp người gặp cảnh.
Huyền Quang hay Anh Tông đều là chúng sinh như nhau. Phải đánh đổ
thần tượng để cho mình không còn mặc cảm Bụt và ma.
Trần Anh Tông ban cho Huyền Quang vàng có dấu ấn. Sai thị Bích vào
chùa tu để quyến rũ sư cụ Huyền Quang lúc này đã 60 tuổi (quá tội
lỗi) để lấy vàng này đem về. Thị Bích thấy ngài đạo hạnh trang
nghiêm tôn kính không thi hành mưu kế được. Về tay không thì đắc tội
với vua. Thị Bích khóc lóc kể lể gia cảnh lâm nguy. Cha là tri huyện
thâu thuế bị cướp nếu không bù lại sẽ bị hành tội. Nghe lời bàn của
tăng ni, sư đem cho vàng. Thị Bích đem về khoe với vua đã thành công
mỹ nhân kế. Nhưng Anh Tông sau giây phút nông nỗi đã hối hận. Khi
mọi việc sáng tỏ, vua mở hội mời sư về làm lễ và tạ tội.
Thiền sư Hiện quang trước đây vì bị nghi oan phải vào núi tu. Huyền
Quang đang tu trong núi, vua và thị Bích mưu đem oan tới, Sư chạy đi
đâu?
Sư chưa hề biện bạch, như lời thơ của sư viết. “Tay
cầm dùi mõ tay nâng sáo. Thiên hạ cười ta cứ mặc tình. Thủ bả suy
thương hòa thái thác. Ðồ gia nhân tiếu lão tăng mang”. Nhưng mãi gần
năm trăm sau, năm Tân Mùi (1751), dưới triều Lê, chánh tiến sĩ đốc
trấn Ngô Thì Sĩ, nhà trí thức, người viết và phân tích sử sắc bén,
đã soạn lời giải thay cho sư mang tựa đề “Huyền Quang hành giải”.
Xin trích một vài luận cứ ngắn.
“Việc làm ra mà mọi người giống nhau, nếu có người khác liền nghi.
Còn lời nói ra mà mọi người không giống nhau, nếu có người chủ trì
thì tin”.
“Nay tôi sống cách xa sư không biết mấy trăm năm. Nghĩ đến việc giải
quyết những nghi ngờ do miệng ngoa truyền của thế tục há không thể
đem gia phổ, thi ca của sư để làm công án ư?”. “Khí chất núi rừng
khói ráng thể hiện trong ngôn từ. Con người đạm bạc giản dị đơn sơ,
tưởng cũng có thể thấy được. Thì đâu có cái chuyện nói năng không
gốc gác như thế tục ngoa truyền?” “Sự việc của sư đã rõ ràng, thì
chuyện mâm tỏi thành đồ chay trở nên vớ vẩn. Nhà vắng đem ra mà xét
lại, thì có thể nói rằng: vua Trần nhiều lần sai thử sư mà sư không
thể phạm...”
·
Thi sĩ-thiền sĩ Huyền Quang
Ðọc tiểu sử các thiền sư, riêng Huyền Quang sao gần gũi và thân
tình. Trước mắt như thấy một thiền sư già chậm, chống gậy trúc với
nụ cười chân chỉ thật thà. Một hình ảnh rất siêu thoát mà lại cũng
rất dễ thương. Thú vị khi đọc thơ của sư. Quả thật “Khí chất núi
rừng khói ráng thể hiện trong văn từ”.
Thiền sư Mãn Giác đời Lý nổi tiếng với bài thơ thiền mà bao nhiều
người thuộc, ít nhất là hai câu cuối. “Ðừng tưởng xuân tàn hoa rụng
hết. Ðêm qua sân trước một nhành mai” (Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận.
Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai). Thật ra Mãn Giác, một thiền sư đọc
bài kệ này khi lâm bệnh trước khi mất để truyền pháp cho đệ tử. Sư
Mãn Giác không làm một bài thơ, không là thi sĩ. Nhưng bài kệ có cả
thiền vị và thi vị nên được yêu thích như một bài thơ thiền tuyệt
hay. Vậy thì Thiền sư và thi sĩ trong phút giây xuất thần sáng tạo,
tuy mức độ có khác, chừng mực nào đó có điểm tương cận chăng? (Ðây
là nói thi sĩ thứ thiệt sáng tạo thơ chứ không phải làm
thơ bằng cách ghép chữ ép vần cho đủ bài).
Thiền sư Huyền Quang thì ngược lại, sư làm thơ như là một thi sĩ,
nhưng nhiều bài lại mang thiền tính của một bài kệ. Cho nên gọi
Huyền Quang (hay Tuệ Sĩ bây giờ) là thi sĩ-thiền sư hay thiền sư-thi
sĩ đều được. Sư làm rất nhiều thơ, nhất là giai đoạn tu trên Yên Tử.
Những bài trích đăng sau đây do Nhất Hạnh dịch.
Am Yên Tử
Yên Tử Sơn am cư
Am cao trên đỉnh lạnh
Am
bức thanh tiêu lãnh
Cửa mở mây từng không
Môn
khai vân thượng tằng
Long Ðộng trời đã tỏ
Dĩ can Long động nhật
Hồ Khuê nước còn băng Do xích Hồ khuê băng
Văn chương không kế sách
Bão chuyết vô dư sách
Gậy chống thân gầy còm Phù suy hữu sấu đằng
Hầu hết chim rừng Trúc
Trúc Lâm đa trúc điểu
Là bạn của nhàn tăng
Quá bán bạn nhàn tăng
Ngủ trưa Ngọ thụy
Mưa tạnh khe núi tĩnh
Vũ quá khê sơn tịnh
Ngủ mát dưới rừng phong
Phong lâm nhất mộng lương
Nhìn lại cõi nhân thế
Phản quan trần thế giới
Mắt mở vẫn say nồng
Khai nhãn túy mang mang
Hỏa Lò
Ðịa lô tức sự
Củi hết, lò còn vương khói nhẹ
Ôi dư cốt đột tuyệt phần hương
Sơn đồng hỏi nghĩa một chương kinh
Khẩu đáp sơn đồng vấn đoản chương
Tay cầm dùi mõ, tay nâng sáo
Thủ bả suy thương hòa thái thác
Thiên hạ cười ta, cứ mặc tình.
Ðồ giao nhân tiếu lão tăng mang
Thơ về hoa cúc của Thiền sư Huyền Quang phải được kể là một trong
những bài thơ hay của thi ca Việt
Nam. Nhiều ý thơ và hình ảnh được tìm thấy trong thơ bây giờ. Thơ
dài nên chỉ trích đoạn.
Hoa Cúc
Cúc Hoa
...
Buông thân buông thế, thảy đều buông
Vương thân vương thế dĩ đô vương
Thiền tọa giờ lâu lạnh thấm giường
Tọa cửu tiêu nhiên nhất tháp lương
Trong núi năm tàn không có lịch Tuế vãn sơn
trung vô lịch nhật
Thấy hoa cúc nở biết Trùng dương
Cúc hoa khai xứ tức Trùng dương
Năm năm nở đúng tiết Thu qua
Niên niên hòa lộ hướng thu khai
Gió dịu trăng trong ý mặn mà
Nguyệt đạm phong quang thiếp thốn hoài
Cười kẻ không hay hoa huyền diệu
Kham tiếu bất minh hoa diệu xứ
Khi về, mái tóc giắt đầy hoa
Mãn đầu tùy đáo tháp quy lai
Người ở trên lầu hoa dưới sân
Hoa tại trung đình nhân tại lâu
Vô ưu ngồi ngắm, khói trầm xông
Phấn hương độc tọa tự vong ưu
Hồn nhiên người với hoa là một Chủ nhân dữ
vật hồn vô cạnh
Giữa vùng hương sắc lộ hình dung
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu
...
Kết.
Yên Tử chỉ đến một ngày mà suy tư vương vấn mãi đến nhiều tháng sau.
Lật trang sử xưa, lồng lộng đất nước huy hoàng ngày tháng cũ. Nhìn
cảnh điều tàn hoang phế hay lố lăng diêm dúa của chùa lăng, tôn
miếu, không phải ở đây mà cả nhiều nơi đã đi qua trên miền bắc, khó
ngăn được luyến tiếc bùi ngùi hồn thu thảo.
Yên Tử là dấu tích của hai triều đại Lý Trần.
Lý ,Trần, với những vị vua Phật Tử, dựa trên Bi Trí Dũng của Phật
Giáo cùng với Nhân Trí Dũng của Nho Giáo, xây dựng những triều đại
huy hoàng nhất trong lịch sử dân tộc. Giáo sư Trần Quốc Vượng trong
tác phẩm “Trong Cõi”, (được phổ biến rất hạn chế ở hải ngọai và bị
cấm ở trong nước), cho rằng. “Các vua đầu triều Lý hay Trần là những
vua thân dân, gần gũi và thông cảm với dân chúng”. Thêm nữa. “ Thời
Lý Trần, đường lối tư tưởng chung của vua chúa triều đình là dung
hợp, điều hòa và dung hòa Tam Giáo, Phật Nho Ðạo”
Hầu hết các vua hai triều là những minh quân, làm cho tổ quốc hùng
mạnh, phát triển rực rỡ về cả văn hóa, nghệ thuật, pháp chế, pháp
luật. Nhân dân no ấm hạnh phúc. Và quý nhất là xã hội ổn định, hòa
hợp. Thời gian thịnh trị kéo dài mấy trăm năm. Không phải một sớm
một chiều. Cũng theo Giáo sư Trần Quốc Vượng. “Sang thời Lê rồi thời
Nguyễn, triều đình vua chúa trở nên độc tài hơn về mặt tư tưởng,
(dưới chế độ cộng sản thì lại quá tệ), chỉ muốn độc tôn Nho học, lấy
Nho học làm tư tưởng chính thống. Thì quả thật từ đấy trong nước
hiện ra cảnh lưỡng phân văn hóa, hiện ra hai trào lưu tư tưởng; tư
tưởng khai phóng (Tam Giáo),và tư tưởng bế quan (Tống Nho).”
Bên cạnh sự nghiệp đó, cũng có nhiều điều tiêu cực mà các người viết
sử, Nho gia, đặc biệt là Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn, Ngô Thì
Sĩ, Ngô thì Nhậm, Ngô Sĩ Liên...có lời phê phán rất nghiêm khắc.
Nhiều phán xét có luận cứ và rất đúng. Tuy nhiên nếu cho rằng vì quá
lạm dụng Phật giáo mà suy vong thì cần xét lại. Các triều đại, hay
nói chung mọi việc, hễ có bắt đầu thì có chấm dứt. Ðây là lý vô
thường trong quan niệm Phật giáo. Và Lão Tử với “Luật phản phục”
cũng cho rằng, trong vũ trụ vật gì phát đến cực điểm thì phản lại,
Có tăng tất có tổn. Trăng tròn lại khuyết. Xuân tàn, Hạ đến, Thu
lại, Ðông qua. Tần Thủy Hoàng lấy pháp trị dân, độc ác vô nhân, cũng
chỉ tồn tại hơn mười năm. Hàng ngàn triều đại Ðông Tây kim cổ, có
triều đại nào bất diệt với thời gian!
Chiến tranh đã qua đi hơn ba mươi năm. Ðất nước không còn phân
cách lãnh thổ mà lòng người Việt từ trong nước cho đến khắp nơi còn
quá nhiều ngăn cách và hận thù. Gạt qua lớp bụi mù ảo tưởng phồn hoa
thành thị, chốn làng quê đến nay muôn thuở vẫn nghèo, vẫn thiếu hụt
trăm bề. Quê nhà quanh năm thiên tai khốn đốn mà “nhân tai” lại quá
ê chề.
Ðứng trên đỉnh cao Yên Tử trong sương chiều mây núi lãng đãng, nghe
vang vọng. “Trần Nhân Tông. Tổ quốc cần ngài.”
Tham khảo và Trích dẫn:
- Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục Viện Sử Học dịch. Hà nội
1998
- Ðại Việt Sử Lược. Khuyết danh Nguyễn Gia Tường dịch. Tp HCM 1993
- Việt Sử Tiêu Án. Ngô Thời Sĩ Văn Hóa Á Châu dịch.
Saigon
1960
- Sử Trung Quốc. Nguyễn Hiến Lê. Tp HCM 2006
- Sử Ký Tư Mã Thiên Nguyễn Hiến Lê và Giản Chi dịch.
Saigon
1968
- Việt Nam Phật Giáo Sử Lược. Thích Mật Thể Nhà XB Tôn giáo tái bản
2004
- Việt Nam Phật Giáo Sử Luận. Nguyễn Lang. Văn Học Hà Nội 1979
- VuaTrần Nhân Tông. Cuộc đời, tác phẫm, sự nghiệp. Lê Mạnh Thác.
Học viện PGVN-Kỷ Mão
- Thiền Uyển Tập Anh. Kim Sơn. Lê Mạnh Thác dịch. VĐH Vạn Hạnh 1976
- An
Nam Chí Lược. Lê Tắc. Viện ĐH Huế dịch và XB 1961
- Đại Việt Sử Ký Tiền Biên. Ngô Thời Nhậm
Viện NC Hán Nôm. KHXH Hà Nội 1997
- Trong Cõi. Trần Quốc Vượng Trăm Hoa. Hoa kỳ 1999
- Con Đường Tơ Lụa. Xa Mộ Kỳ. Nguyễn Phổ dịch. NXB Trẻ 1999
- Trang Mạng: Thiền Tông Việt
Nam. Thư Viện Hoa Sen. ACSN.online. Footprintsvietnam.com
|