Tết
muộn
Rất sớm.
Ba giờ sáng ông đã thức dậy.
Chẳng phải vì hôm nay là
ngày cuối của một năm dài. Từ mấy năm này ông ít ngủ. Không cần báo
thức, mỗi đêm tỉnh dậy mở mắt nhìn đồng hồ là đúng ba giờ. Xưa kia
những ngày còn ở quê nhà, đời sống bất an khổ nhọc lo âu, thế mà nằm
xuống là đánh một giấc tới sáng. Qua tới Mỹ bắt đầu khó ngủ. Chẳng
mấy đêm có được một giấc ngủ đầy. Thế mới biết cuộc sống ở đây tưởng
là đầy đủ sung sướng nhưng thật ra căng thẳng mệt mỏi tinh thần và
tổn thương tình cảm. Bây giờ thì quá tệ. Khổ! Già. Ðêm đêm chỉ ngủ
được ba bốn tiếng là cùng. Có đêm thức trắng. Mờ sáng tỉnh dậy thao
thức trăn trở. Ông trời cắc cớ, hành tội mấy người già như ông. Bắt
phải thức. Ðể nhớ để lo. Ðể buồn để tủi. Ðể hối tiếc ray rức trăm
thứ chuyện. Chuyện một đời sắp qua. Chuyện hôm nay. Chuyện con
chuyện cháu. Cũng lạ! Chuyện vui thiếu khối không nhớ, mà chỉ dằn
vặc loanh quanh chuyện giận hờn, phiền muộn lo âu.
“Ba mươi Tết rồi đây.
Chóng thật!”. Tuổi càng già, thời gian trôi càng nhanh. Lúc nhỏ thì
dài cổ mong cho tết đến. Sao mà lâu thế! Giờ đây, ngày tháng xoèn
xoẹt. Ngoảnh đi nhìn lại đã là tết. Còn được mấy cái tết nữa đây.
Ðến tuổi này thì tên đã có sẳn trên danh sách chờ đợi.
Ông bà gọi
lúc nào thì đi lúc đó. Biết đâu?
Ông dậy pha trà. Rỗng
trống. Cô đơn.
Ngày thường thì nỗi cô
đơn cũng đủ làm ông hiu hắt. Nhưng phải vào những lúc như ngày hôm
nay, mới thấy thấm thía tận cùng nỗi đơn lạnh của một người già xa
quê. Nghĩ cho cùng, dù ở lứa tuổi nào, hoàn cảnh nào, thì sự bất
hạnh lớn của con ngưới phải chăng là sự cô đơn? Chỉ mấy năm trước
đây thôi, vợ chồng con cái đầy đủ. Tết nơi quê người tuy nhạt nhẻo
cũng ráng gượng gạo cố níu giữ cho đúng lễ nghi tập tục, nhưng dù
sao thì gia đình cũng còn ấm cúng đông vui. Từ ngày vợ mất, con cái
lớn khôn, đứa có gia đình, đứa làm ăn xa, ông ở chung với vợ chồng
thằng út mới lập gia đình. Hai hôm trước chúng nó lấy ngày nghỉ đi
tránh lạnh ở vùng biển Nam Mỹ. Ở bên mình ngày Tết con cháu rủ nhau
về gần gũi với mẹ cha. Ở đây ngày lễ ngày tết được dịp chúng đi xa.
Cha mẹ càng già thì càng cần, càng muốn gần con gần cháu để săn sóc
và để được hỏi han hôm sớm. Con cái trái lại chẳng muốn gần cha mẹ
già, vướng bận. Chăm lo cho chúng thì chúng lại khó chịu cằn nhằn
cho là lẩm cẩm. Không trách gì con, chẳng qua hoàn cảnh điều kiện
sinh sống trong xã hội này đã tước bỏ một trong những điều hạnh phúc
nhất của cha mẹ già được sống với con với cháu trong những ngày xế
bóng.
Trước khi đi, lo ông già
côi cút một mình trong ba ngày tết, nó đã bàn giao trách nhiệm cho
vợ chồng con chị và thằng anh. “Suốt cả năm tụi em gần gũi và lo cho
ba rồi. Ngày Tết cho tụi em xả hơi. Mấy anh chị thu xếp đem cháu về
chơi, phụ nấu nướng lo cúng rước ông bà chiều ngày ba mươi. Ở chơi
với ba đến chiều mồng một hãy đi. Thức ăn hoa quả tụi em đã mua đủ.
Khỏi lo!”
Hôm nay một mình trong
căn nhà rộng, cũng không cần phải rón rén sợ ồn ào thức giấc tụi nhỏ
đang cần ngủ để ngày mai đi làm. Dọn dẹp bàn thờ, chùi bóng đồ đồng,
lo xếp đặt hoa quả xong thì trời cũng vừa sáng. Qua khung cửa sổ,
tuyết rơi mù mịt. Bánh chưng bánh tét thịt dầm, nhiều thứ ăn đã có
sẵn, nhưng lo con về đến không có thức ăn nóng, ông xuống bếp nấu
nồi cháo gà. Nghĩ cũng lạ. Trước đây ông chưa hề xuống bếp. Chuyện
của đàn bà con gái. Ông thuộc loại dễ nuôi. Vợ cho gì ăn nấy. Ngon
ăn nhiều, dở ăn ít. Không bao giờ chê bai hay đòi hỏi. Ngày ngày
nghe vợ con bàn tán món này món nọ, lâu ngày nhập tâm. Ðến khi vợ
mất con ở xa, ông lò mò xuống bếp cũng nấu cũng nướng. Món canh món
xào món mặn. Ðâu thua ai! Chúng nó ăn, ngạc nhiên, khen ngon. Vợ
thằng út nói. “Má nhập vào ba!”. Ông vui vui thấy mình không đến nỗi
vô dụng. Gần xuống lỗ mơí phát hiện tài năng! Hằng ngày tự lo lấy
thân. Chiều chiều nấu cho con bữa cơm tối. Khi nào thấy ông già mệt
hay muốn đổi món thì tụi nó lấy thức ăn ở tiệm.
Dễ chừng đã
mười một giờ sáng?
Ông thấy đói nhưng chưa muốn ăn. “Ðợi chúng nó về ăn luôn thể cho
vui. Mấy khi”. Từ Michigan về Chicago ngày thường mất khoảng bốn
tiếng, trời tuyết như thế này có chậm lắm thì sáu tiếng là cùng. Hôm
qua chúng dự định đi sớm. Chắc cũng sắp về đến. Có tiếng chuông gọi
cửa. Ông cười. “Tao đoán không sai”. Mở toang cửa, không theo thói
quen nhìn qua lỗ kính nhỏ. Giật mình. Một thằng Mỹ đen to tổ bố chào
và trao gói quà. Tên người nhận là thằng út. Uể oải ký nhận, quay
vào. Sáng giờ chưa ăn gì, uống mấy chung trà ruột gan cồn cào khó
chịu. Xuống bếp định ăn tô cháo. Do dự. Chặc lưỡi. “Thôi. Chúng nó
sắp về tới. Năm hết tết đến. Cố chờ.”
Ðiện thọai reo. Nhanh nhẹn, ông nghe đứa con gái đầu lòng. “ Ba ơi,
con đây. Vợ chồng em con tới chưa? Chưa hả. Chắc vì thời tiết quá
xấu. Nhà chúng nó gần hơn nếu không gọi là sắp đến rồi đó. Bão tuyết
tơi bời. Ðài thông báo trận bão lớn nhất trong chục năm. Tụi con
không đi sớm được, bây giờ mới ra khỏi nhà đây. Tụi con tới trễ. Con
nấu nướng nhanh. Ba đừng lo.”
“Chờ nó tới nấu thì ông
bà đói!”. Bỏ đĩa nhạc xuân vào máy. Giọng ca quen thuộc và những bài
hát cũ ấp đầy nhung nhớ làm ông bùi ngùi. Thoáng chốc, bao kỷ niệm
như hiện rõ. Xúc động rưng rưng chực khóc. Thở dài nuối tiếc, ông
vội vả xuống bếp lo nấu cỗ.
Ðang lu bu thì nghe
tiếng còi xe inh ỏi. “Bây giờ mới đến! Ừ. Cũng còn sớm. Giỏi!”. Vợ
chồng thằng Hân. Ðứa con trai ông thương yêu nhất, lo lắng cho cha
mẹ nhiều. Ngày nó lấy vợ, ông vui vì con có hạnh phúc, nhưng cũng
buồn buồn như thiếu như mất con. Ông vui hẳn lên nghỉ đến đứa cháu
lên ba. Lâu lắm rồi không có dịp cho nó ngồi trên đùi lúc lắc làm
ngựa, cười hăng hắc. Mở cửa nhìn ra sân. Sân nhà trống lạnh. Con
cháu nào đâu? Chưng hửng nhìn chiếc xe nhà hàng xóm kẹt tuyết bấm
còi kêu người nhà. Cả nhà cha mẹ con cái hì hục đẫy, reo cười vui vẻ
nô đùa. Ông tủi thân.
Thất vọng. Mệt. Ðuối
sức. Ngộp thở. “Ngồi nghỉ một chốc lại khoẻ thôi!” Ông tự nhủ. Soải
chân ngồi ngữa trên ghế, mở truyền hình coi trận bóng đá. Chưa nóng
đít ông lại đứng dậy xuống bếp. Bày thức cúng ra bàn . Tươm tất ra
phết. Lòng gà xào miến. Món này thằng rễ thích. Thân gà thì nấu canh
với măng khô. Măng này ngưòi bạn về Việt nam đem qua cho. Món này
thằng Hân cứ nhắc ba đừng quên. Thịt kho nước dừa. Không có món này
là không yên thân với con chị. Dặn đi dặn lại đừng quên làm dưa giá,
nó còn nhắc phải cho nhiều lá hẹ. Dễ ợt. Lại thêm mấy đĩa giò chả.
Bánh chưng dưa món. “Ông bà tha tội. Cúng ông bà mà chỉ chọn những
thứ con mình thích.” Ông cười. Nhìn một lần nữa mâm cúng, xoa tay
mãn nguyện. “Thế là xong. Chỉ đợi chúng nó đến là cúng thôi.”
“Mới đó mà đã bảy giờ
tối rồi!”
Thời giờ đi nhanh thật. Ông bắt đầu sốt ruột. Ðứng ngồi không yên.
Ra vào nôn nóng. Ðiện thọai đến nhà con thì chẳng thấy ai trả lời.
Ông an ủi. “Tụi nó đã đi rồi”. Vừa đói vừa mệt, nhưng chẳng còn bụng
dạ nào mà ăn với uống. Thấp thỏm đợi chờ. Thỉnh thoảng mở cửa nhìn
ra ngoài cầu may. “Biết đâu đúng lúc thấy xe chúng nó đang đi tới”.
Ðể trấn tĩnh, ông đi tới
đi lui. Nhìn bàn thờ hoa trái rực rỡ bày biện đẹp trang trọng. Hai
ngọn nến điện toả sáng. Bình hoa cúc đại đóa vàng rực. Mâm trái cây
sắp xếp mỹ thuật. Mãng cầu dai da còn xanh mướt, trái dừa bóc vỏ
trắng nỏn, đu đủ lớn vàng sậm, mấy trái soài nửa vàng nửa đỏ. Cặp
bánh chưng giấy bạc và mâm mức đủ loại còn nguyên hộp. “ Ðúng là bàn
thờ ngày tết. Thua gì ở Việt nam!” Một vòng phòng khách. Chậu hoa
cúc vàng góc nhà. Cạnh cửa sổ bình hoa cẫm chướng đỏ rực. Giữa nhà,
trên chiếc bàn kính những cành forsythia cắt ngoài hàng dậu từ tuần
trước cắm trong chiếc độc bình cỗ, giờ bắt đầu nở những nụ hoa vàng.
Hằng năm ông chưng forsythia thay mai. Cành hoa thẳng đuột vô duyên.
Nhưng thôi, đừng đòi hỏi quá. Chen vào mấy nhánh hoa, một vài thiệp
chúc tết của bạn bè con cháu, có cái gửi từ bên nhà sang, mấy bao lì
xì treo lòng thòng đầu cành vui mắt. “Lì xì”. Ông mỉm cười hồi tưởng
những ngày Tết xưa cũ. Thích! Thích thật! Mấy tờ giấy bạc mới tinh
còn thơm mùi giấy. Quanh năm dễ dầu gì có. Tha hồ bài bạc, quà bánh.
Ở đây thì khác. Khi còn đi học, con đã làm ra tiền, tiền chúng để
dành nhiều khi còn hơn cha mẹ. Cha mẹ còn dựa vào chúng nó là khác.
Ngày tết lì xì, chúng nhận cho có lệ. Ðâu có được niềm vui hồn nhiên
như mình thuở xưa. Mấy năm đầu mới sang, còn khoanh tay ấp úng chúc
thọ cha mẹ, dần dần chúng cũng cố gắng làm trong sượng sùng giả tạo,
ngượng ngập. Ông thở dài.
Ðiện thoại reo vang. “ Anh chị Hai con cũng chưa đến hả ba?” Tiếng
thằng con trai ngập ngừng. “Ba ơi!... Tụi con... sorry không về
được. Từ sáng đến giờ kẹt xe, cháu nhỏ khóc inh ỏi. Vợ con nói phải
quay về thôi. Ba đừng buồn nghe. Hôm nào tụi con sẽ về thăm ba. Con
sorry. Chúc ba mạnh khoẻ sống lâu với tụi con. Thế là con hụt ăn
canh gà nấu măng khô. Ðừng buồn nghe ba. Con sorry. Sorry!” Ðể giả
lả, vừa cười vừa nói gượng. “Ba nhớ để dành tiền lì xì cho tụi
con!.”. “Cái thằng này vợ bảo sao nghe vậy!”
Ðã tám giờ tối.
Ông diện bộ đồ vét đẹp nhất. Thắt chiếc cà vạt đỏ sậm điểm những đốm
đen. Ông xưa nay ăn mặt rất đúng điệu. Từ ngày qua Mỹ ông thường mặt
bộ vía này vào ngày đầu năm để cúng vái, ngồi cho con cháu chúc thọ
và phát lì xì. Lên hương đèn. Kính cẩn khấn nguyện rước ông bà cha
mẹ nội ngoại và vợ về ăn tết với con cháu. “Tết với nhất. Còn độc
một mình. Con cháu vắng hoe.” Ông thì thầm.
Mỗi lần điện thoại reo, tim ông hồi hộp. Chỉ ngại sợ con gái đầu gọi
về báo trở ngại giờ chót. Giờ này im re thì chắc vợ chồng nó cũng
sắp về đến nơi.
Ông thấy hoa mắt. Sáng
giờ loay hoay không ăn gì. Mà lạ nhỉ, chẳng còn thấy đói. Ráng chờ
con về cùng ăn và đón giao thừa luôn thể. Một năm nhịn một ngày có
khi còn tốt. Mười năm đói dài dài trong trại cải tạo vẫn sống nhăn.
Mười một giờ khuya. Mâm
thức ăn trên bàn nguội lạnh. Ông đã sắp sẵn chén đũa cho năm cha
con. Lấy bớt đi hai. Ðầu năm để chén đủa trống là không nên. Cẩn
thận sắp thật ngay ngắn. Tính ông là thế. Xưa nay ăn uống phải đàng
hoàng lịch sự. Qua Mỹ đã lâu ông vẫn chưa quen được lối “all you can
eat”, ăn mặc sức. Ăn như vậy chỉ cầu no. Ông bảo con. Chúng nó thực
tế hơn. “Ăn no, nhiều món mà rẻ”. Chìu con ông đi theo cho vui nhà
vui cửa. Ông không ưa.
Mỏi mệt và buồn. Buồn!
Cái buồn thắm thiá tận tim gan. Ngã lưng trên ghế theo dõi tin tức
trên đài. Bên ngoài bảo tuyết tiếp tục. Lim dim mắt. Giấc ngủ sập
đến không hay. Ông đi vào giấc ngủ mệt và buồn. Ông mơ trở lại ngôi
nhà xưa với mai vàng và pháo nổ. Lâng lâng trong không khí lãng đãng
mùi trầm hương, vợ ông tươi cười kéo tay khoe ông chồi hoa thủy tiên
trắng ngọc đài cát nở đúng đêm trừ tịch. Ông thấy lòng vui hân hoan
và rộn ràng nô nức như những ngày thơ dại. Ðiện thoại reo không làm
ông tĩnh giấc. Tiếng nhạc, tiếng nói phát ra từ chiếc máy truyền
hình, tiếng ngáy lớn đều đặn của ông, tất cả như khua động sự trống
vắng của căn nhà.
Bỗng có tiếng còi xe
ngoài đường vọng lại, như một lực đẩy vô hình, ông choàng tỉnh dậy,
hấp tấp chạy vội ra mở cửa. Lạnh. Rất lạnh. Tuyết vẫn rơi, rơi liên
tục. Một chiếc xe lạ đã đi khá xa chỉ còn ánh sáng đỏ của đèn hậu
rọi chiếu trên nền đường tuyết trắng ngập. Rùng mình. Thất vọng.
Chán nản. Ông uể oải quay vào.
Nhìn
đồng hồ. “Thôi chết rồi!” Ông ngủ thiếp và giao thừa đã qua. Lần
đầu tiên kể từ khi khôn lớn, đã hơn bảy mươi mấy mùa xuân, chưa đêm
ba mươi nào mà ông không thức đón giao thừa. Lúc còn trẻ thơ thì
quây quần bên nồi bánh chưng, bao nhiêu là chuyện vui, thức đợi để
được nghe tiếng pháo nổ rang đầu đường cuối ngõ. Lớn lên có gia
đình thì ra vào bận rộn lo toan lễ vật mâm bàn cúng vái tổ tiên. Thế
mà hôm nay!
Ðứng trước bàn
thờ cúi đầu thắp nén hương lâm râm khấn vái. ông nghĩ rằng lời khấn
nguyện không đúng vào giờ phút thiêng liêng giao cảm của đất trời
thì chẳng thể nào linh ứng. Mùi trầm hương lan toả trong ngôi nhà cô
quạnh.
Chừng ba giờ sáng
thì hai vợ chồng
người con gái lớn về đến. Tuyết đã ngừng rơi. Sân nhà ngập tuyết xe
không vào được, tấp vào lề đường trước ngõ. Chưa kịp ngừng, người
con gái mở vội cửa, hì hụp lội tuyết vào nhà. “Em! Em! Em! Phụ một
tay đem bớt cho anh mấy thứ lỉnh kỉnh chứ!”. “Anh lo lấy!”. Bấm
chuông. Gọi lớn. “Ba ơi tụi con về tới!”. Không thấy trả lời. “Ba!
Ba!”. Vừa gọi vừa giơ tay đấm cửa. Cửa bậc tung, mất đà suýt ngã.
Cánh cửa khép hờ. Ông già nằm dài trên ghế. “Ba đang ngủ? Ngủ ngon
quá há. Hèn gì ở trạm xăng gọi về không ai trả lời”. Rón rén lại
gần, âu yếm, thương yêu, gọi khẻ. “Ba dậy đi! tụi con về ăn tết với
ba đây nè”. Không động đậy. Linh tính, hoảng hốt, hét lớn. “Ba!
Ba!..”. “Thôi chết rồi! Ba làm sao thế này”. Chạy vội ra cửa khóc
rống. “Anh! Anh! vào gấp. Ba làm sao đây rồi. Trời ơi!”. Người chồng
tay xách nách mang cố nhấc từng bước một trên lối đi phủ tuyết dày.
“Gì thế.?” Thấy mặt vợ, biết có chuyện, thả đại đồ đạc trên bực thềm
xông vào nhà. Sờ tay lên cổ cha. Ðôi mắt lạc thần nhìn vợ. Giọng nói
ướt sũng nước mắt. “Ba... ba... ba mất rồi!”.
Người con gái khóc oà,
sà xuống ôm chặt lấy cha. Tấm thân già còn chút hơi ấm níu kéo.
Dễ chừng ông vừa
tắt thở.
./.
|