Không thể !
Chỉ ít
phút sau Thanh Tâm Tuyền mất, Bùi Ngọc Tuấn từ Minnesota, buồn
gọi báo hung tin. Không thể được! Tôi gọi ngay chị Tuyền. Thảo,
con gái, nhận ra giọng tôi. Chú Tâm. Bố cháu vừa mới mất lúc 11
giờ 30. Mẹ cháu ra ngoài chạy lo công chuyện không có nhà. Lặng
đi giây lát. Quá ngạc nhiên. Mới vào độ cuối thu anh còn gọi nói
chuyện rôm rả, cười vui với tôi rất lâu. Tôi còn hẹn lên đón anh
về Chicago. Hai thành phố không xa mà anh chỉ ngang qua, chưa có
dịp ở chơi. Hứa không gặp ai. Chỉ đi xem cảnh, xem tranh và
chuyện trò. Tôi hỏi cháu về bệnh trạng. Thảo cho biết. Bố chết
vì ung thư phổi nặng. Cơ thể yếu không chịu được giải phẫu hay
hóa trị. Bác sĩ phát hiện bệnh vào ngày 22 tháng1. Chỉ vỏn vẹn
ba tháng, anh từ giã “Bếp lửa“ nhân quần ngày thứ tư 22 tháng 3,
2006 tại Saint Paul, nơi anh và toàn gia đình con cháu chọn làm
nơi lưu trú trên mười sáu năm qua. Vì phổi không còn hoạt động
bình thường, anh nằm bệnh ở nhà thở với bình ốc xy. Vẫn tỉnh
táo. Nhớ chuyện. Nhớ người. Ngày thứ Sáu trở bệnh nặng. Cấp cứu.
Ngày thứ Ba không còn ăn được. Trưa thứ Tư tắt thở. Chị và các
cháu Trinh Thảo, Trung Từ, gái cưng và trai út, cận kề bên
giường bệnh, sững sờ đau xót nhìn chồng, nhìn cha ra đi đột
ngột.
Thuốc lá
và cà phê đen là hai thứ không thể thiếu mà lại quá tải trong
hàng chục năm với cơ thể của anh. Năm 1994 tôi lên ở chơi với
anh vài ngày. Thói quen này không thay đổi. Năm 2000 lên dự đám
cưới cháu Trinh Thảo. Anh đổi ra hút ống tẩu. Bên cạnh bàn trà
có máy lọc không khí. Nhà mới mua lại có thêm các cháu nhỏ, con
của cháu Minh Trí vừa mới ở Việt nam qua đoàn tụ. Sau cái chết
cũng rất bất ngờ, cùng chứng bệnh, của người bạn chí thân họa sĩ
Ngọc Dũng, thương lo cho chồng chị thúc hối anh đi khám bác sĩ.
Lần nào cũng gàn, bướng lần khân. Cứ mỗi lần như vậy vợ chồng
lại cự nự nhau. Khi phát hiện, bác sĩ cho biết bệnh khởi đầu
cách đây ba năm. Quá trễ ! Có điều lạ anh chẳng thấy dấu hiệu gì
về bệnh trạng nên ỷ y. Sau chuyến về Việt nam thăm mẹ trở về,
trông khỏe hẳn, lên 5 ký. Thân mẫu của anh, tuy ngoài chín mươi,
vẫn còn khỏe. Lúc còn ở bên nhà, tôi thường thấy cụ, dù đã trên
bảy mươi, vẫn còn nhanh nhẹn, đi chợ bằng xe đạp. Năm trước anh
cho biết, cụ đứng đợi bên lề đường, bị xe đụng gẫy chân. Có lẽ
về thăm được mẹ già đã làm ông vui và khỏe. Chuyến về thăm ông
chỉ ở nhà với thân mẫu. Không tiếp xúc với ai. Chẳng đi đâu,
ngoài đi ăn phở. Hỏi ông Sàigòn. Ông cười. Tớ chẳng đi đâu cả.
Nhận
được tin anh mất lúc tôi vừa xa Chicago một tuần lễ. Ðang ở
Cali, trạm dừng chân đầu cho một chuyến đi dài hơn tháng. Ðại
hàn và các thành phố Nhật sẽ là những chặng đường kế tiếp. Vì
thế dù rất muốn, không thể nào bay về dự đám tang anh được. Lẽ
ra nơi đến đầu tiên là Minnesota. Tôi dự định lên chơi với anh
mấy ngày, trước khi tạm xa thành phố gió. Một người bạn thân,
anh Mai Tất Ðắc, người làm thơ và hâm mộ thơ TTT, lỡ dịp đôi lần
gặp gỡ, muốn tháp tùng. Tôi đồng ý. Gọi bao nhiêu lần không ai
bắt máy. Ðể lời nhắn, không thấy hồi âm như mọi khi. Nghĩ rằng
anh chị đi xa thăm con. Cứ tưởng là cháu Quang Tuệ, đứa con trai
thứ ba còn ở Texas. Cháu Thảo nói. Vì bố không muốn ai biết, nên
không liên lạc với ai. Bố cũng không bằng lòng để mẹ hỏi những
bạn bè trong trường hợp tương tự nhờ giúp ý kiến. Bố kiệt sức.
Mẹ không chịu đựng được buộc lòng trái ý chồng tìm kiếm dò hỏi.
Ðó là lý do tôi đã mất liên lạc với anh. Lỡ dịp gặp thăm anh lần
cuối.
Ðược tin
anh mất tôi gọi báo ngay cho anh Viên Linh. Tạp chí Khởi Hành,
là diễn đàn nhiều công lao trong việc cổ súy và trân trọng nền
văn học, nghệ thuật tự do của miền nam Việt nam, trong đó có
Sáng tạo. Báo cho anh Lê Tắt Ðiều, vì hôm qua tôi mới ở chơi với
anh chị trọn ngày. Chúng tôi cũng nhắc đến TTT. Cuối thu vừa rồi
chúng tôi đã nói chuyện rất lâu. Không ngờ đây là lần cuối nghe
được giọng vừa cười vừa nói rất đặc biệt của anh. Trong câu
chuyện anh có nhắc đến nhạc sĩ Phạm Duy vừa ra một hồi ký của
đời mình nhưng không hề nói đến tên một người anh uyên bác và
tài hoa có ảnh hưởng, ông Phạm Duy Nhượng. Theo lời kể của TTT,
là người được ông giới thiệu lên dạy học cùng ở Thủ Dầu Một.
Trong dịp này nói về thời gian làm báo Tiền Tuyến, anh cười vui
nhắc đến nhà văn Lê Tất Ðiều. “Tên ấy nhỏ con nhưng võ nghệ
giỏi. Qua Mỹ lại làm sĩ quan cảnh sát. Phục thật!” Chẳng ngờ
cách hôm sau, ngày chúng tôi nhắc đến, anh không còn. Người thứ
ba tôi báo tin ngay là Ðinh Cường, người TTT thường liên lạc sau
những ngày tù về cho đến nay. Năm rồi qua Washington D.C. dự
họp, Ðinh Cường đem xe đến khách sạn đón, đưa về nhà. Chị Tuyết
Nhung cho ăn món Huế tuyệt vời. Ðinh Cường mở chai rượu chát
ngon đối ẩm. Khoe bức sơn dầu vẻ chân dung TTT. Ðinh Cường muốn
lên dự lễ tang. Cận ngày, vé quá đắc không kham nổi. Hẹn khi tôi
trở về Chicago sẽ thu xếp cùng lên Minnesota thắp trước mộ anh
một nén hương tiễn biệt.
Các anh
nói tôi viết bài về Thanh Tâm Tuyền. Tôi không làm được. Ở xa
nhà thiếu phương tiện. Việc riêng lại đang ngổn ngang. Cái chết
của anh là một xúc động mạnh. Thêm nữa. Tuy sống ẩn dật trong
bao nhiêu năm, sự nghiệp và tài năng cũng như tư cách của anh đã
là sao Bắc đẩu trên nền trời văn học Miền Nam và cả Việt Nam
đương đại. Chắc chắn sẽ có rất nhiều bài viết, bài đọc về anh.
Tôi thức
giấc nửa đêm chú tâm cầu nguyện anh siêu thoát. Cầu cho anh, một
người anh thương mến, một người bạn lớn tuổi, đã hiểu nhau, cùng
chia sẻ những đắng cay buồn vui của tù đày, của nhân tình thế
thái. Ðã cùng nhau hàn huyên tâm đắc trăm ngàn thứ chuyện trong
mấy chục năm qua. Qua anh tôi đã thấy sự thủy chung của tình
bạn. Ðối với các anh chị thuộc gia đình Sáng Tạo và những người
thân quen, mối dây thân ái, tương kính, quan tâm đến nhau vẫn
giữ cho đến cuối đời. Phục anh về khí khái của một kẻ sĩ khi
quốc phá. Không ồn ào chống đối, nhưng chưa bao giờ thỏa hiệp.
Không đua chen cho những hào quang và tăm tiếng. Chưa thấy anh
ghét ai. Không ưa không phục thì không gần gũi. Thế thôi. . Cách
sống của anh, dù chẳng bao giờ muốn, cũng đáng cho nhiều người
suy nghĩ. Anh là dòng nước, xuyên qua ghềnh thác, vẫn trong vắt
sáng ngần trôi chảy vào đại dương mệnh số.
Tôi gần
anh, chơi thân với anh. Một con người bình dị, chí tình trước
hơn một thi sĩ, văn sĩ. Tôi viết về anh, những điều gần gũi thân
quen, hơn là về những bài thơ người khen kẻ chê, người yêu kẻ
ghét. Những điều vặc vảnh này chiếu một tia sáng nhỏ vào một góc
đời cho những ai muốn hiểu thêm về anh. Thơ văn anh canh tân đột
phá cái sáo mòn xưa cũ. Chắc chắn không dễ gì chinh phục lúc
đầu. Thời gian mấy chục năm, im hơi lặng tiếng. Không tranh hơn
thua. Không giải thích biện bạch. Ðủ để cho những đánh giá trung
thực. Không phải đợi khi anh qua đời, mà những năm khi anh còn
sống, giá trị công lao, tài năng của anh đã là một khẳng định,
một tự hào của văn học Miền Nam Việt Nam tự do. Những bài viết,
phân tích, nhận định phê bình của nhiếu người trước và sau cái
chết của anh như Nguyễn Hưng Quốc, Bùi Vĩnh Phúc, Thụy Khuê...
và mới đây Ðặng Tiến cùng nhiều người khác, chắc chắn giúp cho
người đọc có cái nhìn, cái hiểu biết khá sâu sắc về sự nghiệp
văn thơ của TTT.
Nhờ cơ
duyên gia đình, tôi được gần gũi các anh chị giới cầm bút. Ngoài
và trong Sáng Tạo. Với các anh chị trưởng thượng như Doãn Quốc
Sĩ, Nguyễn Sĩ Tế, Thái Tuấn... thì coi tôi như người em. Riêng
TTT trẻ tuổi hơn quý vị kia, sau này gần gũi trong lao tù và sau
lao tù, cho đến những ngày trên đất Mỹ, hiểu được nhau, tôi được
anh xem như người bạn trẻ tuổi hơn, rất thân thiết. Tôi thường
gọi tên anh là Thanh Tâm Tuyền hay gọn là anh Tuyền. Gọi chị,
chị Tuyền. Thói quen này, có lẽ tại tôi với anh cùng tên chăng?
Trong bài viết này dù gọi là anh, là ông hay trơ trọi TTT, cũng
với lòng trân quý.
Ngày vào...
Miền Nam
sụp đổ. Tôi với TTT đi tù cùng ngày, cùng chỗ. Nhà tôi, nhà anh
gần nhau. Ði bộ năm mười phút. Tôi ở hàng Keo, gần trường Mỹ
thuật. Anh ở xóm Gia, gần Bệnh viện Ung thư. Gia định
Năm đầu
cùng chung trại Long Giao. Anh lán 9. Tôi lán 6. Lán là nhà mái
tôn dài, trại lính cũ. Gặp tôi anh mừng rỡ. Năm đầu ở đây, chưa
phải lao động nhiều nên có thì giờ nhàn rỗi. Tôi thường đến chơi
với anh và nói mọi thứ chuyện. Bài thơ Hồi Hương Ngẫu Cảm của Hạ
Tri Chương, sau này tôi trích đăng trong truyện ngắn Nghịch Lý
(Tập truyện Cơn Giông Ngày Về. Văn Mới xuất bản 1999) là của TTT
đọc thuộc và dịch. Tôi nghe. Học thuộc. Bài thơ Trung Hoa cỗ,
tiên đoán những ngày tù xa xăm biệt xứ của chúng tôi. “Thiếu
tiểu ly gia, lão đại hồi. Hương âm hối cải mấn mao tồi. Nhi
đồng tương kính bất tương thức. Tiếu vấn khách tùng hà xứ lai”.
Sau này, anh Hoàng Hải Thủy i meo cho biết, tôi đã trích sai
bài thơ. Phải sửa lại cho đúng là Hương âm vô cải, mấn mao thôi.
Tôi nhận mình lâu ngày, nhớ không đúng. Ông thi sĩ kiêm thầy dạy
việt văn không thể nhầm được. Mới đây đọc Tuyển tập tạp ghi của
Phan lạc Phúc (Văn Nghệ 2002) có thấy ghi chú. “Nhiều dị bản đọc
là Mấn mao suy hay Mấn mao tồi”. Vậy là tôi không nhớ sai. Trong
bài thơ PLP trích đăng lại gây thêm một nghi vấn khác. Thay vì
Nhi đồng lại là Mục đồng. Chuyện đó hạ hồi phân giải. Chỉ kể một
kỷ niệm nhỏ với TTT trong năm đầu cải tạo.
Biệt xứ.
Năm 1976
tù cải tạo chuyển ra vùng thâm sơn Việt Bắc. Anh bị đày ải Yên
báy, Lào cay. Tôi bị đẩy lên vùng Sơn La nước độc. Năm 1979
Trung quốc vượt biên giới đánh người anh em một thời môi hở,
răng lạnh. Các trại tù dọc biên giới Hoa-Việt chuyển về Vĩnh
Phú. Trong thung lũng hẹp, trại được phân phối thành năm phân
trại.
Tôi ở K5
với Mai Trung Tĩnh. Một sáng mùa xuân nắng đẹp. Tôi theo xe trâu
lên K2 nhận đường mía. K2 là trại trồng nhiều mía. Trên đường
làng sỏi đá. Vượt qua suối cạn. Sau khoảng hai giờ thì đến nơi.
Một toán anh em đói mệt rã rời, áo đẫm mồ hôi, trên đường về,
sắp vào trại. Trong đoàn người đó tôi chợt nhận ra anh. Với dáng
người và dáng đi đó không thể ai khác. Quá mừng không kìm hãm.
Nhảy vội xuống xe trâu. Chạy nhanh về phía anh. Gọi lớn. Anh
TTT. Mọi người quay đầu nhìn tôi. Anh mừng nhận ngay ra. Chú
Tâm. Anh cười. Chú đang ở đâu? Em ở K5. Chỉ bấy nhiêu lời. Anh
qua khỏi cổng giam còn cười mừng ngoái nhìn trở lại.
Hai năm
sau TTT chuyển về K5 cùng trại với tôi. Có khi lại được ở chung
buồng giam. Khác đội. Ngày lao động đói lả. Tối ngồi chầu kiểm
điểm. Tố mình và tố người. Cũng ít có khi rỗi rảnh chuyện trò.
Ăn cơm chung với nhau trưa chúa nhật. Sau này anh cười nói. Tớ
khai là Dư văn Tâm, đại úy bộ binh. Chú lại la toán lên TTT. Từ
đó tớ bi lộ tẩy!
Một
chiều mùa đông lạnh. Tôi đang ở đội nhà bếp. Anh nhắn ra gặp. Tớ
mới được quà, đem chú ít dầu bơ, bồi dưỡng lấy sức. Anh đưa tôi
lon gô đựng đầy. Cần cho anh hơn. Dúi vào tay tôi anh nói. Tôi
còn nhiều. Chưa kịp cám ơn, anh quay đi
Ai đã
qua tù đày của cộng sản. Ðã qua cái đói dai dẳng hành hạ
năm-năm- tháng-tháng-ngày-ngày, mới cảm được cái to lớn của
miếng ăn. Chờ cơm bụng lép đo giường. Cái đói đã đưa con
người trở về với bản năng sinh tồn của muông thú. Vì miếng ăn có
người lừng lẫy, nhân cách một thời đã trờ thành ti tiện. Rất
đáng thương và thông cảm. Ðừng chê trách. Trong hoàn cảnh đó,
TTT, với một gô dầu bơ vàng sệt hấp dẫn, thơm rực, chia cho tôi
trong một chiều âm u lạnh đói. Nghẹn ngào. Nhớ mãi. (TTT ơi!!!).
Tết
1981. “...Nguyên đán bước ngây ngây vất vưởng. Ngoài tường,
ngọn ngô đồng trơ trọc. Lắng buốt tiếng gặm mòn thịt xương. Lây
xót xa núi rừng điêu đứng (Nhớ Xuân). Hẹn với anh cùng ăn
trưa đầu năm. Bữa cơm ngày Tết hiếm có quanh năm, có thịt trâu
và canh, xào “...Nhồi như nhồi vịt, nước mắt rơi. Giao thừa
tối câm gió ỉ ôi. Ta vẳng nghe chú bỡn cợt. Tết ngày ăn, Xuân
mùa vui chơi...”. Tôi quá bận ở nhà bếp, xong việc thì đã
quá trưa. Xuống buồng giam của anh, một số anh em đã trùm chăn
ngũ cho quên ngày tháng hay khóc thầm nhớ vợ con. Anh vừa ăn
xong. Chúc anh sức khỏe. Anh thường nói. Vợ dại con thơ. Bằng
cách nào, cố sống mà về. Dù ngày về mù tịt. Tôi nhìn trước sau,
len lén đưa cho anh một chai nhỏ. Gì thế?. Thuốc ho. Xuống giọng
rầm rì. Chú liều thế. Tết tù mà như thế này là nhất!. Ở tù khó
nhất là đem rượu vào trại. Bị bắt thì cùm ngay. Có quan hệ bên
ngoài thì tiêu thụ tại chỗ. Tôi có đứa em thân tín cùng đơn vị,
Trần quốc Ân, làm ở đội mía lo việc cất rượu. Quí ông anh, biết
ông anh xưa vốn nòi Lệnh Hồ Xung, ngày Tết lén cắp rượu đem vô.
Tôi chia cho TTT một nửa. Anh không uống được nhiều rượu. Một
hai chung như thế cũng đủ cho thi sĩ của chúng ta có hứng khởi
làm những câu thơ về xuân về Tết trong tù tuyệt vời. “ ...
Trời có mấy độ xuân? Ðất bao nhiêu miền lạ? Chưa ngấy tiệc trần
gian. Hồn run xanh búp lá.” Tôi bị hớp hồn về ý và từ thơ
xao xuyến “Hồn run xanh búp lá”. Một câu thơ xuân khác kỳ lạ
không kém. Ðơn giản mà âm vang đến sững sờ. “...Vang vang trời
vào xuân. Ta bật kêu mừng rỡ....” Ở tù khổ sai mà làm thơ
sảng khoái như thế, đúng là thứ thiệt.
Ghiền
nặng thuốc lá. Vào trại ông là đệ tử của thần thuốc lào. “Bạn
tù ơi lửa châm rồi. Rít cho ròng rã mê tơi cõi lòng. Tựa lưng
nhả khói thong dong. Tít say lú lấp cả mong với chờ...” Ông
làm cỏ sắn ở gần nhà bếp đội chăn nuôi. Giờ nghỉ mệt, theo bạn
lén vào bếp hút vố thuốc lào. Nhà bếp, nơi nấu cám heo là nơi
cấm. Sợ tù đói kinh niên vào đây ăn vụng cám lợn. Nghe kể lại,
TTT đang phê thuốc, không kịp đi ra đã bị tên đội trưởng bợp
tai. Tin này truyền nhanh vào trại. Tôi lấy cớ đi lấy củi đốt
cho nhà bếp. Ðánh xe trâu ra tận nơi. Không gặp tên này ở đó.
May cho hắn mà cũng hên cho tôi.
Suốt
những năm tháng tù đày, ông là một người tù bình thản đến lạ
lùng. Không chống đối, than trách. Không tham gia hợp tác văn
nghệ, văn gừng. Mùa xuân trước khi được tha, tên Bích tù hình sự
làm trật tự, uy quyền trấn áp, buộc ông đưa thơ đăng bích báo
Tết. Chẳng thể chối từ ông đưa bài “Ngày xuân trên cánh đồng
mua” Bài thơ có những câu tuyệt. Nó không đăng cho là ông chửi
xéo. Những câu. “Trên cánh đồng nhàm mắt ngày tháng” hay
”Ngày tẻ lạnh đìu hiu nhớ nắng”.
Ngày ra...
Một tình
cờ kỳ thú. TTT và tôi vào tù cùng ngày cùng chỗ. Gần chín năm
sau ra tù cùng chỗ cùng ngày. Trong chuyến quy cố hương có thêm
nhà thơ Mai Trung Tĩnh.
Khi được
tin thi sĩ Mai Trung Tĩnh qua đời lạnh lẽo tại Virginia năm
2002, tôi xúc động viết trên Văn Học 193 bài tưởng nhớ “Giữa Hà
Nội Tìm Mai”. Trong đó có nhắc nhiều kỷ niệm cùng TTT dạo phố Hà
nội. Nay xin trích có sửa đổi để cho ai chưa đọc bài trên biết
thêm một kỷ niệm khó quên của tôi và anh.
“...Vào
một ngày nắng lạnh trước Tết, cả trại bàn tán xôn xao tin sắp có
đợt tha. Tôi dửng dưng. Loại binh chủng ngành nghề an ninh, biệt
kích, tình báo như chúng tôi, cứ chuyển trại vào sâu vùng hiểm
hóc thì vội vã chuẩn bị, chắc chắn thế nào cũng có tên. Lệnh tha
trong lúc hạn tù chưa vượt quá mười năm thì đừng có mà mong.
Nhưng ở đời có những chuyện không tin mà có thật. Tôi có đứa
cháu, con người bạn cùng đơn vị, thuộc loại tù nhí, rất trẻ. Mới
hai mươi mấy tuổi, đẹp trai, nhanh nhẹn dễ thương mà lại hoa tay
viết chữ rất đẹp. Tù vì theo Phong trào Phục quốc sau 1975. Vào
trại được tên cán bộ giáo dục, một trong mấy chức phận quyền uy,
tin cậy chọn làm thư ký kiêm tà lọt. Sai làm đủ mọi thứ việc.
Ngược lại cũng nhận được nhiều đặc ân. Không ở buồng giam, không
dầm mưa dãi nắng lao động khổ sai. Áo quần sạch mới không tả tơi
rách vá chằng đụp. Tù mà được như vậy đã là tiên. Chiều hôm đó
cậu ta xuống bếp lãnh phần ăn tối, ra dấu gọi tôi ra góc nhà.
Lấm lét nhìn trước sau, cười vui. “Chú có tên tha đợt này”. “Khó
tin!”. “Thật. Chú đừng nói với ai. Chết cả chú lẫn cháu”. Tự
nhiên tôi có linh cảm là sự thật. “Sao cháu biết? Có chắc không?
Ðừng làm chú mừng hụt nghe!”. “Cháu đang chép danh sách. Có tên
chú và tên cháu.” Thấy tôi ngẩn người. Như đã chuẩn bị, nó đọc
rõ tên vợ tôi, địa chỉ nơi về. Nói xong nó mừng khóc. Tôi cười
nghẹn. “Cám ơn cháu. “ Nhớ nghe chú. Ðừng nói cho ai. Tuần sau
mới công bố”. Tin thì có tin nhưng tôi vẫn rất hồi hộp.
Mấy ngày
sau thì một số lớn những người được tha, trong đó có tôi, được
tên cán bộ quản giáo đội gọi lên cho biết bán chính thức và lại
dặn dò đừng cho ai biết. Nhưng mọi người đã biết. Trại xôn xao
hy vọng. Mai Trung Tĩnh đến gặp tôi lén gửi thư dặn đem về cho
vợ. Hàng chục anh em khác cũng tin cậy gửi gắm. Họ biết chắc,
bằng cách nào tôi cũng tìm cách giấu giếm những lá thư để đưa
lọt về gia đình. Thời gian sau đó khi về Sàigòn, hơn tháng trời
tôi và đứa con gái 13 tuổi trên chiếc xe đạp cà rịch, ngày ngày
tìm đến những địa chỉ khắp cùng ngõ ngách trao thư tận tay những
người vợ, người mẹ, người cha, người tình. Sàigòn, Thủ đức, Biên
hòa. Nơi xa xôi thì gửi theo bưu điện. Qua việc làm này, tôi đã
chứng kiến bao nhiêu chuyện buồn vui tủi nhục của những bạn bè
cùng cảnh đang còn kẹt trong tù, mà ngày về thì biết đến bao
giờ. Tôi đã có ý định ghi lại những hoạt cảnh xã hội này, nhưng
cuối cùng không thực hiện vì trân trọng những đau thương đổ vỡ
riêng tư.
Một ngày
trước khi tha, tôi và Thanh Tâm Tuyền cùng một người bạn trẻ rất
khí khái, vốn là học trò, có bữa ăn đạm bạc chia tay. Thanh Tâm
Tuyền lại giao thêm cho tôi một trách vụ hiểm nghèo khác là đem
ra những bài thơ của anh sáng tác trong thời gian ở tù, viết
trên những dung giấy nhỏ. Nhiều bài thơ này đến với những người
hâm mộ trong thi tập “Thơ ở đâu xa” đã được Cơ sở Văn xuất bản
tại Mỹ năm 1999. Ðem lén cả hàng chục lá thư gửi về gia đình lại
thêm thơ lậu của Thanh Tâm Tuyền, qua mặt cán bộ ra khỏi trại là
một “điệp vụ” căng thẳng. Có kẻ lén báo, cán bộ nhân lực, tức là
an ninh trại, chận xét tại cổng nhưng tôi đã chuyển giao cho anh
bạn trẻ Phan cảnh Phùng trước đó không lâu. Thoát hiểm trong
đường tơ kẽ tóc.
Lúc ngồi
với nhau, Thanh Tâm Tuyền cười nói. “Biết đâu ngày mai không
phải là chú mà là tôi”. Không phải Nguyễn Ðức Tâm mà là Dư văn
Tâm, tên thật của nhà thơ tự do. Lời nói ỡm ờ này không ngờ lại
đúng một phần. Nếu đúng thật thì quá tội cho tôi. Lúc đọc lệnh
tha cả hai Tâm đều trúng số và thêm Nguyễn Thiệu Hùng, Mai Trung
Tĩnh.
Một buổi
sáng cuối năm lạnh nhẹ và sương mù, bên bờ nhánh sông Thương
hiền hòa, chúng tôi có cả Mai Trung Tĩnh và Thanh Tâm Tuyền,
ngồi tụm hút thuốc. Uống chia nhau gô trà mộc nóng đậm. Ôi tuyệt
vời những giây phút đầu tiên, tạm gọi là tự do, sau bao nhiêu
năm tù đày. Chúng tôi ngồi chờ ca nô xuôi sông Thương, vượt sông
Hồng chở về trại chuyển tiếp Ấm Thượng, xóm nhỏ bên bờ sông
Hồng. Ðể sáng hôm sau đáp tàu hỏa xuôi về Hà nội. Ngày mai ra
sao? Dẹp qua một bên. “Sung sướng quá giờ cuối cùng đã
hết”(Xuân Tâm)
Mấy toa
tàu cũ kỹ lắc lư chở hơn bốn mươi người được tha từ ga Ấm Thượng
về đến ga Hàng Cỏ, Hà nội. Tất cả được lùa nhốt trong nhà đợi.
Ði tiêu tiểu phải xin phép. Chuyến tàu thống nhất tám giờ tối
nay sẽ trả chúng tôi về miền Nam yêu dấu nay đã đổi chủ thay
ngôi. “Hương âm vô cải mấn mao thôi”. Ngày về tóc đã bạc phai
mái đầu. Tôi được giao nhiệm vụ sắp hàng anh em, điểm số.
“Thưa
cán bộ thiếu mất một anh”. “Bỏ mẹ! Anh kiểm lại xem. Lúc lên tàu
tôi đếm đủ. Không nhẽ rớt xuống đường. Ðếm lại!”. “ Thưa cán bộ
đúng là thiếu một”. “Có biết thiếu ai không?” “Thưa biết”. Ai?”
“Nguyễn Thiệu Hùng”. Tôi vọt miệng nói tiếp “Tôi nghe nói anh ấy
có bà cô ở đối diện ga. Chắc anh ấy tranh thủ ghé thăm. Cán bộ
đừng lo. Ðúng giờ tàu vào Nam chắc chắn anh ấy sẽ có mặt thôi”.
Tôi biết rõ vì trước khi lên tàu Mai Trung Tĩnh có nói với tôi.
“Vô kỷ luật. Ông nại cho vào tù ở thêm cho biết thế nào là nể
độ”. Tên cán bộ răn đe. “Anh đi ngay ra khỏi ga, túm đầu anh ấy
về ngay cho tôi”. “Tôi không rành đường sá, nhỡ lạc không về kịp
chuyến tàu thì bỏ bu”. “Ði. Tôi bảo đi là cứ đi. Ðừng nôi thôi”.
“Hay là cán bộ cho anh Dư Văn Tâm cùng đi. Anh ấy là dân Hà nội
chính cống”. “Ðược. Nhớ tìm được thì về ngay nhé. Khẩn trương!”.
“Vâng!”. Tôi chạy đến chỗ ông Thanh TâmTuyền. “Mình đi thăm Hà
nội ba sáu phố phường”. “Ði thế nào được. Chúng nó giam lỏng”.
“Cứ theo tôi. Thế mới tài!”. Ông không tin. Tôi cười kể cho ông
nghe. Ông vội vã khoác chiếc áo măng tô màu đen. Ðội nón công
nhân kiểu Lê nin. Nón này là bảo vật tôi để lại cho ông kỷ niệm
chia tay. Không ngờ hai anh em cùng được tha. “Anh đem tôi đi
tham quan Hà nội”. “Ông Hùng thì sao?”. “Dẹp qua một bên. Lo bò
trắng răng. Ðến giờ tàu chạy thì ông ấy mò về”.
Thanh
Tâm Tuyền hóa xác. Thường ngày thong thả chậm chạp, giờ đi như
chạy. Ðường phố dường như quá quen thân cho dẫu bao tang thương
biến đổi. Ông bương bả đi trước, tôi chạy theo. Không nói với
nhau nhưng tôi biết ông đang xúc động trở về nơi chốn cũ. Tấp
vào một quán phở bên kia đường để thưởng thức tô phở Bắc chính
hiệu. Gọi mỗi đứa một cốc cà phê. Thế là nhất. Mấy năm đói khát
thèm ăn, tô phở làm chúng tôi thất vọng đã đành mà ông chủ quán,
thuộc loại bộ đội giải ngũ, trong bộ đồ lính củ, lại càng làm
cho tôi phát ngấy. “Phở ở đây mới là phở. Trong lam các anh nằm
sao sánh được”. Tô phở phất phơ hai lát thịt nhỏ, mỏng dính.
Nước dùng bột ngọt đậm chát. “Phét. Chúng mày lấy đâu ra thịt.
Bố khỉ!” Tôi chửi thầm. “Ông đói dài mấy năm còn chả thấy ngon
huống hồ..!”. “Các bác được đảng khoan hồng nhớ về lao động..”.
Tôi nói đểu “Thôi nhờ ông anh tốp lại! Mấy năm nghe chán rồi.
Biết rồi khổ lắm nói mãi! Vào đây đớp phở mì chính (bột ngọt)
chứ không phải nghe ông lên lớp. Tính tiền!”. Ông Thanh Tâm
Tuyền thấy tôi sửng cồ vội vàng đứng dậy ra khỏi quán. Bác
Nguyễn Tuân ơi! Chúng bán Phở Bắc như thế này là chúng nó làm
nhục ông rồi!
Chúng
tôi, những thằng tù khổ sai biệt xứ mới được thả, đi giữa đường
phố Hà nội trong túi cũng su hào rủng rỉnh. Ðã gần mười năm toàn
thắng thế mà những bộ đồ lính, tấm vải dù làm võng, của chúng
tôi đem theo từ ngày Sài gòn thất thủ vẫn còn là món đồ đắt giá
hợp thời trang. Dân Hà nội chen lấn qua song cửa nhà ga tranh
nhau mua. So với tô phở giá năm đồng, chiếc áo lạnh áo jacket
nhà binh tôi bán bảy trăm. Miếng vải dù tưởng vất đi cũng có
người mua đến chín chục.
Ông
Thanh Tâm Tuyền dẫn tôi đi như chạy trên Phố Thuốc Bắc rực mùi
cao đơn hoàn tán, lần đến ngôi nhà cũ nát tường vôi loang lổ.
Căn phố hẹp tối tăm, nhiều gia đình cùng ở, ngăn chia nhau bởi
những tấm màng vải nhàu bẩn. Người cô già mù lòa vẫn nhận ra
tiếng nói của đứa cháu sau bao năm trời chia cách. Ôm chầm. Cô
khóc, cháu sụt sùi. Và tôi, người chứng kiến những giây phút cảm
động nhất của một cuộc kỳ ngộ, bước ra hàng hiên lau vội nước
mắt.
“Anh đưa
tôi đi xem Hồ Hoàn kiếm và phố Hàng Ðào” Từ giã người cô ra khỏi
nhà, tôi đề nghị. “Thong thả”. Ông chận bà già bưng mẹt bán bánh
giầy kẹp chả chiên. Món ăn đã biến mất trong trí nhớ của tôi.
“Cho chúng cháu hai cái”. Ông thích thú nói với tôi. “Ăn đi. Ðặc
biệt Hà nội”.
Ði qua
những con đường loang lổ rêu phong, dễ chừng từ thời Pháp thuộc
đến nay chẳng hề tu bổ. Nước cống rãnh tràn ướt lối đi rác bẩn.
Những ngày giáp tết, đường phố chen chúc bụi bặm người lam lũ,
xám xịt. Nam nữ áo quần bộ đội, dép nhựa nón cối. Ôi! Ðâu Hà nội
dáng kiều thơm của Quang Dũng? Ôi! Ðâu áo dài tha thướt, đâu tóc
dài thả gió lê thê của nhạc sĩ Hoàng Dương, Anh Bằng, Vũ Thành?
Và rồi phố Hàng Ðào với những thiếu nữ khuê các của Nhất Linh,
của Khái Hưng? Trước mắt tôi chỉ là một phố nhỏ lạc hậu so với
Saigon thân yêu của tôi mười năm trước đó. Hình ảnh sau cùng đổ
vỡ thảm thương trong mơ tưởng của tôi. Hồ Gươm! Một vũng đọng.
Tháp rùa! Rêu bẩn, trơ trẽn phất phơ một ngọn cờ.
Cám ơn
Mai Trung Tĩnh. Nhờ ông tôi có dịp thăm Hà nội và TTT trở lại cố
đô”.
Sàigòn, ngày về...
Dù trăm nghìn vất vả, lo sợ và bất an, chúng tôi vẫn có những
ngày tháng nhàn rỗi. TTT thời gian này không giao thiệp tiếp xúc
nhiều. Bạn bè hay lui tới với anh chỉ năm, ba. Anh thân với
người anh thích. Một phần bản tính, một phần vì an toàn cho bản
thân. Tên anh trong bìa đen Biệt kích văn nghệ của chính quyền.
Nhất là khoảng sau ngày đầu tháng 5, 1984 ngày nhà ông bị bất
thần khám xét, phải trình diện Phòng Chính trị công an Thành phố
cùng lượt với sự bắt giam trở lại các văn hào kẻ sĩ Doãn Quốc
Sĩ, Hoàng Hải Thủy..., ca sĩ Duy Trác. Tôi mừng vì không tin
rằng anh thoát khỏi trại giam thêm nhiều năm như các anh đó.
Nguyễn
Ðình Toàn, Ðinh Cường, Phan Lạc Phúc, Cung Trầm Tưởng là những
khuôn mặt thân quen tới lui. Anh qua tôi hay tôi qua anh. Uống
trà, cà phê anh pha lấy hoặc ngồi ở mấy quán cóc mọc lên như nấm
quanh Gia định, Tân định. Tôi và anh cũng thỉnh thoảng ghe thăm
anh chị Nguyễn Sĩ Tế, Doãn Quốc Sĩ.... nhất là từ khi anh NST bị
đau mắt. Có khi cùng nhau lên quán sách của anh Phạm Kiều Tùng
bên ngoài nhà thờ Huyện Sĩ, tìm sách cũ và cà phê tán dóc. Những
khi rủng rỉnh thì ghé trước chợ Tân Ðịnh mua hai cái croissant
nóng giòn thơm lựng mùi bơ Bretain, ghé quán nhâm nhi cà phê đen
đặc đến trưa. Nhưng giây phút đó quả là hạnh phúc. Ðủ lãng quên
đời.
Anh Mai
Thảo và các bạn bè thân quen đang ở nước ngoài liên lạc giúp đỡ.
Tôi biết anh đã từ chối không nhận $50 đô của một thi sĩ gửi cho
và nhờ anh Mai Thảo trả lui với lời cám ơn. Ðang lúc nghèo túng,
anh cũng chỉ nhận sự giúp đỡ của bạn bè chí thân. Ngày được giấy
tờ đi Mỹ, tôi đi với anh qua Bệnh viện Nguyễn Văn Học, nhờ em
của anh Dương Nghiễm Mậu, đang làm ở phòng quang tuyến, rọi phổi
để có gì lo chữa chạy kịp khỏi trì hoãn ngày lên đường. Phổi anh
tốt.
Ði Mỹ
Nhờ anh
vợ, phi công, qua từ 1975 bảo lãnh, tuy đi theo diện H.O. nhưng
ưu tiên đi trước vào năm 1990. Ðến Baton Rouge, New Orleans. Nơi
cư trú của anh vợ. Họa sĩ Ngọc Dũng ân cần mời gia đình về với
anh ở Washington D.C. anh từ chối và sau đó quyết định về cùng
con. Cháu Quang Tuệ vượt biên qua trước đang ở Minnesota, nơi
anh chị Cung Tiến, bạn thân của TTT, chưa có con, nhận Tuệ làm
con nuôi. Việc làm nhân nghĩa của anh chị đã được đất trời đền
đáp. Năm sau anh chị sinh con đầu lòng, cháu Ðăng Quang.
Cũng cần
nói thêm, đi ở tù cũng có số là cái chắc (!) Ngày Saigon sụp đổ,
Họa sĩ Ngọc Dũng rũ anh cùng đi Mỹ. Anh không đi được vì vợ đang
có bầu. Ðứa con út của anh, cháu Trung Từ, ra chào đời đúng 9
giờ sáng ngày tan hàng 30 tháng 4. Con chưa kịp đầy tháng thì bố
đi tù. Tôi đang viết bài này cũng đúng ngày 30 tháng 4, ba mươi
hai năm sau.
Coi lại
Với tài
năng, Thanh Tâm Tuyền đã có một vị trí trân trọng trong văn học
Việt nam. Ðặc biệt về trào lưu thơ được gọi là thơ tự do. Người
yêu chuộng, nghiên cứu và phê bình về văn học đương đại của Việt
nam nhất là giai đoạn khởi sắc của Miền Nam 54-75 không thể
thiếu ông. Toàn bộ tác phẩm của tác giả cần được tập trung lưu
giữ đã đành mà cuộc đời của tác giả cũng trở thành đối tượng cần
thiết để đối chiếu về mặt ảnh hưởng trên sự nghiệp sáng tác.
Người cùng thời, kẻ quen người biết ông rồi cũng lần lượt theo
ông. Cho nên, nhiều người đang cố nhớ ghi lại những điều được
biết về ông. Ý kiến có khác biệt, nhưng sự kiện là điều có thể
kiểm chứng. Chỉ với mục đích đó, trong khả năng hiểu biết của
mình, sau khi đọc nhiều bài viết về Thanh Tâm Tuyền những điểm
sau đây nên coi lại.
-
Trong phần đưa tin về cái chết của TTT, nhiều báo có ghi rằng.
Sau khi tù cải tạo về ông có thời gian đi làm ruộng ở Phước Tuy,
Bà Rịa.
TTT chưa
hề đi ra khỏi Sàigon cho đến ngày đi Mỹ.
- Ông
lấy vợ là người đẹp ở Bình Dương. Lấy ông vì yêu thơ ông.
Chị
Thanh Tâm Tuyền, tục danh là Cao thị Mai Hoa, người gốc Cần thơ
theo gia đình lên Saigòn. Chưa ở Bình Dương ngày nào. Học trường
Tây Michelet. Ông Diệm dẹp trường Tây. Chị vào Trung Học Nguyễn
Bá Tòng, học đệ tứ chương trình Việt. Gặp thầy dạy Việt văn Dư
văn Tâm. Bị thầy đì vì không rành văn chữ Việt. Ý thì có mà
chính tả quá bết. Lúc đó cô nữ sinh Mai Hoa mới tròn trăng mười
sáu. Thầy hơn trò đến mười tuổi. Với tuổi đó và trình độ việt
ngữ như thế, chắc không cách nào mê được thơ đếm số cửa sổ “ Một
cửa sổ, hai cửa sổ...” (Tôi Không Còn Cô Ðộc) của thầy Tâm. Sau
đó thầy dần dần mê trò. Câu chuyện tình đẹp này, đầu đuôi có một
người biết rất rõ... nhạc sĩ Cung Tiến. Ðộng viên nhập ngũ Thủ
Ðức, 1963. Ra trường. Gia đình đi hỏi. Phong tục, lễ nghi Bắc
Nam có khác. Ba chìm bảy nổi. Cuối cùng đẹp đôi. Ðám cưới ngày 4
tháng 7, 1964.
”Liên,
đêm, mặt trời tìm thấy”, tác phẩm xuất bản đánh dấu ngày vui
này. Có người quyết đoán, Liên là tên một người yêu của nhà thơ.
Theo TTT giải thích. Liên chỉ có nghĩa là liên khúc của thơ và
thơ xuôi trong tác phẩm. Ngày cưới vơ mà lấy tên người yêu cũ
đặt cho quà cưới của mình thì có nước... đi thăm Bùi Giáng. Theo
chị Mai Hoa, anh là mẫu người chồng, người cha lý tưởng. Dạy con
rất nghiêm. Không nịnh vợ. Ðúng sai rõ ràng. Ðiều này chắc chúng
ta, những ông chồng, khẩu phục, tâm phục! Như bao nhiêu gia đình
khác, anh cũng mất một đứa con trai trên đường vượt biên.
Thơ của
TTT thường đề tặng bạn hữu. Ðặc biệt tặng cho vợ chỉ có hai bài
Thơ tình
trong tù. (1980) “Vẫn em của thuở trăng nào Ðêm hôm nở đóa
chiêm bao xanh ngần Vẫn em tình của trăm năm Ðoan trang khóe
hạnh thâm trầm dáng thơ Vẫn em mối kết thiên thu Vẫn em xoa dịu
sầu tư cõi này”.
Sáng sớm
mồng một Tết 1984. Ông bảo vợ pha trà thơm để ông đọc tặng bài
thơ đầu năm.
Xuân
tứ (1984). “Cỏ hoa thầm thì hát Ngoài vườn trăng đêm nay.
Xuân ngàn mùa vẫn một Hương sắc không hề phai. Sư trôi chảy mãi
thật Tình đơn sơ còn đây. Ôi nỗi niềm bát ngát Thủy chung nào
vơi đầy.”
Theo ông
làm thơ dễ hơn viết văn. Ông thích làm thơ hơn là viết văn.
- Một
đôi điều thắc mắc nhân đọc đến một bài viết về TTT của Văn
Quang, nhà văn quân đội quen thuộc trước 1975, nay còn trong
nước. Ðọc được trên web site Gio-o.
Trích:
...
Khoảnh khắc đáng nhớ nhất là lần cuối cùng gặp anh cũng là
ngày anh được tha ra khỏi trại cải tạo Vĩnh Phú, vào khoảng năm
1982. Anh ghé vào khu nhà giam tôi đang sống, anh hỏi. “Có trà
ngon không, mang đãi khách. Bây giờ anh là tù, tôi là người
ngoài tù”. Tôi gật gù...
Tôi
không còn nhớ chắc Văn Quang có chung trại khi chúng tôi được
tha hay không. Nếu có chăng (?) thì việc TTT đến thăm VQ và nói
những lời như trên đây khó có thể được. Thứ nhất. Như đã nói ở
trên, TTT trước ngày đọc lệnh tha hoàn toàn không biết có tên
mình nên mới nhờ tôi lén mang những bài thơ về. Bữa cơm tưởng là
chia tay nhau hôm đó ,Ô gồm có TTT, tôi và người học trò cũ anh
rất thương mến, Nguyễn Văn Thích. Khi qua Mỹ anh làm một bài thơ
rất dài tặng tôi, trích đăng trên báo Văn 26. “Ăn tết với Nguyễn
văn Thích” “...Nhớ chứ, nhớ chứ Nguyễn văn Thích, Ðừng để
riêng ta cái nhớ dai, Cái nhớ thầm thì những khuya khoắt...”
Thứ hai.
Sau khi đọc lệnh, ai được tha tức khắc được ở khu riêng, không
được tiếp xúc. Như chỗ tôi và gia đình biết, trước như thế nào
tôi không rõ, nhưng sau này TTT không quá thân với Văn Quang,
bản tính lại cẩn trọng không hồ đồ, không dại gì xé rào, hy sinh
tấm giấy ra trại của mình để sang thăm VQ. Ðã không quá thân
tình, lại sợ làm nản lòng người ở lại, như VQ viết, thì việc đòi
hút thuốc, uống trà và ăn nói như trên, khó có thể xẩy ra với
TTT.
Trích
tiếp :
“Thanh Tâm Tuyền tên thật là Dzư Văn Tâm, sinh ngày 13-3-1936,
có bạn ghi ngày 15-3-1935, tôi lại nhận được một nguồn tin khác,
anh sinh năm 1934, do chính TTT tiết lộ với một số bạn bè khi
ngồi ở nhà hàng La Pagode”
Giấy
khai sinh cũ, rách, gia đình còn giữ được cho đến bây giờ. Cô mụ
Nhự, làm chứng khai sinh, ghi rõ không gì bàn cãi. Dư văn Tâm
sinh ngày 13 tháng 3 năm 1936.
Tóm
Tuy đã
cố nhớ để viết những điều về TTT, nhưng chắc chắn cũng lắm điều
chưa rõ. Lắng nghe và đón nhận những bổ túc, sửa đổi cần thiết.
Thúc đẩy của văn hữu. Khuyến khích của anh Lê Tất Ðiều. Tin cậy
của gia đình TTT. Tôi đã qua được sự ngại ngùng. Và sau cùng,
như nén tâm hương gửi anh, về những ân tình và kỷ niệm, nhân
Chung thất 49 ngày anh mất.
Chicago,
ngày Chung thất
9 tháng 5, 2006 |