Việt Nam và Hoa Kỳ
Bốn mươi năm nhìn lại
Những điều trớ trêu và mỉa mai của lịch sử
Vietnam and the United States of America 40 Years Ago
The Whims and Ironies of History
Nguyễn Xuân Phong
Đôi
lời
vào chuyện.-
Để đánh dấu bốn mươi năm ngày đảo chánh 1.11.1963, Trung Tâm Việt
Nam của Trường Đại Học Texas Tech (Vietnam Center-Texas Tech
University) có tổ chức một cuộc hội thảo quy tụ nhiều nhơn vật
Việt-Mỹ (cộng sản cũng như không cộng sản), phần đông có liên hệ đến
Việt Nam, với mục đính tìm hiểu ý nghĩa đích thực của cuộc chiến
tranh ở Việt Nam và để rút ra những bài học cho hiện tại và tương
lai. Nhơn cơ hội này, ông Nguyễn Xuân Phong, với tư cách là thành
viên của Trung Tâm, có đóng góp một bài tham luận, được đăng trên
tạp chí "Human Rights/Droits de l'Homme", số tháng 9 năm 2003.
* * *
Một
tháng Mười Một tới đây là ngày kỷ niệm bốn mươi năm cuộc đảo chánh
do các tướng lãnh Việt Nam tiến hành để lật đổ Tổng Thống Ngô Ðình
Diệm. Ðể đánh dấu cơ hội đó, Vietnam Center của Texas Tech
University sẽ tổ chức kỳ họp thường niên thứ 10 vào hai ngày 24 và
25 tháng Mười, 2003, với chủ đề "Những bước thăng trầm của Ngô
Ðình Diệm: Ảnh hưởng đối với Hoa Kỳ và Việt Nam". Các cuộc
thảo luận thế nào cũng sẽ làm cho người ta nhớ đến cuộc tao ngộ lịch
sử đầy đau khổ của hai quốc gia và hai dân tộc, có nếp sống khác
biệt nhau quá nhiều và xa cách nhau bằng cả chiều rộng của Thái Bình
Dương...
Thời buổi bây giờ, những người ở lứa tuổi bốn mươi và trẻ hơn còn
nhớ gì nhiều nữa đâu về cuộc chiến tranh Việt Nam, một trong những
thảm kịch tập thể lớn nhứt của thế kỷ thứ XX. Ngay ở Việt Nam, 80%
dân số hiện nay (trên tổng số 80 triệu) chưa tới tuổi bốn mươi. Khi
nói đến chiến tranh ở Việt Nam - một cuộc chiến dường như đã lần hồi
phai mờ vào cõi mịt mù của lịch sử - điều quan trọng nên quan tâm
trước hết là phải nói đến tầm vóc và cường độ không thể tưởng tượng
được của nó.
Không ai còn có thể chối cãi là số lượng chất nổ được sử dụng ở Việt
Nam còn nhiều hơn tổng số bom đạn đã được dùng xuyên suốt trong Thế
Chiến II. Những ước tính thật dè dặt cho biết số người Việt Nam bị
chết trong thời gian một thế hệ chiến tranh, ở Bắc lẫn Nam Việt Nam,
là vào khoảng từ ba đến năm triệu và ít ra cũng có từ mười đến mười
lăm triệu người tàn tật và bị thương, cộng với số thương vong của Mỹ
khoảng 60.000 người chết và mất tích, cùng với 156.000 người bị
thương trong số 2,7 triệu quân nhân nam nữ của Hoa Kỳ luân phiên
nhau phục vụ ở Việt Nam, một đất nước có diện tích rộng lớn chừng
bằng một nửa tiểu bang Texas.
Với con số tổn thất nhân mạng khổng lồ như thế thì Hiệp Chúng Quốc
Hoa Kỳ đã phải gánh chịu một chi phí quá nặng, chính thức là vào
khoảng 150 tỷ Mỹ kim, quy ra thời giá thì cũng phải lên tới 500 tỷ!
Khi nói rằng cho tới ngày nay, chưa có cuộc xung đột vũ trang nào
nặng nề hơn cuộc chiến ở Việt Nam về mặt đau thương, chết chóc và về
số tiền của người nộp thuế mà Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ phải gánh chịu,
thì đó có thể là một lời an ủi khá buồn phiền!
Thông thường, người ta không dễ gì nhớ lại một kinh nghiệm đau
thương của quá khứ mà đầu óc vẫn thanh thảng và lòng không nặng
trĩu. Bao nhiêu thập niên đã trôi qua, thế mà vết thương do chiến
tranh ở Việt Nam để lại vẫn chưa lành được đối với một số người, vì
cảm xúc vẫn còn sống động như tự thuở nào và đôi khi còn bị đắng cay
và hận thù lấn át. Lịch sử thường tạo điều kiện cho người ta rút ra
bài học của quá khứ, nhưng dường như nhiều người, cả Mỹ lẫn Việt,
chưa làm được như vậy với cuộc chiến ở Việt Nam, một cuộc xung đột
rắc rối, lôi thôi, mà có người cho là Chiến Tranh Việt Nam và có
người lại gọi là Chiến Tranh Mỹ ở Việt Nam? Dù cho tên gọi là thế
nào đi nữa, cuộc chiến ở Việt Nam cũng dứt khoát là một giai đoạn vô
cùng bất hạnh trong lịch sử của hai quốc gia Việt Nam lẫn Hoa Kỳ.
Những
thế hệ trẻ cứ tự hỏi không biết một thảm kịch khủng khiếp như vậy đã
bắt đầu như thế nào và không biết làm cách nào mà hàng triệu người
cứ tiếp tục chém giết lẫn nhau lâu dài như thế, thậm chí giữa những
thành viên cùng trong một gia đình. Ðã có hàng nghìn quyển sách nói
về chiến tranh ở Việt Nam và càng ngày càng có những tài liệu mật
kín của nhiều cơ quan chính phủ Mỹ được bạch hóa và công bố, làm
sáng tỏ thêm những điểm khó hiểu của cuộc chiến đó ở Việt Nam.
Thế nhưng, cũng cần thử tìm xem điều gì đã xảy ra ở Việt Nam, khoảng
nửa thế kỷ trước đây, chủ yếu là để giúp những thế hệ trẻ. Và hội
nghị sắp tới của Trung Tâm Việt Nam tại trường Ðại Học Texas Tech,
bàn về Tổng Thống Ngô Đình Diệm của Nam Việt Nam may ra sẽ làm sáng
tỏ được nhiều khía cạnh then chốt của cuộc chiến tranh huynh đệ Việt
Nam và sự triển khai ồ ạt và nhanh chóng chưa từng thấy của hỏa lực
Mỹ.
Cuộc chiến ở Việt Nam là điểm nóng bỏng nhất trong cuộc xung đột
toàn cầu, mỉa mai thay lại mang nhãn hiệu "Chiến Tranh Lạnh". Từ khi
sáng lập ra Tổ Chức Liên Hiệp Quốc hồi 1945, thế giới đã tận tình
tìm cách tự mình thích nghi với một thứ hòa bình trong "Chiến Tranh
Lạnh", nhưng ở Việt Nam dân chúng phải sống qua một thứ chiến tranh
trong "Hòa Bình Nóng", trong vòng ba thập niên... Cho đến hôm nay,
những vấn đề căn bản của chiến tranh và hòa bình mà Tổng Thống Diệm
và các tổng thống Mỹ phải đương đầu, khoảng nửa thế kỷ qua, vẫn chưa
được giải quyết trên thực chất.
Một số người cho rằng chiến tranh ở Việt Nam là một thứ "nội chiến",
khi các thành phần không cộng sản trong lực lượng Việt Minh ý thức
được rằng họ không còn đứng chung với Hồ Chí Minh và đảng cộng sản
của ông ta để cùng chiến đấu chống lại chủ nghĩa thực dân Pháp được
nữa. Sau có vài ba tháng gọi là "liên hiệp" với Hồ Chí Minh để thành
lập một chính phủ ở Hà Nội hồi tháng Chín 1945, những nhóm không
cộng sản đã thấy rõ rằng - đặc biệt là những chính đảng quốc gia
truyền thống như Việt Nam Quốc Dân Ðảng, Ðảng Ðại Việt, nói cách
khác là bất cứ ai không chấp nhận thế lãnh đạo của Hồ Chí Minh và
đồng bọn - sẽ đương nhiên bị loại bỏ bằng cách này hay cách khác.
Thế là, vào cuối thập niên 1940, có một cuộc đấu tranh sống mái giữa
người Việt Nam với nhau, trong tinh thần đó, một cuộc đấu tranh
nhanh chóng bị chìm đắm và dìm sâu vào một cuộc chiến lớn hơn, khi
lực lượng viễn chinh Pháp trở lại sau Thế Chiến II, với sức mạnh
khủng khiếp của Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ, nhờ đó mà đánh bại được Trục
Ðức-Ý-Nhật...
Tháng
Mười Một năm 1963, hai vụ hạ sát của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm lẫn
Tổng Thống John F. Kennedy, xảy ra chỉ cách nhau có hai mươi ngày.
Cái chết của hai ông này là màn giáo đầu cho một thảm kịch chung mà
hai dân tộc Việt và Mỹ phải gánh chịu trong mười năm đăng đẳng sau
đó. Chiến tranh ở Việt Nam ồ ạt leo thang một cách nhanh chóng hồi
năm 1964 và do đó, người ta có thể thắc mắc là liệu Tổng Thống Diệm
và các tổng thống Hoa Kỳ, vào cuối những năm 1950 và đầu thập niên
1960, có thể nào đạt được một giải pháp hòa bình cho cuộc xung đột
không, hoặc giả có tìm được phương thức hữu hiệu nào để đánh bại Hồ
Chí Minh một cách nhanh chóng, hầu ngăn chận tiến trình xâm lược Nam
Việt Nam bằng vũ lực của ông ta hay không? Năm 1963 đó, là thời điểm
có ý nghĩa hơn hết để nghiên cứu hẳn vấn đề căn bản của chiến tranh
ở Việt Nam. Tạm gác qua một bên những cuộc biểu tình của Phật Giáo
và những hoạt động chính trị đối lập khác, chống lại chính phủ Nam
Việt Nam, liệu Tổng Thống Diệm có khả năng gì đương đầu với loại
"chiến tranh nhân dân" mà Bắc Việt áp dụng để thôn tính Nam Việt Nam
hay không?
Tổng Thống Diệm không có cách nào khác hơn là phải đương đầu với
những cái khó khăn quá quắt, ngoài tầm tay của ông. Giữa lúc chủ
nghĩa "quốc gia dân tộc" bùng lên mãnh liệt sau Thế Chiến II ở các
thuộc địa cũ thì ông lại có nhiệm vụ khó khăn là phải làm cho người
ta chấp nhận chủ nghĩa quốc gia Việt Nam qua hình ảnh của một Nam
Việt Nam trong vai trò "Tiền Ðồn Thế Giới Tự Do", với viện trợ và sự
hiện diện của Mỹ. Và Hoa Thịnh Ðốn cũng thấy rõ rằng Tổng Thống Diệm
khó có cơ may trong bất cứ cuộc tổng tuyển cử nào - trung thực hay
bịp bợm sau Hiệp Ðịnh Genève 1954 - đương đầu với Hồ Chí Minh, một
người đã nắm phần chắc là chế độ cộng sản Bắc Việt và lực lượng vũ
trang chính quy của ông - đã từng cho thấy mức độ hữu hiệu của nó
tại Ðiện Biên Phủ - có lợi thế chính trị lẫn quân sự để đem chế độ
cộng sản áp đặt lên toàn cõi Việt Nam bằng cách loại bỏ sự can thiệp
và sự có mặt của Mỹ, cũng như họ đã thành công trong việc đánh đuổi
Pháp trước kia.
Ngay trong khi hành động can thiệp của Mỹ lên cao độ ở Việt Nam, Hồ
Chí Minh và Võ Nguyên Giáp cũng không cần cầu cứu đến quân bộ chiến
của các nước đồng minh hay những quốc gia ủng hộ họ can thiệp vào.
Họ thừa biết rằng làm thế thì họ sẽ thất bại về mặt chính trị, vì
nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới sẽ không thể tin tưởng vào họ
trong một bối cảnh như thế, và họ sẽ không có chút hy vọng gì chống
cự lại sức mạnh của lực lượng Mỹ. Vì lý do đó, thậm chí họ cũng
không nhờ không quân yểm trợ để phụ lực với quân lính của họ trên
chiến trường.
Nhờ lịch sử trớ trêu nên Hồ Chí Minh đã làm cho người Việt Nam chấp
nhận được chủ nghĩa cộng sản như bộ phận gắn liền với chủ nghĩa quốc
gia dân tộc, trong cuộc chiến đấu chống lại sự hiện diện và hành
động can thiệp của ngoại bang ở Việt Nam. Nhưng cái độc đáo của ông
Hồ Chí Minh là đã du nhập và tiến hành một loại chiến tranh đặc
biệt, cái gọi là "chiến tranh nhân dân".
Ðó
là hình thức chiến tranh toàn bộ, kết hợp chính trị, ngoại giao và
quân sự với nhau, mà vẫn áp dụng những hành động chiến đấu quy ước
và khuynh đảo, xóa bỏ bất cứ
sự
phân biệt
nào
tách
rời
quân sự với
dân sự. Mọi người đều là chiến sĩ, kể cả trẻ con và người già, và
vận dụng mọi hình thức chiến đấu kể cả việc đánh bom các rạp chiếu
bóng và nhà hát, thủ tiêu xã trưởng và viên chức chính phủ, cũng như
ám sát các nhân vật quan trọng. Ngày nay, những hành động này cũng
đã trở nên quá phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới.
Các chuyên viên sẽ tiếp tục nghiên cứu cuộc chiến tranh ở Việt Nam,
và một ngày kia sẽ tìm được đáp số cho loại "chiến tranh toàn bộ"
đó, một cuộc chiến tranh chủ trương huy động rộng rãi dân chúng, làm
cho họ trở thành vừa là chiến sĩ vừa là nạn nhân vô tội, vừa là mồi
nhử vừa là con tin trong cuộc chiến đấu chống lại kẻ thù. Thái độ
phủ nhận hoàn toàn sự khác biệt giữa quân và dân trong chiến tranh -
như Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp đã áp dụng một cách triệt để - là
yếu tố chiến lược quan trọng nhất trong chiến tranh ở Việt Nam, mà
cũng là một thách thức to lớn nhứt đối với căn bản của nền tảng luân
thường đạo lý bên thế giới văn minh. Vấn đề đau lòng xót dạ này vẫn
chưa được giải quyết và càng ngày càng tiếp tục trở thành phổ biến
trong những cuộc xung đột vũ trang ngày nay.
Trong cuộc chiến ở Việt Nam, kỷ thuật và khoa học của chiến tranh đã
được cải biến và đem áp dụng vào những chi tiết hành quân bé nhỏ
nhứt. Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp đã áp dụng rất tài tình, mà cũng
hết sức tàn nhẫn, ý niệm "chiến tranh toàn bộ" đó, thường được gọi
một cách thô thiển là "chiến tranh du kích" với bản chất "đánh rồi
bỏ chạy" của nó. Muốn đương đầu với hình thức chiến tranh toàn bộ,
các chuyên viên quân sự cho rằng cần có từ chín đến mười quân lính
mới loại được một chiến sĩ du kích, chẳng khác gì nhiệm vụ của cảnh
sát viên rượt đuổi một tên giết người hàng loạt đang đào thoát!
Khi chiến tranh ở Việt Nam lên cao điểm nhất vào những năm
1968-1969, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa với khoảng một triệu quân,
cùng với năm trăm nghìn quân bộ chiến Hoa Kỳ, cũng chỉ đạt được tỷ
lệ 4,5 chống 1 và không thể chiến đấu mà không có không quân yểm
trợ. Tuy nhiên, dù cho Hoa Kỳ sử dụng không lực một cách ồ ạt, ngoài
sức tưởng tượng, cũng không mấy hữu hiệu để ngăn chận đà xâm nhập
liên tục của hàng trăm nghìn quân lính và chiến cụ từ Bắc vào Nam
Việt Nam...
Nhất định là Tổng Thống Diệm có biết được những khía cạnh đó trong
cuộc xung đột ở Việt Nam, tuy nhiên cho đến giờ phút cuối cùng của
cuộc đời, ông đã cố gắng tránh việc đưa quân lính Hoa Kỳ một cách ồ
ạt vào Nam Việt Nam và tránh "quốc tế hóa" cuộc xung đột ở Việt Nam,
mặc dù đã thừa biết rằng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa hồi đó không
ngang sức bao nhiêu với quân đội nhân dân của Giáp.
Ngoài ra, từ năm 1945 đến 1963, các Tổng Thống Truman, Eisenhower,
Kennedy và Johnson của Mỹ không thiết tha lắm hoặc không hào hứng
với ý kiến đưa quân bộ chiến Mỹ vào Việt Nam. Rất tiếc, Tổng Thống
Diệm không còn sống để chứng kiến cuộc chiến tranh leo thang nhanh
chóng và khủng khiếp từ năm 1964 đến 1968, với nửa triệu lính Mỹ mà
Tổng Thống Lyndon Baines Johnson đã gởi tới Nam Việt Nam.
Phần
lớn người Mỹ và dân chúng trên thế giới cứ nhớ rằng cuộc chiến tranh
ở Việt Nam là cuộc chiến tranh của Johnson, nhưng trường hợp của
Tổng Thống Johnson quả là một điều mỉa mai của lịch sử. Tại phiên
họp ngày 3 tháng Tư, 1954 do John Foster Dulles - lúc bấy giờ là Bộ
Trưởng Ngoại Giao của Tổng Thống Dwight D. Eisenhower - triệu tập,
Lyndon B. Johnson, với tư cách là lãnh tụ Thiểu Số Thượng Viện,
không mấy tán thành việc Mỹ đơn phương can thiệp vào Việt Nam để cứu
nguy cứ điểm Ðiện Biên Phủ, dù cho chỉ dùng lực lượng không và hải
quân, một ý kiến do Ðô Ðốc Arthur Radford, Chủ Tịch Ban Tham Mưu
Liên Quân, đề nghị, nhưng không được một tướng lãnh cao cấp nào của
Ngũ Giác Ðài tán thành. Lúc bấy giờ, chính Phó Tổng Thống Richard
Nixon là người đồng ý đánh Tướng Giáp và quân sĩ của ông một trận
nên thân và điều này chắc chắn có thể thay đổi được vận mệnh của
Việt Nam và Mỹ rất nhiều. Thế là LBJ và bảy lãnh tụ Thượng và Hạ
Viện có mặt tại phiên họp yêu cầu Foster Dulles phải huy động "đồng
minh" - ngày nay gọi là "cộng đồng quốc tế" - trước khi Hoa Kỳ làm
điều gì ở Việt Nam. Một lần nữa, nghe giống như những gì đã xảy ra
hồi gần đây... Về phần Richard Nixon thì số mệnh đã định rằng ông
phải chờ mười lăm năm nữa mới trở thành tổng thống Hoa Kỳ và rút hết
nửa triệu quân Mỹ về, thay vì đưa họ sang Việt Nam.
Vào lúc Tổng Thống Diệm từ trần hồi tháng Mười Một 1963, Hà Nội đã
tăng cường các hành động quân sự quy ước rồi, đã đẩy mạnh những hoạt
động khuynh đảo, phá hoại và khủng bố ở Nam Việt Nam và mở rộng cuộc
xung đột Việt Nam về mặt chánh trị và ngoại giao trên trường quốc
tế. Ðối với nhiều người thì đã rõ ràng là các chánh phủ ở Hoa Thịnh
Ðốn và Sài Gòn không có khả năng vô hiệu hóa kẻ thù, bảo đảm an ninh
cho nhân dân ở Nam Việt Nam, và Thế Giới Tự Do không có cách nào để
đương đầu một cách hữu hiệu với loại chiến tranh mà
"Bắc-Việt-cộng-sản" đang tiến hành chống lại
"Nam-Việt-Nam-quốc-gia", theo cách gọi thông thường thời đó.
Tổng Thống Diệm biết rõ rằng ông phải thành lập một quân đội Nam
Việt Nam có khả năng chận đứng các cuộc tấn công quân sự quy ước của
quân đội chính quy Bắc Việt. Có một quân đội hữu hiệu không chưa đủ,
Tổng Thống Diệm còn phải đương đầu với những hành động khuynh đảo đa
dạng nhằm phá hoại khả năng và quyền lực của chính phủ ông. Ông dư
biết rằng chế độ chính trị của ông có tồn tại được hay không là tùy
thuộc rất nhiều vào khả năng của ông để thu phục được con tim và
khối óc của nhân dân Việt Nam, chống lại chuyện Hồ Chí Minh tự cho
mình là đại diện duy nhứt của chủ nghĩa dân tộc, của tính độc lập,
của chế độ công bằng xã hội và của nền thịnh vượng ở Việt Nam.
Tổng Thống Diệm và đồng minh Hoa Kỳ của ông đều đứng vào một vị thế
là phải làm sao để có được sức mạnh mà đánh phá, chiếm giữ, bình
định, đem lại tự do và hình thành chế độ dân chủ, tôn trọng nhân
quyền, làm cho kinh tế phát triển và xã hội tiến bộ, cho nhân dân ở
Nam Việt Nam. Ðối với phần đông chúng ta - người Việt, người Mỹ và
những người khác - đã từng sống qua những năm dài chinh chiến ở Việt
Nam, từ những năm 1950 đến những năm 1970, thì những gì đang xảy ra
trên thế giới ngày nay, đặc biệt ở Trung Ðông hiện giờ, cho thấy
dường như nhân loại vẫn tiếp tục gặp phải những vấn đề đẫm máu của
chiến tranh như ở Việt Nam khoảng nửa thế kỷ qua, cũng chính những
phương trình phức tạp đó mà chưa có đáp số nào hữu hiệu.
Hầu như hằng ngày, đầu óc chúng ta cứ đầy dẫy những thứ "đã từng
thấy rồi", và chúng ta bị bắt buộc phải nghĩ rằng "vật càng đổi, sao
càng dời thì mọi chuyện đều y như cũ", dù cho nhiều người đầy thiện
chí đã cố gắng tìm cách giải quyết những vấn đề vô tận về chiến
tranh và hòa bình, dựa trên những lập luận quá nhàm tai về quyền
giết chóc để sống còn, để tăng tiến tự do dân chủ chống lại cố chấp
và áp bức, để bảo vệ phẩm cách và quyền con người chống lại hành
động dã man hay cái ngớ ngẩn của mọi dạng độc tài, cực quyền và
chuyên chế...
Ðã nhiều phen, khi không còn chung sống được qua hiểu biết và nhân
nhượng lẫn nhau, bằng rộng lượng và thông cảm thì lúc nào người ta
cũng chọn thứ ngôn ngữ của vũ khí, từ búa rìu bằng đá thời nguyên
thủy chí đến bom hạt nhân tiên tiến của ngày nay. Một khi cố gắng
thuyết phục và can gián không xong thì những người chủ động cho rằng
mình có cái quyền ghê gớm là tiêu diệt, dù cho một vài người cứ nhứt
định là phải giết hại một cách văn minh trong khi những người khác
lại không mấy quan tâm đến hoàn cảnh của con người khi phải chết đi.
Người ta lúc nào cũng có thể lý luận về mặt phải mặt trái của chiến
tranh và thiên hạ lúc nào cũng lý luận, nhưng các cuộc tranh cãi như
thế thường là trừu tượng và tình hình phức tạp đâu vẫn còn đó để
cuối cùng lại đi đến những hậu quả chết chóc. Vã lại, cho dù với lý
do gì đi nữa thì hành động chém giết nhau thực ra cho thấy, trước
nhất, một sự phá sản tệ hại của trí khôn con người, một tình cảnh
bất lực vì không đưa ra được một giải pháp tích cực và xây dựng để
tránh cảnh chết chóc và hủy diệt.
Bạo động bao giờ cũng được tiến hành một cách nhứt định là đau lòng,
thường nhơn danh Thượng Ðế hay César, hoặc nhơn danh cả hai. Hành
động chém giết, trước tiên, như là một vết thương tự mình tạo ra,
hoặc có thể nói là một dạng giải phẩu hay cưa cắt một bộ phận nào đó
trên cơ thể để hy vọng cứu chữa được toàn bộ thân xác. Không một ai
muốn ca ngợi chiến tranh, nhưng chiến tranh là một thực tế bất biến
của cuộc sống hàng ngày, dù thế nào cũng cần được biện minh bằng
cách này hay cách khác cho phải lẽ, trong phạm trù của một triết
học, của một hệ tư tưởng hay của một lý thuyết nào đó, mà con người
không ngừng truyền bá.
Nói cho đúng ra, cả nhân dân Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ lẫn năm vị tổng
thống Mỹ kế tiếp nhau, đã liên hệ đến hành động can thiệp vào Việt
Nam của Mỹ từ những năm 1950 đến 1970, đều không muốn hoặc thậm chí
không nghĩ rằng cuộc thập tự chinh của Hoa Kỳ để mưu tìm tự do và
dân chủ ở vùng đất Việt Nam xa xôi kia lại có thể biến thành một
thảm kịch khủng khiếp đến như thế của nhân loại.
Trận chém giết ở Việt Nam đã bắt đầu vào giữa những năm 1940, khi
Thế Chiến II sắp chấm dứt, và vào một thời điểm mà phần lớn dân
chúng Hoa Kỳ thật ra chưa biết Việt Nam nằm nơi nào trên bản đồ thế
giới. Lúc đó, mọi người thiết tha hy vọng sao những sự khủng khiếp
của Thế Chiến II, với năm mươi triệu người chết, không thể và không
nên được tái diễn nữa và cũng là lý do để cho Tổ Chức Liên Hiệp Quốc
được thành hình nhanh chóng, với vài khó khăn, nhưng cũng khá nhanh
chóng.
Một lần nữa, cũng qua cái mỉa mai thông thường của lịch sử, chính
một người Mỹ, ông Franklin D. Roosevelt (FDR), một vị tổng thống vĩ
đại và một con người nhất quyết toàn tâm toàn ý làm cho thế hệ mai
sau khỏi
phải
gánh chịu những
tai họa
của
chiến tranh. Ông phấn đấu mạnh mẻ để hình thành Tổ Chức Liên Hiệp
Quốc cho đến ngày cuối cùng của đời ông hồi tháng Tư 1945, nhưng
không có được niềm vui sướng để biết rằng Tổ Chức Liên Hiệp Quốc sẽ
hình thành hai tháng sau khi ông qua đời, với việc phê chuẩn Hiến
Chương Liên Hiệp Quốc tại Hội Nghị San Francisco ngày 26 tháng Sáu,
1945.
Niềm vinh hạnh được chứng kiến phái đoàn Mỹ ký tên vào Hiến Chương
Liên Hiệp Quốc thuộc về nhân vật kế vị FDR, ông Harry S. Truman,
người đã tuyên bố là tổ chức quốc tế mới mẻ và đầy thiện ý này phải
làm sao cho thế giới đừng khiếp sợ chiến tranh nữa. Thế mà chỉ có
bốn mươi hôm sau, vào hai ngày 6 và 8 tháng Tám, vị tổng thống mới
của Hoa Kỳ, ông Harry S. Truman, đã cho ném hai quả bom nguyên tử
mới của Mỹ xuống Hiroshima và Nagasaki, rồi Nhật Bản phải đầu hàng
không điều kiện vì chiến tranh đã trở nên khủng khiếp không sao nói
được. Thế là, lần đầu tiên bóng ma chiến tranh xuất hiện để cho nhân
loại thấy cái hình dáng khủng khiếp nhứt của nó, qua hàng hàng lớp
lớp người chết và hàng loạt hủy diệt, không sao tưởng tượng được...
Nhưng kỳ lạ thay, điều thuận lý đôi khi tương đối bị đảo ngược, và
Tổng Thống Truman chắc đã nhận ra rằng thay vì làm cho thế giới khỏi
phải sợ chiến tranh thì chính vì quá khiếp "sợ chiến tranh" mà nhân
loại đã nhiều lần thoát khỏi sự tàn sát của hạt nhân, cụ thể là với
Chủ Tịch Nikita Khrushchev và Tổng Thống John F. Kennedy,
qua cuộc Khủng Hoảng Hỏa Tiễn ở Cuba hồi 1962,
và biết đâu chừng với Tổng Thống Richard Nixon và Chủ Tịch Leonid
Brezhnev vào đầu thập niên 1970 trong chiến tranh ở Việt Nam, nếu
như "Thuyết Người Ðiên Tiết"
đã được đem ra áp dụng...
Trở
lại năm 1945,
Thế Chiến II
chấm dứt nhanh chóng, phù hợp với hy vọng của một con người thực tế
như Tổng Thống Mỹ Harry S. Truman, nhưng đối với Mỹ thì cũng vào
thời điểm đó của lịch sử Hoa Kỳ, cuộc chiến tranh ở Việt Nam lặng lẽ
bắt đầu. Chính ngày 2 tháng Chín 1945 đó, khi Nhật Bản đặt bút ký
tên đầu hàng trên chiến hạm Missouri của Mỹ thì Hồ Chí Minh -
một trường hợp mỉa mai khác nữa của lịch sử - vay mượn chính những
lời lẽ trong bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập của Hoa Kỳ để tuyên bố, tại
quảng trường Ba Đình ở Hà Nội, một nước Việt Nam độc lập và sự ra
đời của một chính phủ bị cộng sản chi phối, cho một đất nước mang
tên Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Thậm chí, Hồ Chí Minh còn có những lời ca ngợi về cái quá khứ cách
mạng vẻ vang của
Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ và cuộc diễn hành của Việt Nam ở Hà Nội được
tiến hành với khúc nhạc "Star Spangled Banner" (Ngọn cờ ngời
sao, quốc thiều Mỹ) và lá cờ "Sao và Sọc" (quốc kỳ Mỹ) được
hiên ngang trưng bày bên cờ đỏ sao vàng của Việt Minh, cùng với
những lời khen tặng của hai điệp viên OSS Hoa Kỳ (Office of
strategic services, cơ quan tình báo, tiền thân của CIA), đại tá
Peter Dewey và Archimedes Patti - khách danh dự của Hồ Chí Minh tại
cuộc lễ - vì đã cung cấp cho Việt Minh vũ khí và đạn dược quý báu để
chống lại quân lính của Ðế Quốc Nhật và đánh đuổi chính phủ Vichy
của Pháp.
Hồi 1945, lịch sử còn mỉa mai lâm ly bi đát hơn nữa với việc Hồ Chí
Minh được một bác sĩ Mỹ, ông Paul Hoagland - thày thuốc OSS, thành
viên của phái bộ "Deer Team Mission" (bí danh của một tổ công
tác OSS) hiện diện ở đó lúc bấy giờ - chữa trị khỏi những căn bệnh
chết người là rét rừng và kiết lỵ. Lúc đó, còn có tin cho rằng Hồ
Chí Minh mong muốn liên minh với nước Hoa Kỳ giàu có và hùng mạnh để
chiến đấu giành độc lập chống lại đế quốc Nhật và chính phủ Vichy
của Pháp. Cũng có tin cho rằng vào cuối năm 1945 đó, một khoảng thời
gian với vô số sự kiện lịch sử xảy ra trên thế giới, trong một buổi
dạ tiệc trang trọng diễn ra tại dinh chủ tịch ở Hà Nội, Hồ Chí Minh
yêu cầu một sĩ quan OSS khác, Thiếu Tá Frank White, trao một bức thư
cho Tổng Thống Hoa Kỳ Harry Truman, xin Mỹ ủng hộ để giúp Việt Nam
thu hồi độc lập và chấm dứt chế độ thuộc địa của Pháp. Không có phúc
đáp hay một loại phản ứng nào của Tổng Thống Harry Truman về bức thư
có tính giả thuyết này của Hồ Chí Minh, là người thậm chí còn nói
rằng trước đó đã kêu gọi Tổng Thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson giúp đỡ
Việt Nam cởi bỏ ách thực dân Pháp!
Dứt khoát là các chính phủ Hoa Kỳ dưới thời Tổng Thống Truman và
Tổng Thống Eisenhower có phần trách nhiệm về vụ chủ nghĩa cộng sản
bành trướng ở Việt Nam và do đó ở toàn bộ vùng Viễn Ðông. Thực ra,
chính qua Tổng Thống Eisenhower, tại cuộc họp báo vào khoảng đầu năm
1954, mà "thuyết đô-mi-nô" mới trở thành một mối ám ảnh chánh trị
hàng đầu. Cũng phải ghi nhận là một số sự kiện, vào cuối thập niên
1940 và đầu thập niên 1950, đã tác động trực tiếp đến diễn tiến của
cuộc xung đột ở Việt Nam. Và những gì xảy ra sau đó là nhân dân Việt
Nam bị lâm vào một trong những cuộc xung đột rối loạn và giết hại
lẫn nhau nhiều nhất trong lịch sử của nhơn loại, còn nhân dân Mỹ
cũng bắt đầu chứng kiến cuộc chiến tranh lâu dài nhất trong hai trăm
năm lịch sử Hoa Kỳ.
Vậy thì Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam như thế có đúng
không? Có phải 60.000 người Mỹ đã chết một cách vô lối ở Việt Nam
không? Nhân dân Việt Nam có được chút lợi lộc như thế nào đó do Mỹ
can thiệp vào chiến tranh ở Việt Nam hay không? Hiệp Chúng Quốc Hoa
Kỳ có thất trận ở Việt Nam không? Một số người thường nói có, một số
khác lại cho rằng không.
Do truyền thống và phong tục, nhân dân Mỹ thường có tinh thần đạo
đức cao và ý thức dân tộc mạnh mẽ về lòng yêu nước. Mỗi khi quân
lính Mỹ được gửi ra ngoài nước để chiến đấu thì lúc nào cũng miễn
cưỡng và dứt khoát là không vui rồi, nhưng được coi là cần thiết để
giúp đỡ người khác mà cũng vì quyền lợi của Hoa Kỳ, vì lý do an ninh
và để bảo vệ lối sống tốt đẹp của Mỹ ở quê nhà và để làm cho người
khác trên thế giới cùng chia sẻ được lý tưởng của Mỹ về tự do và dân
chủ.
Mỹ quốc, đất nước của giàu sang và của tự do, một đất nước đã từng
tiến hành một cách vẻ vang cuộc chiến tranh giải phóng và giành độc
lập đầu tiên để tạo dựng một quốc gia hiếm có, phong phú nhứt và
hùng cường hơn hết trên địa cầu, là Lãnh Tụ của Thế Giới Tự Do
-
một sứ mệnh cao quý
-
nhưng than ôi, cũng phải nhận lãnh
một
thái độ
vong ân bội nghĩa, vì Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ càng tìm cách giúp đỡ
thì lại càng phải ôm về những nỗi niềm cay đắng, qua những trách
móc, chửi rủa không ngưng ...
Với
những ý định tốt đẹp nhất và đáng tôn kính nhất, cuộc can thiệp kéo
dài, mất nhiều công sức và tốn kém của Mỹ ở Việt Nam rõ ràng là một
kinh nghiệm đáng tiếc và phiền muộn, nhưng cũng là một điều nhắc nhở
rất tốt về vai trò và sứ mệnh của Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ trên thế
giới lúc đó và ngày nay.
Người ta sống và chiến đấu vì lý tưởng của mình, một nỗ lực vô cùng
chính đáng. Theo đuổi hạnh phúc và mưu tìm một mục đích có ý nghĩa
cho quãng đời ngắn ngủi của mình trên trái đất là quyền bất khả phân
của mọi người... dĩ nhiên, với điều kiện là một quyền bất khả phân
như thế của người khác cũng phải được tôn trọng trở lại.
Nói thì dễ nhưng làm thì khó và thách thức to lớn của thân phận con
người bắt đầu từ đó, mà không có một văn bản rõ rệt nào cho tất cả
mọi người hết. Ðã đến lúc những thành viên của Tổ Chức Liên Hiệp
Quốc, đặc biệt là các cường quốc, phải ngồi lại, nghiêm chỉnh nghiên
cứu và thành thật tìm cách làm tròn nhiệm vụ bảo đảm và duy trì hòa
bình trên thế giới chưa? Bao giờ Liên Hiệp Quốc hoặc cái gọi là
"cộng đồng quốc tế" còn tiếp tục cho thấy mình bất lực thì các "diễn
viên" tha hồ mà "ứng tác" để chạy theo diễn biến của thời cuộc.
Muốn hay không muốn thì quy luật sinh tồn vẫn là "mạnh được yếu
thua", và cho đến bây giờ, phương thức hay nhất có lẽ là
nên
sinh sống theo kiểu Mỹ - thà có còn hơn không - dưới hình thức hòa
đồng dân tộc trong tinh thần hội nhập, một công thức có thể không
được mọi người ưa thích và chưa được hoàn hảo,
nhưng có vẻ như khả dụng và thuận lợi nhất cho phúc lợi của dân
chúng so với những chế độ khác.
Không một ai phủ nhận được rằng Hoa Kỳ là một trường hợp độc nhất và
một bài học độc đáo trong lịch sử văn minh nhân loại, là nơi mà hàng
trăm triệu người với sắc tộc và văn hóa khác nhau đã có khả năng
kết
hợp với
nhau, cùng thực
thi
một lối sống chung và hòa bình,
và
từ đó
có khả năng sản sinh ra sự lớn mạnh và phát triển chưa từng có, với
tiến bộ về khoa học và kỷ thuật kỳ lạ, với những thành tựu vượt trội
về mỹ thuật, văn học và những lãnh vực khác của nỗ lực nhân loại,
xuyên suốt trên hai thế kỷ qua.
Thế
nhưng, Hoa Kỳ bắt buộc phải trả một cái giá cho tính rất đỗi hào
phóng và sức phát triển nhanh chóng của xã hội mình. Hoa Kỳ cũng
phải chấp nhận đôi ba khía cạnh khó chịu do lối xử sự và hành động
của mình ở trong nước và ở ngoại quốc, vì đã là siêu cường số một và
duy nhất trên địa cầu thì cũng phải trả cái giá cho tính ngạo mạn.
Một số người có thể gào thét toàn những khẩu hiệu phản chiến và đòi
hòa bình cho hả cơn giận và như vậy cũng không thay đổi được chiều
hướng diễn tiến đã phát triển của lịch sử Hoa Kỳ trong hai trăm năm
qua.
Còn có một cách đơn giản, nhanh chóng và chắc ăn để "Chú Sam" khỏi
bị nhiều người cho là kẻ cậy thế cậy quyền, ỷ mình giàu mạnh lấy
thịt đè người, là Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ chịu trở thành một thứ quốc
gia thứ yếu, rồi
kinh
doanh tầm thường,
đại loại như Thụy Sĩ hay Tân Gia Ba. Chuyện đó cũng dễ thôi.
Đã thế thì đừng tự dối mình nữa, vì được cái nọ thì mất cái kia. Hãy
chọn lựa và quyết định rồi cứ thế mà tiến tới, như đã làm suốt hai
trăm năm qua. Nhưng vẫn còn quá nhiều công trình dở dang phải hoàn
tất nhanh chóng để tìm cách giúp bọn trẻ và tương lai của chúng, và
cuộc chiến tranh ở Việt Nam khoảng nửa thế kỷ trước đây cho ta nhiều
bài học hữu ích trong việc giải quyết những vấn đề hôm nay.
Phan
Quân
(Phỏng dịch)
|