Triết học hướng ngoại, hướng về hành động và chân lý thực dụng
hơn là những ý tưởng trừu tượng, đóng vai trò chủ đạo hình thành
nhân sinh quan của người phương tây (hay ngược lại). Từ đó, thúc
đẩy việc chinh phục thiên nhiên ngoại giới, kể cả vũ trụ bao la,
đem lại những tiến bộ sửng sốt về khoa học, kỷ thuật.
Song le, bên cạnh cuộc sống văn minh và sung mãn, người tây
phương, đặc biệt là Hoa Kỳ, đang hứng chịu những khủng khoảng
tinh thần, anh hưởng trầm trọng đến mỗi cá nhân, gia đình và xã
hội. Rõ ràng, văn minh vật chất không phải là đáp số đúng cho
hạnh phúc thật sự của từng con người đơn lẻ, cho sự an bình trật
tự của gia đinh và xã hội.
Từ
thực tế này, người phương tây đang rầm rộ tìm về cội nguồn triết
học nghịch chiều hướng nội, Nội quan và Chủ quan chủ nghĩa
(Immanenism, Subjectivism); tìm đến với đạo giáo đông phương,
đặc biệt là Phật giáo. Ở đây họ tìm thấy lời giải đáp cho những
nan đề của thời đại. Phật chỉ cho họ con đường trở về với chính
mình, làm sáng cái tâm mình để thấy được bản tánh (Minh tâm kiến
tánh), để thấy được Niết Bàn ở đây và hiện tại.
Bởi hiện tượng này, Giáo hoàng Gioan Phao lồ II đã lên tiếng
rằng. Nhân loại (có lẽ ngài muốn nói đến người phương tây) đang
đứng trước ngưỡng cửa của Chủ quan chủ nghĩa và Nội tại chủ
nghĩa.
Cái chung chung là vậy. Trở về với việc trong nhà. Theo cùng số
phận tan thương của đất nước, cùng với mọi người Việt, các bậc
phụ huynh Phật tử hầu như ai cũng đã trải qua một cuộc đời đầy
đau thương sóng gió, gánh chịu và chứng kiến bao nỗi thăng trầm
bể dâu. Từ một đất nước rách bươm, ra đi vì không còn một chọn
lựa nào khác, để đến sống tại những quốc gia giàu mạnh. Với kinh
nghiệm bản thân, họ thấy rằng Phật đã giúp họ có đủ bi, trí,
dũng để đón nhận bất cứ oan nghiệt nào trong quá khứ, thì nay
Phật giáo cũng là đối trọng để giúp cho con cháu mình cân bằng
cuộc sống vật chất xô bồ trên đất nước người.
Thế nhưng việc đem đạo Phật đến với giới trẻ ở hải ngoại khó
khăn gấp bội so với trong nước.
Ở quê nhà, con đường các thanh thiếu niên đến với
Phật không khác lắm so với thế hệ chúng tôi đã đi qua.
Trước đây trực diện với chiến tranh chết chóc; nay lại đối đầu
với phân ly và đau khổ, với đói khát lo sợ, việc tìm đến với tôn
giáo là một nhu cầu tự nhiên. Chúng ta đã tin và sống, hành xử
trong tinh thần Phật giáo theo dấu mòn đưa lối của ông bà, cha
mẹ. Ðạo đối với chúng ta nặng về những ràng buộc tình cảm. Thêm
vào đó tiếng chuông chùa sớm tối, khói trầm hương kinh kệ, ngày
rằm mồng một đi chùa, ăn chay niệm Phật, tất cả là cái nôi đạo
vị nuôi dưỡng tình tự tôn giáo.
Có
thể nói rằng, không có một tôn giáo nào ngoài đạo Phật ở Việt
Nam, nơi mà đa số những Phật tử thuần thành lại có một sự hiểu
biết rất hạn hẹp về kinh kệ, giáo lý. Phật chỉ đơn giản là đấng
từ bi cứu độ. Thuyết nhân quả nôm na là gieo ác gặt ác... Cao
siêu hơn một chút, lý giải sự vô thường, được mất, của cuộc đời
thì đọc câu kinh Bát Nhã được hiểu một cách mơ hồ, “Sắc sắc
không không”. Có mấy ai thông hiểu được sự khác biệt giữa sắc là
không và sắc không khác không! (Sắc tức thị không, sắc bất dị
không)
Từ
thuở ấu thời và mãi cho đến một thời gian dài sau nầy, khi lễ
Phật tụng kinh, chúng ta đều đọc thuộc lòng các bài kinh chữ Hán
được phiên âm Việt. Ví như “Khai kinh kệ vô lượng thậm thâm vi
diệu pháp, bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ”; hoặc “Nguyện thử
diệu hương vân”. Mấy câu này, nhờ Hán và Việt có những chữ tương
tợ nên cũng lờ mờ lõm bõm đoán nghĩa. Ðến như Kinh Bát Nhã Ba La
Mật Ða thì đọc thuộc lòng như cháo, nhưng chẳng hiểu mô tê chi
về một tạng kinh gói trọn triết lý căn bản nhất của Phật giáo
đại-thừa. “Cố tri bát nhã ba-la-mật-đa, thị đại thần chú, thị
đại minh chú”. Khó quá! Tệ hơn nữa đọc mấy bài chú phiên âm từ
tiếng Phạn thì mù tịt. Nghĩa đã không thông mà lý do tại sao
phải đọc cũng không hề biết “Hắc ra đá ra dạ da...” hay “Yết đế,
yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế” (!)
Thành thử kinh không có tác dụng giúp cho Phật tử hiểu để tin về
Phật, hoặc truyền đạt lời cầu nguyện, mà chỉ còn là phương tiện
âm thanh để chú tâm mà thôi. Hỏi thử trong chúng ta có bao nhiêu
người đến với đạo Phật qua ngỏ tri thức nhờ được nghe các “thời
pháp”, như giới trí thức phương tây tin nhận Phật giáo qua các
thiền sư Suzuki, Nhất Hạnh và Ðạt Lai Lạt Ma.
Vì
ràng buộc với đạo nặng về tình cảm, thế nên, cũng dễ hiểu nếu
một Phật tử từ bỏ đạo để rửa tội theo người yêu, thành chồng,
thành vơ.ỳ Tình cảm yêu thương đôi lứa, sức mạnh của tình yêu đã
mạnh hơn tình cảm tôn giáo bản thân. Họ không có căn bản Phật
pháp lý luận triết học, tri thức cần thiết để bám víu cho đức
tin của mình.
Chúng ta chẳng những thiếu nhiều giảng sư, tăng sĩ và cư sĩ uyên
thâm được đào tạo, mà lại còn thiếu nhiều Kinh sách Việt ngữ
giản dị, trong sáng và dễ hiểu.
Từ
thế kỷ thứ hai Việt Nam tiếp nhận Phật giáo qua hai ngỏ. Nam với
ngài Ma Ha Kỳ Vực và Khương Tăng Hội (Ấn Ðộ); Bắc với ngài Mâu
Bác (Trung Hoa) để từ đó hình thành Phật giáo Tiểu Thừa (Nam
Tông) và Phật giáo Ðại Thừa (Bắc Tông). Nhưng hầu hết kinh sách
lại được dịch từ tiếng Trung Hoa phương Bắc, chứ không phải từ
tiếng Sanskrit hay tiếng Ấn ở phương Nam. Ðiều này dễ hiểu, vì
nước ta tuy tiếp nhận nhiều nguồn văn hóa khác nhau, nhưng văn
hóa Trung Hoa qua ngàn năm lệ thuộc, có một ảnh hưởng sâu đậm
nhất trên bình diện tổng quát và đặc biệt về Phật học. Ðây nếu
là điều thuận lợi cho tổ tiên chúng ta khi học Phật, nhưng lại
là điều bất lợi cho chúng ta khi sử dụng kinh sách dịch hiện
nay. Vừa tối nghĩa vưà rườm rà.
Phải chăng các thế hệ tổ tiên và ông cha chúng ta vì am hiểu và
tinh thông chữ Hán, trực tiếp qua kinh sách bằng tiếng Trung Hoa
nên có cái may mắn tiếp cận với Phật giáo chính xác hơn chúng
ta?
Lịch sử Việt Nam đã trải qua những giai đoạn phát triển rực rỡ
gắn liền với thời hưng thịnh của Phật giáo. Có nhiều lý do để
giải thích. Một trong những lý do đó có phải chăng là vì sự xuất
hiện của nhiều tăng sĩ Phật giáo kiệt xuất đã vận dụng được tinh
hoa triết lý Phật giáo vào đời sống thực tiễn của nhân dân. Và,
nếu họ làm được như vậy vì họ phải là những người thông hiểu và
thực hành Phật pháp một cách rốt ráo. Bên cạnh các thiền sư
Trung Hoa uyên bác như Vô Ngôn Thông, Thảo Ðường, Nguyên
Thiều... khai sáng đạo, kinh sách tiếng Trung Hoa là nguồn cung
ứng về giáo lý. Hai yếu tố này không thể tách lìa với sự phát
triển Phật giáo trong thời đại đó.
Nói như thế vì lịch sử Phật giáo Trung Hoa cho ta thấy họ có
những cơ may vô cùng quý giá. Trước hết, về địa lý, Trung Hoa
nằm cạnh kề Ấn Ðộ là nơi phát xuất của đạo Phật nên các nhà sư
Ấn Ðộ và Trung Á có nhiều thuận lợi để đến truyền giảng chánh
pháp. Kế đến, hầu hết kinh sách Phật giáo được dịch ra tiếng
Trung Hoa từ nguyên bản Sanskrit do bởi các sư tăng Ấn Ðộ hay
Trung Á; thông thạo Sanskrit thì đã đành, các ngài lại vô cùng
uyên bác về Hoa ngữ. Các vị sư tăng này đã cống hiến không những
cho Trung Hoa, mà cho cả các nước chịu ảnh hưởng và xử dụng chữ
Hán như Nhật Bản, Việt Nam, Ðại Hàn, một gia tài Phật học đồ sộ
với khoảng hơn ba ngàn dịch bản trong hơn mười lăm ngàn sách và
cuộn kinh.
2.
Có
lẽ cũng nên lần theo bước chân của các ngài để thấy được sự hưng
thịnh của Phật giáo ở Trung Hoa và các nước vùng Ðông Nam Á
trong đó có Việt Nam, là kết quả tất yếu của công trình phiên
dịch ưu việt kinh sách Phật giáo từ nguyên bản Sanskrit hay Ấn
ngữ.
Có
thể nói một cách tổng quát. Trong thế kỷ đầu tiên của kỷ nguyên
Thiên Chúa giáo đã có lưu hành ở Trung Hoa một số công trình văn
học Phật giáo. Vào đời Hán (58-75), nhà sư miền Trung Á Kâsyapa
Mâtanga và đồng đạo Chu-Fa-Lan vào Trung Hoa dưới triều Ming
Hoàng đế bắt đầu dịch kinh. Vào thế kỷ thứ hai xuất hiện
An-Shih-Kao, một cao tăng thuộc dòng dõi hoàng tộc Parthian,
ngài là một nhân vật vĩ đại nhất trong việc phiên dịch kinh
điển. Ðặc điểm nổi bậc là ngài đã sử dụng ngôn ngữ Trung hoa một
cách chính xác. Lưu loát hùng hồn mà không màu mè tô điểm. Giản
dị mà không thô kệch. Trong thời gian từ 148-170, cùng với 5 vị
tăng xuất sắc khác, ngài đã chú tâm vào dịch thuật. Tác phẩm của
ngài được ca tụng vì sự trong sáng và giản dị.
Nhờ các sư tăng tiên phong này mà thế kỷ kế tiếp Phật giáo Trung
Hoa đã có được hai trung tâm lớn ở Nan King và Wuchang ở miền
Nam. Ở đây, thiền sư Chihch'ien một mình đã dịch trên 49 tác
phẩm. Dưới triều Huang-Wu (224), cùng với Wei Chínan và Chu Lu
Yen, hai nhà sư lỗi lạc đến từ Ấn Ðộ, ngài dịch kinh Dhammapada
được lưu truyền sử dụng cho đến ngày nay. Ảnh hưởng bởi phong
cách thi văn Trung Hoa, thoạt đầu Chihch'ien không hài lòng mấy
với văn phong của hai nhà sư Ấn Ðộ, ngài cho rằng thiếu nét tao
nhã hào nhoáng. Wei Chí Nan đã nói “Ðức Phật đã dạy rằng, tiếp
nhận chân lý không màu mè tô điểm. Những ai truyền giảng kinh
nên làm thế nào cho dể hiểu và đừng để mất đi bất cứ ý nghĩa
nào.” Ðể bảo vệ cho quan điểm dịch thuật của mình, ngài đã dùng
lời của Lão Tử “Lời hoa mỹ thì không chân thật, lời chân thật
thì không hoa mỹ.”
Cuối thế kỷ thứ ba, Phật giáo Trung Hoa lại thêm một cơ may mới
với ngài Dharmaraksha thuộc dòng dõi Trung Á. Gia đình ngài sinh
sống ở Tunghang (Bắc Trung Hoa) nên ngài lấy tên Tàu là Fa-Hu.
Theo đạo Phật từ hồi nhỏ, ngài theo các thầy du hành qua nhiều
nước và học nhiều ngôn ngữ Trung Á, sưu tập 165 tạng kinh. Ngài
đã phải bỏ công nhiều năm sao chép và dịch thuật. Trực chỉ
đến chân lý bằng ngôn ngữ giản dị là đặc trưng tác phẩm của
ngài. Ngài đã có công tạo dựng được ở Trung Hoa một nền
văn học Phật giáo với phong cách mới.
Thế kỷ thứ tư là thời gian hỗn loạn. Chiến tranh lan rộng trên
nửa phần lãnh thổ miền Bắc của Trung Hoa. Giữa cảnh điêu linh
khốn cùng của nhân dân, Phật giáo Trung Hoa do bởi cơ duyên mầu
nhiệm lại nhận được một tinh hoa xuất chúng để giúp cho nền Phật
học đạt đến sự sung mãn. Ðó là Kumârajiva, một người Ấn Ðộ có
trí nhớ siêu phàm. Từ thuở ấu thời ông đi chu du qua nhiều vương
quốc ở Trung Á để tìm học Phật. Bị tướng Lu Kang của Trung Hoa
bắt cầm tù dẫn về Tàu năm 383. Ông ở Liangchou trong 18 năm. Ở
đó ông trở thành lỗi lạc về cả nói lẫn viết tiếng Trung Hoa. Do
tài năng xuất chúng của mình ông được tướng quân Yaohsing mang
về Ch'angan phong làm quốc sư và thúc dục ông phiên dịch các
kinh sách Phật giáo. Kinh Kim Cương, kinh Liên Hoa, kinh Bát Nhã
là công trình dịch thuật của Kumârajiva trong kho tàng vô giá
của Phật giáo Trung Hoa và các nước Ðông Nam Á. Uyên thâm Phật
pháp, thêm vào khả năng siêu việt về cả Sanskrit và Hoa ngữ, đã
giúp ngài hầu như nắm vững trọn vẹn nội dung nguyên bản và
chuyển ngữ gần như vẹn toàn trung thật nhất để đưa những lời
Phật dạy đến thẳng các tín đồ Phật giáo trong đó có các thế hệ
tổ tiên chúng ta. Công trình của các tăng sĩ học giả Ấn và môn
đồ Thích Ca Trung Hoa trên bước đường đầu tiên phổ biến kinh
sách đấy rẫy những sự kiện lý thú, những việc vừa được lược
trích chỉ để đủ trả lời phần nào luận cứ được nêu ra trên đây.
Công trình vĩ đại như vậy thế mà các ngài vẫn không hài lòng về
công việc dịch thuật của mình. Kumârajiva nói : “...khi được đổi
ra tiếng Trung Hoa thì vẻ đẹp sững sốt của nguyên bản đã bị đánh
mất đi. Dù cho cái ý chính vẫn còn giữ lại được nhưng nét lôi
cuốn của bản gốc đã bị gạn lọc. Ðiều này cũng có thể sánh như
nhai cơm để nuôi người khác. Không những cái hương vị đã mất mà
kẻ nhận cơm cũng thấy chán ngấy.” Trước khi nhắm mắt lìa đời
ngài đã thổ lộ nới các tăng sinh và cộng sự rằng, thật ra ngài
đã tiếm đoạt chức năng của một dịch giả; dưới ngòi bút của ngài
chỉ có một trong ba trăm lẻ cuộn kinh là không bị giảm lược thâu
gọn.
Sau cùng là
Huyền Trang, Hsuan-Tang 600-664; còn mang danh hiệu là Tam Tạng
Pháp sư, là người tinh thông cả ba tạng Tam tạng. Một vị Bồ
tác, là nhà chiêm bái và học giả, nhà hùng biện và dịch thuật,
nhà thám hiểm bậc nhất và thiên tài ngôn ngữ...dây là một số
danh xưng thường để nhắc đến ngài.
Theo Tự điển Phật học Đạo uyển. Huyền trang là một cao tăng
Trung Quốc, một trong bốn dịch giả lớn nhất, chuyên dịch kinh
sách văn hệ Phạn ngữ ra tiếng Hán. Sư du hành 16 năm (629-645)
Ấn Ðộ, lưu lại học tại Nalanda và thăm viếng tất cả các di tích
Phật giáo quan trọng. Huyền Trang sinh tại Hồ Nam. Năm lên 13
tuổi Sư đã xuất gia. Sư tu học kinh sách Đại thừa với nhiều
giảng sư khác nhau và thấy có nhiều chỗ giảng giải mâu thuẫn.
Ðây là lí do chính thúc đẩy Sư lên đường đi Ấn Ðộ để tự mình tìm
hiểu. Năm 629, Sư rời Trường An. Năm 631, Sư đến Kashmir, năm
633 mạo hiểm tìm đến các dấu tích Phật. Sau cùng tìm đến đại
học Phật giáo Na-lan-đà. Hai năm sau, Sư rời Na-lan-đà đi Tích
Lan, rồi lại trở về Na-lan-đà học tiếp triết học Ấn Ðộ. Danh
tiếng của Sư lừng lẫy, nhiều vua chúa mời Sư giảng dạy. Năm 645
Sư trở về Trường An và mang theo 520 bộ kinh sách của Tiểu thừa
và Ðại thừa về Trung Quốc (Trong lời tựa của vua Đường Thái Tông
giới thiệu tác phẫm Đại Đường Tam Tạng Thánh giáo ghi là 657
bộ. NĐT). Những năm sau đó, Sư tập trung dịch kinh và dịch được
75 bộ. Vì thông cả văn hệ Phạn ngữ (sanskrit) nên Sư cũng dịch
ngược lại Ðạo đức kinh của Lão tử và Đạ i thừa Khởi tín luận (s:
mahāyānaśraddhotpāda-śāstra) sang Phạn ngữ (vì nguyên bản Phạn
đã thất truyền). Ðặc điểm của các bản dịch của Huyền Trang là
trình độ văn chương rất cao và rất chính xác. Sư là người có
công trong việc đưa vào tiếng Hán một loạt thuật ngữ Phật giáo
quan trọng.Vào thế kỉ thứ 16, dựa vào chuyến Tây du của Huyền
Trang, bộ Tây du kí của Ngô Thừa Ân ra đời, trong đó Huyền Trang
có tên là Tam Tạng, mang nhiều tình tiết li kì hấp dẫn người
đọc.
3.
Ngày nay. Tuổi trẻ học Phật thiếu kinh sách dễ hiểu mà đầy đủ.
Cần cả kinh sách song ngữ.
Như vậy tuy tằng kinh sách Phật học Trung hoa đã do những cao
tăng uyên bác hàng đầu dịch thuật từ Sanskrit hay Ấn ngữ, kinh
sách nầy cũng đã mất mát đi khi so với nguyên bản. Thế nên, khi
được dịch một lần thứ hai sang Việt ngữ, tránh sao khỏi thiếu
sót, rắc rối. Khó hiểu cho thế hệ chúng ta, cho giới trẻ, nhất
là ở hải ngoại, là những người không biết được tiếng Hán và cũng
không thông với tiếng Việt, khi đề cập đến các vấn đề thuộc về
triết học và tôn giáo, nhất là kinh điển Phật giáo. Như đã nói ở
trên, trước đây thì kinh được đọc bằng âm Hán Việt, hàng chục
năm nay, với nỗ lực của nhiều chư tăng, kinh đã dịch ra Việt
ngữ. Tuy có dễ hơn song cũng vẫn còn quá khó vì còn có quá nhiều
chữ gốc Hán.
Ta
thử đọc một đoạn dịch ngắn trong kinh Thủy Sám của T.T. Thích
Trí Quang, ấn bản ở hải ngoại năm 1992. “Nổi cái phiền não làm
cho chướng ngại công hạnh tu học, bốn thứ niệm xứ, bốn thứ chánh
cần, năm căn năm lực, bốn thứ thần túc.” Trích bản dịch nầy vì
đây là một bản dịch tương đối giản dị so với các kinh sách được
dịch bởi T.T. Trí Tịnh như kinh Ðịa Tạng, Liên Hoa hay các tác
phẩm khác của T.T. Thiên Hòa, Thiên Hoa. Có bao nhiêu người đủ
trình độ Phật học để hiểu được đoạn kinh bằng chữ Việt này? Có
người lập luận rằng đây là kinh nên phải dịch từng chữ. Muốn đạt
được ý phải được giảng giải thêm.
Thế nhưng, muốn được giảng giải thì, hoặc là đọc sách. Sách đã
hiếm, mà lời sách chú giảng cũng không kém phần rắc rối, khó
hiểu. Hoặc là đến nghe các buổi thuyết pháp .Các buổi thuyết
pháp do các sư tăng uyên thâm hay có trình độ Phật học và trình
độ diễn đạt, thật sự đáp ứng được lòng mong mỏi học đạo. lôi
cuốn được tín đồ, đặc biệt là giới trẻ, thì thật là càng quá
hiếm!
Ở
trong nước, như đã trình bày ở trên, vượt qua các trở ngại này,
tuổi trẻ vẩn tìm đến với đạo qua những ràng buộc tình cảm sẳn
có, rồi từ đó với nổ lực cá nhân và duyên nghiệp với đạo, tự
mình len lỏi trong khu rừng rối rắm vô cùng cao siêu của kinh
điển để tìm học Phật.
Ở
hải ngoại thì như thế nào? Dưới góc độ thực tiễn, Phật giáo rất
cần thiết cho họ.
Marx đã vơ đủa cả nắm khi cho rằng, tôn giáo chỉ là ma túy ru
ngủ, có tác dụng làm tạm nguôi đi, tạm quên đi những khổ đau, cơ
cực của cuộc đời. Tôn giáo không giải quyết căn nguyên của đau
khổ. Qua thực hành Phật pháp, ngay cả trong tuổi thanh xuân chưa
vướng bận nhiều với khổ đau và hệ lụy, không ít người đã thấy
được Ðạo Phật là con dường rốt ráo giải quyết tận gốc khổ đau,
tạo dựng một cuộc sống thật sự an vui, hạnh phúc và yêu đời, yêu
người.
Ðược như vậy vì “Chủ yếu của Phật giáo là vấn đề thoát ly ra
khỏi sự dục vọng, sự sân hận và sự ngu si, chứ không phải thoát
ly ra khỏi cuộc đời.”. Ðây là lời của Mục sư Ken Tanaka, thuộc
viện Ðại học Berkley, người đã nắm bắt được một phần mạch nguồn
của đạo Phật để phản bác quan điểm của Ðức Giáo Hoàng John Paul
II khi đề cập đến vấn đề giải thoát của Phật giáo trong tác phẩm
nổi tiếng và gây sôi nổi “ Bước qua ngưỡng cửa hy vọng “
(Crossing the Threshold of Hope ), rằng “...cái gì, được gọi là
cõi “ Niết Bàn” một trạng thái cách biệt hoàn mỹ với cuộc
đời...” (!)
Giáo sư Phật học Minh Chi nói rõ hơn. Phật giáo không bao giờ
định nghĩa Niết bàn như là một thái độ bàng quan hoàn toàn đối
với thế gian như Giáo Hoàng nói. Niết bàn là từ bỏ Tham, Sân, Si
là nỗ lực tối đa để con người trở thành hoàn thiện, trở thành
bậc Thánh ngay ở thế gian này chứ không phải ở một thế giới nào
khác, tại một tương lai xa xôi nào khác. Phật giáo luôn luôn
khẳng định. Niết Bàn là ở đây và trong hiện tại.
Chẳng phải hiểu nhiều về giáo pháp căn bản của Phật giáo là
thuyết Tương Tức, Tương Nhập (Interdependence), chỉ cần hiểu
được rằng những gì cá nhân trải qua đều do Nhân và Duyên mà tạo
Nghiệp; Nhân Duyên là cội rễ của nghiệp báo, thì người theo Phật
dã chấp nhận cuộc đời một cách tích cực kể cả khi bất hạnh hay
lúc hưng thịnh.
Thêm vào đó, trong một xã hội đề cao sự hưởng thụ cá nhân, dục
vọng được buông thả, luật pháp không thể nào kiềm hãm được những
hành động thiếu đạo đức, lòng tham lam ích kỷ và sự hận thù oán
ghét. Chỉ có luật nhân quả mới hướng dẫn con người làm việc
lành. Việc này không những giúp cho cá nhân, gia đình có được
hạnh phúc mà cộng đồng và xã hội cũng hòa bình, an lạc.
Phần tích cực nhất, trong việc thực hành Phật giáo đã cống hiến
Thiền, một phương pháp tu hành rất hiệu nghiệm. Càng ngày càng
được sự lưu tâm và thu nhận của đông đảo mọi giới ở Âu Mỹ. Nơi
mà hiện nay có tới 500 trung tâm Phật giáo. Một trung tâm lớn
được thiết lập kề sát Tòa Thánh La Mã. Sự kiện nầy Ðức Giáo
Hoàng đã ghi nhận “Phật giáo đến với người của khối Thiên Chúa
Giáo Tây Phương, khuấy động sự chú trọng về phương diện tâm
linh, cũng như trong đường lối cầu nguyện của người Phật Giáo”.
Và. “ Ngày hôm nay, chúng ta đang thấy một sự lan tràn nào đó
của Phật giáo trong thế giới Tây phương”
Ðằng sau sự sung mãn về vật chất và tiến bộ vượt bực về khoa học
kỷ thuật của phương Tây, Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đã thấy được sự
trống vắng cô đơn của mỗi cá nhân, sự khủng hoảng về tâm linh
của họ trên hành trình đi tìm một hạnh phúc đơn giản ở thế gian.
Phật giáo và phương pháp Thiền là đáp ứng vẹn toàn cho sự khắc
khoải đó. Thiền sư Nhất Hạnh cũng đã đóng góp công lao không nhỏ
trong thành quả này.
Ðiều nghịch lý là trong khi đó thì thanh niên Việt Nam, xuất
thân từ các gia đình Phật tử, lại không mấy quan tâm, nếu không
muốn nói là lơ là xa lạ.
Nếu nói việc đem đạo đến với giới trẻ ở hải ngoại, nhất là ở Hoa
Kỳ, khó khăn gấp bội so với ở quê nhà thì lý do ở đâu? ở tự thân
giới trẻ hay tại vì chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn để lôi
cuốn họ?
Ngoài tất cả khó khăn gặp phải như giới trẻ ở quê nhà, ở hải
ngoại họ còn cái mất mát là, chẳng còn hay còn lại rất ít được
ôm ấp trong “cái nôi đạo vị nuôi dưỡng tình tự tôn giáo.”
Ðiều này thật vô cùng quan trọng. Tôi nhớ rất rỏ một kinh
nghiệm, và, trong chúng ta ai cũng sẽ có một kinh nghiệm của
riêng mình, mãi mãi đọng lại trong ký ức, gắn bó mình với đạo.
... Lúc còn là một học sinh, một buổi chiều mùa hè đạp xe lên
chùa Thiên Mụ thăm một người bạn học hiện đang tu ở đó. Chú đang
bận khóa kinh chiều. Ðứng trước chánh điện mênh mông vắng lặng.
Nghe tiếng thông reo rì rào trong gió chiều. Mùi trầm hương
phảng phất. Tiếng mõ, tiếng kinh, trong không gian mênh mông đó,
như vẳng lại từ một nơi nào xa thẳm. Thật lạ lùng tất cả âm
thanh không hề khuấy động mà dường như tăng thêm cái tĩnh lặng
của một buổi chiều. Tôi đã hứng được, đã nắm bắt được cái khoảnh
khắc tuyệt vời đó. Cái khoảnh khắc mà sau nầy, dù theo những kỷ
thuật ngồi Thiền: hít vào, thở ra, nín thở.... tôi chẳng bao giờ
gặp lại được.
Các bạn trẻ đâu có cái diễm phúc của thế hệ chúng tôi hay các
bạn bè cùng lứa hiện ở quê nhà.
Không chùa thử... trở về nhà!
Ở
Việt Nam, nhà nào cũng dành gian giữa hoặc nơi trang nghiêm nhất
để lập bàn thờ Phật và gia tiên. Ngày hai buổi thắp nén hương,
dóng một hồi chuông lễ Phật. Từ lúc sinh ra, đến khi trưởng
thành, từ thời ông bà, cha mẹ đến đời mình, mọi chuyện trở thành
một nếp sinh hoạt thân quen. Do điều kiện nhà cửa sinh sống ở
Mỹ, chuyện thờ tự cũng mất đi vẻ trang nghiêm. Nơi đầu tủ, một
góc nhà, nơi phòng ngủ, dưới basement...
,
tiện đâu thờ đó. Mùi trầm không có, khói hương cũng năm khi mười
họa. Hương cắt ngắn, nhúng nước cho bớt khói, khỏi đen nhà.
Chuông chẳng dám đánh... sợ hàng xóm!
Chúng ta, thời còn nhỏ phải đòi mới được theo cha theo mẹ đến
chùa. Lớn lên chẳng ai thúc hối, không tháng tháng thì cũng
thỉnh thoảng đến chùa lễ Phật. Bây giờ muốn con đi chùa hay dự
các buổi sinh hoạt, thuyết giảng, ngày Tết, ngày lễ, ngày vía...
nhỏ nói đã khó, lớn lên là học sinh, sinh viên lại càng khó hơn.
Ðầu tiên chúng cũng háo hức. Ðược một hai lần bắt đầu thấy nản;
không thoái thác thì cũng lấy lý do bận học, bận làm... để khỏi
buồn lòng cha mẹ. Ði chùa vì cha mẹ chứ không phải vì Phật! Có
đứa than phiền không hiểu được cái thư mời nói gì: “Cung thỉnh
quí vị đạo hữu, chư thiện trí thức quang lâm vân tập”?...
!!! Cha mẹ dịch đại khái ra tiếng Mỹ: “you are warmly welcome!”
Chúng nhe răng cười! Tiếng Việt đâm ra khó hiểu hơn tiếng...
ngoại quốc! Ðến chùa, đến hội, mạnh thầy, thầy giảng, tràng
giang đại hải. Một là quá khó, hai là chẳng ăn nhập gì với ưu tư
vướng mắc của chúng. Ngồi chịu trận, liếc chừng xem cha mẹ có
theo dõi hay không. Tâm trí phiêu bồng theo một câu chuyện riêng
tư, một game đang chơi nửa chừng ở nhà, hay tung tăng lạc bước ở
một Shopping Center nào đó! Ði chùa chỉ còn lại tác dụng ngoài
dự tính, là tập cho tuổi trẻ “kiên nhẫn” và “tròn chữ hiếu”!!!
Kinh kệ sách giảng trong sáng, đơn giản, dễ hiểu đã đành, mà
hình thức thờ tự lễ lạc trang nghiêm, nhưng cũng phải đơn giản.
Sinh hoạt ở làng Hồng của thầy Nhất Hạnh nếu không phải là mẫu
mực thì ít ra cũng là một cách mạng cần thiết nếu muốn giúp cho
tuổi trẻ đến với Phật và sống theo đạo. Do yêu cầu mới, nếu xưa
kia các tăng sư phải thông Hán học thì nay các ngài, các thầy
phải thông Anh ngữ. Ðây là điều hết sức cần thiết. Các em sinh
ra hay lớn lên ở Hoa Kỳ, cho dù gia đình vẫn cho trau dồi Việt
ngữ, các em cũng rất hạn chế về từ ngữ Hán-Việt để hiểu được các
danh từ Phật học. Các em mới sang định cư có khá hơn nhưng cũng
lắm vất vả, truân chuyên.
Chắc chắn nói “Bát chánh đạo”; “Tứ diệu đế” khó hiểu hơn là “The
Eightfold Path” hay “Four Noble Truths”; ”Right Thinking” rõ
ràng hơn là “Chánh Tư Duy”. Cả hai đều là tiếng nước ngoài, có
điều Hán ngữ đã thuộc về quá khứ, Anh ngữ là thứ tiếng đang học
và đang xử dụng. Rất cần thiết có nhiều kinh sách song ngữ, như
đã nói trên. Thêm vào đó, tuổi trẻ ở hải ngoại được hưởng một
nền giáo dục khoa học kỹ thuật cao, các giảng sư nhất định phải
có đủ trình độ và bản lĩnh, cũng như khả năng dùng Phật pháp để
lý giải các nan đề của tâm linh và cuộc sống thực tế. Tóm lại
yêu cầu cho một sư tăng truyền đạo cao hơn nhiều, khó khăn hơn
nhiều so với trong nước.
Vào thập niên ba mươi, bốn mươi ở Việt Nam đã hình thành hệ
thống Khuông hội và Gia Ðình Phật tử. Khuông hội là nơi nương
tựa Phật và pháp cho cư sĩ tại gia và gia đình tận ngõ ngách,
thôn làng. Dựa vào Khuông hội là tổ chức Gia Ðình Phật tử. Qua
hình thức sinh hoạt trẻ trung, sống động G.Ð.P.T. đã giáo dục
thanh thiếu nhi học Phật và sống theo Phật. Ðây là những sáng
kiến tuyệt vời, đúng lúc, hữu hiệu. Ở hải ngoại đang cần những
cải cách sáng tạo có tầm mức như vậy. Gia đình Phật tử nếu muốn
đóng góp trong sự nghiệp giáo dục Phật giáo ở hải ngoại chắc
cũng cần rất nhiều thay đổi cả hình thức lẫn nội dung cho thích
hợp.
4.
Hơn ba mươi năm định cư nơi quê hương mới, thời gian chưa đủ để
cho có một cuộc sống thật sự đầy đủ về mặt vật chất. Tuổi trẻ
Việt Nam ở đây, so với quê nhà thì quả đã hưởng được một cuộc
sống tương đối sung túc tiện nghi hơn, nhưng việc trước mắt của
họ là học, là làm ra tiền càng nhiều càng tốt, cung ứng cho nhu
cầu vật chất càng ngày càng gia tăng. Thời gian bận rộn đầu tắt,
mặt tối đã không còn có lúc cho những suy tư về đạo giáo. Mặt
khác, cuộc sống văn minh vật chất trong thời gian đầu hội nhập
dễ đưa lại cái ảo tưởng là con người chẳng cần với tới những
thỏa mãn xa xôi về tâm linh. Cho đến một lúc nào đó, khi đối
diện với cái cô đơn và dằn vặt như hiện trạng của thanh thiếu
niên Âu Mỹ hiện nay, lúc muốn tìm một sự an vui hạnh phúc thực
sự, các bạn trẻ sẽ tìm về với cội nguồn Phật học. Ngày hôm nay
đã không mời gọi được họ, liệu ngày đó có đáp ứng được không?
Chúng ta đang cần nhiều Ðức Ðạt Lai Lạt Ma và Thiền sư Nhất
Hạnh!!!
Tài liệu trích và dịch :
1/. “Phật Giáo Qua Cách Nhìn Của Ðức Giáo Hoàng”, Lương Minh Sơn
(Người Việt).
2/. “Crossing The Threshold Of Hope”, John Paul I I.
3/. “Chinese Literature”, Ch'en Shou-Yi.
4/. “Phật Giáo Là Gì?”, Ðạt Lai Lạt Ma (Người Việt)
5/
“Vài Nhận Ðịnh...”,
Nhân Tử Nguyễn văn Thọ
“Ðối thoại với Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ II”. Giao Ðiểm -
6/
Tự điển Phật học Đạo uyển |