1.
Trên bàn thờ Phật hương tàn đã lâu. Hai cây nến đỏ cháy cũng gần
hết. Anh sáng lung linh mờ ảo trên mặt tượng Phật. Ẩn hiện nét
cười hiền, siêu thoát. Ðiện Phật tĩnh lặng. Lẩn quất thanh thoát
hương trầm, hương huệ trắng.
Trời đã khuya.
Sư Tuệ Trí tọa thiền bất động chừng đã lâu lắm. Hai hàng nước
mắt lăn dài trên má. Những giọt nước mắt tưởng đã khô cạn từ lâu
lắm. Trước ngày xuất gia, những nhục nhằn cay đắng, buồn đau khổ
lụy của đời, chưa hề làm cho sư ứa lệ.
Lần sau cùng sư khóc là ngày được tin mẹ mất. Và nay chỉ những
khi nhớ đến me, với tất cả dạt dào thương cảm lẫn với niềm ray
rứt ân hận, không được cận kề ngày mẹ bệnh, mẹ mất để săn sóc
báo hiếu. Chỉ những khi nhớ đến những ngày mẹ con gần gũi bên
nhau. Chỉ những lúc quỳ gối trước bàn thơ,ợ quán niệm danh hiệu
Phật để cầu cho mẹ. Chỉ những lúc đó, Tuệ Trí mới rơm rớm khóc.
Thế mà những ngày gần đây, một người phụ nữ khác đã làm Tuệ Trí
ứa nước mắt dễ dàng mỗi khi hình dung đến. Những giọt nước mắt
cưu mang nỗi đau đang cuồn cuộn trong lòng Tuệ Trí. Lồng ngực
nặng nề như muốn vỡ tung. Tâm thần động loạn rã rời. Bao nhiêu
công phu thiền tập giờ đã vô dụng. Những câu thiền chú và quán
niệm trở thành nhạt nhẽo vô nghĩa. Tuệ Trí không theo dõi được
hơi thở để tâm mình vắng lặng, trong sáng như trước đây .
Cầm tà áo tràng nâu sồng lên lau khô nước mắt. Tuệ
Trí sửa lại thế ngồi, thẳng lưng tập trung nhẩm tụng thiền chú.
Thời gian lặng qua. Dù nhất tâm quán chỉ, Tuệ Trí vẫn bị vọng
tưởng lôi kéo suy nghĩ miên man và khẽ gọi tên người thiếu phụ.
Sư bỗng lại thấy mình ứa nước mắt. Tràn trề đau khổ. Gục đầu
thổn thức. Nước mắt rơi ướt đẫm trang kinh. Tuệ Trí thờ thẩn
đứng dậy. Vội vàng đảnh Phật. Nhìn dáo dát sợ có người bắt gặp.
Chánh điện vẫn tĩnh lặng. Cây nến trên bàn thờ tắt ngấm từ lâu.
Tượng Phật đã lẩn vào bóng tối dấu đi nét bao dung trên khuôn
mặt đấng Từ bi.
Cúi đầu đi thẳng vào hậu liêu. Cởi vội chiếc áo
tràng. Tuệ Trí lên giường nằm, lâm râm niệm Phật, cố đi vào giấc
ngủ. Nhưng nét mặt thiếu phụ nhất là ánh mắt nhìn, nụ cười, một
cái gì đó mông lung bàng bạc cứ lãng vãng trong tâm trí. Sư
không thể nào chợp mắt.
Chuông
chùa thong thả đổ báo thời công phu sáng. Tuệ Trí mệt mỏi gượng
ngồi dậy lẩm nhẩm. “Lại một đêm mất ngủ!”
-oOo-
Tám năm trời thanh thảng trôi qua. Từ ngày Tuệ Trí
được sư cụ Tuệ Giác nhận làm đệ tử, vào chùa xuất gia tu học.
Trình độ tri thức, phong cách chững chạc, những kinh
nghiệm thực tế đau thương phi lý của cuộc đời và nhất là ý
nguyện tu học đã giúp Tuệ Trí tiến nhanh trên đường tầm đạo. Tuệ
Trí đã tìm được sự tĩnh lặng an trú, quên đi những phiền trượt
của cuộc đờiợ sóng gió trước đây. Một đôi khi nếu có nhớ lại thì
cũng thoáng qua mà không để lại bất cứ muộn phiền oán trách nào.
Sư đã hiểu được cái nghiệp mình phải trả cho những điều dây dưa
từ thuở kiếp nào.
Tuệ Trí
mãn nguyện đã tìm đi đúng đường. Ðúng lúc để được thỏa mãn những
thao thức bẩm sinh về tâm linh, tri thức. Giờ đây Tuệ Trí lại có
đủ điệu kiện lăn xả vào hạnh nguyện bố thí. Quên mình. Giúp
người. Giúp đời.
Sự việc hôm nay đến với Tuệ Trí căn nguyên từ một
hạnh ngộ tình cờ.
Cách đây
mấy năm, một ngày cuối hạ. Tuệ Trí xuống làng để cùng dân chúng
thu dọn một khu nhà đổ sập sau cơn bão rớt trái mùa. Dân làng
thân quen gần gũi với sư, không những bởi tấm lòng từ bi xả thân
vì mọi người, mà còn bởi tư chất thông minh hiểu rộng, lại rất
hồn nhiên vui đùa dí dỏm. Ðiều này ít có ở giới tăng ni, thường
đạo mạo, thích được cung kính hay được khúm núm vái chào. Tuệ
Trí được người già tin cậy, người trẻ thân tình và trẻ con quấn
quít.
Hôm đó,
vừa lui cui dọn dẹp, Tuệ Trí lại vừa pha trò làm cho lũ thanh
niên cười ngặt nghẽo. Ai nấy hăng hái làm quên mệt. Ðang lúc
ngước đầu chùi vội mồ hồi giỏ giọt trên trán, Tuệ Trí chợt thấy
một thiếu phụ trung niên phúc hậu, đang vỗ về an ủi một gia đình
buồn rầu vì cơ nghiệp bị thiên tai cuốn sạch.
Thoáng
nhìn khuôn mặt nàng, Tuệ Trí bỗng thấy xao động sững sờ. Tưởng
như gặp một người thân yêu đã từ lâu xa vắng. Sư cũng thoáng
thấy trong đôi mắt người lạ một thoáng xao xuyến kỳ lạ nào đó mà
sư chỉ cảm nhận. Không giải thích được. Tất cả chừng như thoáng
nhanh trong một sát na.
Từ đó
đến chiều Tuệ Trí ở trong một tình trạng mâu thuẫn. Khổ tâm. Một
mặt muốn lẩn tránh điều mà sư linh cảm như một nghiệp chướng bất
ngờ đưa đẩy đến. Mặt khác lại bị thôi thúc bởi một động lực vô
hình mạnh mẽ. Muốn nhìn lại khuôn mặt, mới lần đầu gặp gỡ mà
dường như đã thương yêu gần gũi lâu đời. Có lẻ thiếu phụ cũng ở
trong cùng tâm trạng. Những lúc vô tình gặp nhau trong sân làng,
cả hai lúng túng. Nhìn vội nhau. Ngoảnh mặt đi cố tránh.
Chiều
đến, lúc chia tay mọi người, Tuệ Trí gặp nàngỳ đầu hiên nhà.
Nhìn nhau. Cả hai chẳng nói với nhau lời nào. Dù chỉ là lời từ
biệt thường tình. Nhưng. Ánh mắt ! Như xuyên suốt tận cõi lòng
âm u.
Ðêm đó.
Tuệ Trí đã thêm vào khóa kinh nhật tụng, lời sám hối những vọng
tưởng si mê.
Chống đỡ
lẩn tránh. Hôm sau lấy cớ mệt, Tuệ Trí nhờ một sư đệ xuống làng
thay mình. Quá trưa, sau giờ thọ trai của tăng chúng, Tuệ Trí
bồn chồn thấp thỏm đứng ngồi không yên như có điều gì thôi thúc.
Xế chiều, lòng nóng như lửa, Buông xuôi. Viện cớ phải xem xét
công việc bỏ dở hôm qua, Tuệ Trí lấy nón vội vàng xuống núi.
Thật ra
chùa chỉ nằm trên ngọn đồi không cao lắm nhưng tách biệt với xóm
làng. Sáng chiều, tiếng chuông chùa quen thuộc êm ả ngân vang
lan tỏa tận cuối thôn. Tuệ Trí qua cửa tam quan ngôi cổ tự, lần
theo mấy chục bậc cấp. Theo con đường sỏi đất đo, đến làng.
Thấy sư,
mọi người chào hỏi tíu tít thân tình. Công việc dọn dẹp cũng đã
tạm xong. Tuệ Trí cố nhìn quanh tìm khuôn mặt người thiếu phụ
hiền hậu. Tìm hoài chẳng thấy. Buồn bã. Thiếu vắng. Sư chậm
bước, về chùa. Vừa đi vừa quán chỉ hành thiền. Cố xua đuổi phiền
nảo chợt đến mà sao nặng nề.
Kể từ
hôm đó. Thỉnh thoảng trong giấc mơ, Tuệ Trí bất chợt thấy rõ
khuôn mặt của người phụ nữ, dù chưa hề quen mà đã làm sư vấn
vương khó giải thích. Tình cảm thương yêu và nhớ nhung vừa gây
men hạnh phúc cho con tim ứa tràn sức sống, lại vừa làm cho sư
mang một nỗi buồn cháy ruột. Sư chú tâm vào công phu tu tập.
Dành thì giờ lăng xả vào công việc từ thiện. Công việc bận rộn
đầu tắt mặt tối cũng giúp cho Tuệ Trí khuây khỏa. Tưởng chừng
như đã quên được bóng dáng thương yêu.
-oOo-
Mấy
tháng nay chùa lập thêm một trạm xá cho dân chúng quanh làng.
Tuệ Trí được sư phụ Tuệ Giác giao phó trông coi. Sư
bàng hoàng. Vui mừng mà cũng thấy lo vu vơ, khi biết được trong
những người làm công quả có Nhân Ai. Người thiếu phụ sư đã tìm
cách quên đi. Chỉ sau một thời gian ngắn, Tuệ Trí nhận ra tên và
người tưởng như là một. Như thực và ảnh trước tấm gương soi.
Nhân hậu và đơn giản. Nhân hậu với mọi người và đơn giản khiêm
tốn trong cung cách sống. Ðiều này chỉ có thể có với những người
có một đời sống nội tâm phong phú, đã hiểu được giới hạn của
những phù du và lẽ vô thường.
Nhìn
Nhân Ai săn sóc người bệnh, an ủi người già cả ốm yếu tật nguyền
hay vỗ về vui đùa với trẻ nhỏ, Tuệ Trí xúc động thật sự và có
một niềm thương phục. Một nguồn cảm thông chỉ có giữa những
người đồng điệu, biết quên mình vì đồng loại, Những người nếu
chưa vươn tới được cái tâm của Bồ Tát thì cũng đã vượt qua cái
nhỏ nhen ích kỷ thường tình. Những người mà quanh họ dường như
như tỏa trùm một không khí đầy tình thương, tạo được giữa người
và người sự tin cậy, thân tình vui vẻ.
Cái duyên hạnh ngộ đã đưa Tuệ Trí đến cái nghiệp yêu thương.
Càng
ngày Tuệ Trí càng thấy không thể cưởng chống lại một tình cảm
sâu đậm nhớ thương cuồn cuộn dấy lên trong lòng mình. Một trạng
thái tình cảm chưa hề kinh nghiệm dù đã trải qua đời sống chồng
vợ trước khi vào chùa. Tuệ Trí bắt đâu cảm nhận những kỳ diệu
của tình yêu và những xót xa của một nỗi buồn quay quắt lúc xa
vắng. Sư cầu nguyện, trì tụng kinh chú và thiền định để tâm vắng
lặng, trong sáng, thảnh thơi. Tất cả dường như bất lực.
2.
Sư cụ trụ trì Tuệ Giác gần đây nhận thấy có một sự
bất an nào đó thể hiện qua thái độ bồn chồn và nét mặt đau khổ
cố che đây của trưởng tử. Người mà sư cụ rất thương yêu tin cậy
và có ý định truyền y bát trước khi viên tịch để kế tục cai quản
chùa. Thay mình hướng dẫn tăng chúng tu học.
Chiều nay, gặp Tuệ Trí trên hiên chùa, sư cụ nhỏ
nhẹ. “Con theo ta.” Nói xong, lặng lẽ chống cây thiền trúc chậm
rãi đi trước về phía sân chùa. Nơi có những cây thông lâu niên,
hàng dương liễu vi vu trong gió chiều. Tuệ Trí thấp thỏm cúi
đầu. Nặng nề bước theo chân thầy.
Qua khỏi
sân chùa, hai thầy trò đến khu bảo tháp nơi cất giữ nhục thân
các vị trụ trì quá vãng. Khu tháp sạch sẽ và thoáng mát. Ngồi
xuống trên tảng đá dưới gốc thông già, sư cụ chỉ tay cho đệ tử
ngồi cạnh.
Tuệ Trí
linh cảm điều nghiêm trọng. Nhìn nét mặt, thấy thầy mình bình
thản tự tại nên cũng vơi nỗi lo.
“Tuệ Trí con. Ta thấy con có điều gì bất an nên âu
sầu ủ rũ?”
Cúi mặt xuống đất để tránh ánh mắt sư phụ. Biết
không thể che dấu. Và thật lòng chẳng có điều gì muốn dấu sư
phụ. Tuệ Trí ngập ngừng.
“Dạ...Dạ thưa thầy có.”
“Con nói cho ta nghe. May ra, ta có cách gì giúp
được con hay không?”
Ngẫng
đầu, rụt rè nhìn sư phụ. Thấy người đang nhìn với ánh mắt đầy
thương yêu, Tuệ Trí hết ngại ngùng. Kể lại cho sư phụ từ đầu mối
tình vọng tưởng. Nỗi đau chất chứa và tâm thần động loạn bất trị
hiện nay.
Sư Tuệ
Giác lắng nghe. Tiếng gió chiều và tiếng thông reo đã lấn tiếng
thở dài nhẹ, buồn, của vị tăng già luống tuổi. Tuệ Trí hồi hộp
chờ đợi.
“Mô Phật. Ta hiểu và không trách mắng gì con.”
“Cám ơn thầy. Con biết mình phạm tội và phụ lòng
thầy nhưng con không thể nào kiểm soát con được nữa. Con...Con
thật cố hiểu mà không thể hiểu được!”
Tuệ Trí thổn thức.
Ðặt tay bóp nhẹ vai đệ tử, như chuyền thêm nội lực
và tình thương. Thông cảm. Sư Tuệ Giác trầm giọng
“Ta hiểu
được!”
Tuệ Trí
ngạc nhiên nhìn thầy.
“Ta
nghĩ. Ngay lần đầu gặp gở con đã bị động tâm. Chẳng qua vì Nhân
Ai có nét mặt rất giống con. Thầy cũng đã tự hỏi phải chăng hai
đứa này là anh em hay sao mà có những nét giống nhau ?”
Tuệ Trí
thoáng giật mình, xúc động. Việc này tưởng chỉ mình biết. Ðâu
ngờ sư phụ cũng đã theo dõi và cố tìm cho ra một lời giải thích.
Thấy đệ tử nhìn mình với đôi mắt mở lớn, Sư Tuệ Giác
mĩm cười:
“Này con! Chúng sinh dù nam hay nữ, may mắn được
sinh ra với dung nhan đẹp đẽ tuấn tú hay không may có bộ mặt
chẳng dễ coi, có khi tật nguyềnànhưng chẳng ai ghét được mặt
mình. Ngày ngày nhìn ảnh mình trong gương soi, tất cả nét hình
của mình dội vào tiềm thức ghi dấu và tích lũy âm thầm ở đó. Cho
nên giữa đám đông người xa lạ lại có cảm tình quyến luyến đặc
biệt với một người nào đó, cho dù người này không đẹp không
duyên dáng bằng những người khác. Chẳng qua dưới tác động của
tiềm thức, ta có khuynh hướng tìm về những nét thân quen. Con
chỉ thấy Nhân Ái một lần rồi đem lòng thương yêu. Tưởng nhớ quay
quắt. Bởi vì.. Bởi vì con đã gặp lại...chính mình!”
Tuệ Trí im nghe sư phụ giải thích. Lắc đầu nhè nhe.
Nghi ngờ
“Thưa thầy! Ðiều nay cũng có lý phần nào. Con thấy
nhiều cặp vợ chồng quả có khuôn mặt hao hao giống nhau.
Nhưng...Nhưng...”
Thấy đệ tử còn có vẻ nghi ngờ, sư cụ nói thêm
“Cũng có thể trong một kiếp nào đo, con và Nhân Ai
đã là anh em gần gũi thân thiết. Những kinh nghiệm và hành động
trong quá khứ đã hằn sâu trên hành trình của tâm thức. Ðến kiếp
này khi điều kiện cho phép, như sự gặp gỡ tình cờ của chúng con,
thì một động lực chuyển vào tâm trí thúc dục con có tình cảm yêu
thương và ước mong gần gũi.”
Tuệ Trí trầm ngâm. Ngước nhìn thầy. Giọng man mác
buồn
“Thưa thầy. Nếu như con thương hình bóng con, đó là
tình cảm giữa hai anh em và cùng lắm là hai anh em sinh đôi, đâu
đến nổi si tình không chống đỡ được!”
Sư cụ Tuệ Giác cười nhẹ khó hiểu. Chống gậy. Run run
đứng lên. Tuệ Trí bật dậy đỡ thầy.
“Cứ để mặc ta. Ta còn khỏe lắm, chỉ muốn đi một vòng
cho dãn gân cốt.”
“Hay con đưa thầy về chùa nghỉ?”
“Không. Không. Thầy vẫn muốn vẫn thích nói chuyện
với con. Con cứ nói hết ra đi. Chỉ khi nào nhận ra được nguyên
nhân của khổ lụy thì mới đoạn trừ khổ lụy.”
“Bạch sư phụ. Thầy cũng đã dạy cho con biết tâm thức
vốn vô thủy vô chung. Không bắt đầu mà cũng không chấm dứt.
Không được tạo ra hay hủy diệt mà chuyển hóa không ngừng. Thân
xác con và Nhân Ái chỉ mang tâm thức được tái sinh của một ai đó
trong tiền kiếp. Và nếu như vậy chúng con không thể là anh em
hay bạn hữu vì kinh nghiệm của tâm thức về tình cảm anh em không
thể giống như tình yêu trai gái. Mà thưa thầy...trường hợp của
con...”
Tuệ Trí ngập ngừng rồi ấp úng thú nhận:
“Trường hợp của con...là một khao khác yêu đương.
Mong nhớ nóng cháy tâm can.”
Sư cụ Tuệ Giác quay người nhìn thẳng mặt đệ tư. Cười
lớn:
“Vậy thì kiếp trước hay một kiếp xa xôi nào đó các
con đã là vợ chồng!”
Tuệ Trí vẫn đăm chiêu. Nét mặt nhuốm khổ đau. Bị
khơi lại một dĩ vãng, tưởng chừng đã quên lãng.
“Có thể là vậy. Nhưng trong đời sống vợ chồng thế
gian có bao nhiêu đôi lứa thương yêu nhau thật sự tận cuối đời
để khao khát được gặp lại trong đời sau?”
Sư Tuệ Giác lại cười lớn thú nhận.
“Ðiều này thì thầy không kinh nghiệm. Ta đi tu từ
thuở lên sáu.”
Tuệ Trí
xuống giọng. Tâm sự với thầy mà như nói cho riêng mình.
“Nhiều gia đình trông vào, đôi vợ chồng vẫn chung
sống với nhau. Ðằm thắm hạnh phúc con cháu. Nhưng thật ra. Hoặc
vợ hoặc chồng. Có khi cả hai. Ðều mang một nỗi cô đơn trống
vắng. Thiếu hẳn thương yêu thông cảm, sẻ chia của người bạn
đường. Vì luân lý đạo đức. Vì những ràng buộc hệ lụy kết chằn.
Họ đã nhẫn nhục. Kéo dài cuộc sống không hạnh phúc vì trách
nhiệm, vì quyết định lựa chọn của mình.”
Sư cụ hỏi chận:
“Ý con nói những cặp vợ chồng đó sống với nhau vì
nghĩa. Vì bổn phận. Không phải vì tình. Phải không? Nhưng theo
ta. Ðó là cái cao quý nhất. Bởi vì nghĩa gắn liền với hy sinh.
Chỉ cho, mà không nhận. Và cũng có thể do cái nghĩa vợ chồng
ràng buộc đó từ kiếp nào mà giờ đây các con tìm đến nhau ?.”
Tuệ Trí không trả lời. Biết thầy mình khó mà hiểu được rằng. Yêu
mà chỉ nhận về cho mình không mà thôi, đó không phải là yêu mà
chỉ sự hưởng thụ ích kỷ. Ngược lại yêu mà chỉ cho, chỉ hy sinh
thì đó là một hình thức nô lệ được bào chữa và ca tụng nhân danh
đạo lý. Tình yêu thực sự là một tặng phẩm rất tuyệt vời mà chúng
sinh có được. Vừa nhận lại vừa cho. Tự nhiên không tính toán.
Ðôi lứa cùng chia sẻ hạnh phúc. Không ai phải chịu đựng ai mà
rất cần có nhau. Có được tình yêu, kinh nghiệm được sự kỳ diệu
của nó. Lại được sống với tình yêu. Can đảm giữ được tình yêu.
Trên đời này bao nhiêu người?
Thấy Tuệ Trí không trả lời mà lặng thinh khó hiểu.
Sư cụ kiên nhẫn chờ.
Mặt trời đã gần khuất sau những ngọn tháp, chỉ còn thoi thóp
những tia nắng xiêng khoai. Cũng sắp đến giờ cơm chiều mà câu
chuyện giữa hai thầy trò vẫn còn dang dở.
Tiếng
chuông chiều thong thả vang dội. Phá tan cái tĩnh lặng của chiều
hè và đưa Tuệ Trí ra khỏi dòng suy tư.
“Thưa thầy. Nếu vì nghĩa thì có gặp nhau cũng chỉ là
cái nợ phải lo lắng. Ðó thuộc về cái lý của cái đầu. Chứ đâu có
cái nhớ thương ray rức của cái tình, thuộc về con tim.”
Tuệ Trí dìu sư phụ trở lại chùa. Vừa đi vừa nói,
lòng vẫn nặng nề trầm uẩn
“Thưa thầy. Cơ duyên đưa đẩy để gặp lại người từ
tiền kiếp đã là muôn một hiếm hoi. Vợ chồng thương yêu gắn bó
như người bạn đường, vẫn mong hạnh ngộ trong kiếp sau, lại là
một hiếm hoi khác. Hai cái hiếm hoi cùng xẩy ra thì không thể
nào có được.”
“Như vậy thì theo ta thì chắc chắn ở một kiếp nào đó con và Nhân
Ai là hai kẻ đang yêu nhau ý hiệp tâm đầu. Do một ngang trái nào
đo, có thể là tai nạn hay chiến tranh mà phải chia ly tức tưởi
để lại trong nhau một niềm đau mất mát tận cùng. Kinh nghiệm đó
đã ghi trên dòng tâm thức chuyển di. Qua bao đời bao kiếp các
con đã đi tìm nhau trong vô minh. Vì...Vì chính các con cũng
không biết. Trong mỗi các con hình như mang một nỗi cô đơn khắc
khoải trống vắng. Một khát khao mơ hồ nào đó. Cơ duyên hiếm hoi
diệu kỳ, Các con đã gặp nhau và bỗng phát hiện cái thiếu vắng
mình đang kiếm tìm. Thế nên, mới thấy mà đã yêu nhau và tưởng
chừng đã gần gũi quen nhau biết nhau, ràng buộc nhau từ lâuàlâu
lắm.”
Tuệ Trí
chợt sững người trước cách lý giải của thầy. Thoáng mừng như có
chỗ để bám víu:
“Nếu như vậy con và Nhân Ai đâu có tội lỗi gì. Vì
đây...Vì đây chỉ là cái nghiệp của chúng con.”
Thấy Tuệ Trí hăng hái biện hộ, Sư cụ Tuệ Giác cười
ra tiếng
“Không! Nghiệp chỉ là động lực thúc đẩy. Nhưng hành
động hay không là trách nhiệm do mình lựa chọn. Do trình độ
tĩnh thức.”
Tuệ Trí xuống giọng:
“Thưa thầy. Tình cảm mà mức độ cao nhất là tình yêu
miên man như sông như suối, chảy mãi không ngừng, tuôn tràn như
thác đổ. Có thể nào,Thưa thầy! Có thể nào dùng sự tĩnh thức để
ngăn thác nước ngừng chảy nửa chừng cao?”
Chưa kịp trả lời cho Tuệ Trí, hai thầy trò đã về đến
hiên chùa. Câu chuyện bỏ dở. Ðến giờ cơm chiều. Chúng tăng đã tề
tựu đông đủ và đang chờ sư phụ ở trai phòng.
Sáng tinh mơ hôm sau. Ngoài trời vẫn còn tối đen.
Bên trong chánh diện, đèn nến sáng rực.
Ðến giờ khoá kinh sáng thường lệ. Mọi người nghiêm trang trầm
mặc vân tập quỳ gối tại điện Phật. Sư cụ Tuệ Giác vẫn chưa thấy
bóng dáng Tuệ Trí đâu. Thường ngày Tuệ Trí đến sớm hơn hết để
lên đèn thắp hương, điều khiền tăng chúng. Bao năm nay chưa hề
sai trễ. Nghĩ rằng đệ tử mệt nhọc ngủ quên. Vẫy gọi chú tiểu. Sư
cụ sai chạy vào hậu liêu đánh thức. Một lúc sau chú tiểu hốt
hoảng chạy ra nói nhỏ điều gì với sư cụ. Người vội vả đi về phía
sau chánh điện.
Ðến trước cửa phòng của Tuệ Trí, sư cụ thoáng ngần
ngại rồi đẩy mạnh cánh cửa gỗ vào phòng. Tiếng rít khô khan.
Phòng vắng lạnh. Chiếc áo tràng nâu sồng Tuệ Trí
thường mặc, treo trên cột nhà. Trên chiếc bàn nhỏ, chuổi tràng
hạt, vật bất ly thân, được để ngay ngắn trên cuộn sách kinh đã
gấp lại. Gối mền vẫn còn thẳng nếp trên khung giường nhỏ cuối
phòng.
Tuệ Trí đã bỏ chùa ra đi. Dễ chừng từ
đầu hôm. Lúc trăng vừa mọc. |