"Người phụ nữ đảm đang
có thể dọn bữa mà chẳng cần thức ăn."
Đôi
lời vào chuyện.-
Đây là chương thứ 12 trong số 28 chương của tác phẩm "Les
Cygnes Sauvages" (Những con thiên nga phóng đãng), một
quyển tự truyện về ba người phụ nữ thuộc ba thế hệ trong gia
đình.
Đem tâm tình ghép vào lịch sử, (JC) đã thuật lại một
phần bối cảnh của Trung Quốc ở thế kỷ XX, từ thuở Quốc Dân
Đảng của Tưởng Giới Thạch đến thời kỳ cộng sản của Mao Trạch
Đông. Tự truyện của JC thực sự bắt đầu với chương thứ 10, nói
lên những chuyện tày trời dưới chế độ chuyên chính của Mao
Trạch Đông.
"Les Cygnes Sauvages" là một trong những tác phẩm bán chạy
nhất trên thế giới, đã được dịch ra 30 thứ tiếng và đã bán ra
10 triệu quyển, nhưng lại bị cấm bán ở Trung Quốc.
JC xuất thân từ một gia đình mà ba mẹ đều là cán bộ khá cao
cấp của Trung Cộng. Khi JC chào đời (1952), đảng cộng sản Tàu
đã chiếm được lục địa ba năm. Như vậy, JC sinh ra và lớn lên
cùng với bước trưởng thành của Trung Hoa đỏ, xuyên qua những
biến cố trọng đại của nước này, như Bước Đại Nhảy Vọt, Cách
Mạng Văn Hóa,... Dù là thuộc gia đình cách mạng, ba mẹ, anh
chị em và bản thân JC cũng phải thăng trầm cùng với thời cuộc
của đất nước, chịu nhiều điều cay đắng và bi thương.
Hết cơn bĩ cực đến hồi thới lai, sau khi Mao chết đi, ba mẹ JC
được phục hồi, JC được tuyển chọn đi du học bên Anh (1978).
Năm 1982, JC đậu bằng Ph.D. ngữ học. JC lập gia đình với một
người Anh. JC nổi tiếng với hai tác phẩm bán ra rất nhiều:
"Les Cygnes Sauvages", viết một mình, và "Mao: The
Unknown Story" viết chung với chồng là nhà sử học Jon
Halliday, chuyên ngành lịch sử Liên Xô.
Phù Sa xin lần hồi trích dịch một số chương chứa đựng những
tình hình "độc đáo" trong một chế độ tiêu biểu của chủ nghĩa
cộng sản, với những tình cảnh thảm thương, bi đát bám chặt vào
những con người bất hạnh, chẳng may bị lôi cuốn vào trong
guồng máy khắc nghiệt của thời đại.
ăm lên sáu, vào mùa thu năm 1958, tôi bắt đầu vào bậc tiểu
học. Tôi phải mất ít lắm hai mươi phút để đi đến trường, qua
những con đường hẻm lót đá và lầy lội. Mỗi ngày, đi cũng như
về, tôi đều nhìn chăm chú dưới đất để tìm đinh gảy, chốt sắt
sét hay bất cứ vật gì bằng kim loại bị chôn vùi dưới lớp đất
nằm giữa những viên đá lót đường. Những thứ sắt vụn này để
cung cấp cho lò nung của một xưởng đúc thép, được coi như là
sinh hoạt chính của trường tôi.
Mới
lên sáu mà tôi đã góp phần vào việc sản xuất thép của Trung
Quốc và tôi cố gắng, thi đua với các bạn cùng trường để nộp
thật nhiều sắt vụn. Trên đường đi học, quanh tôi đâu đâu cũng
có những chiếc loa phóng thanh gào thét to tướng một điệu nhạc
kích động, cả một rừng cờ, vô số bích chương và những khẩu
hiệu chữ to viết lên tường hô hào:"Bước đại nhảy vọt muôn
năm!" và "Nhà nhà luyện thép, người người luyện thép!"

Dẫu cho không hiểu tí gì hết, tôi cũng biết rằng chủ tịch Mao
đã ra lịnh cho cả nước làm ra thật nhiều sắt thép. Nhà bếp của
trường học đã thay thế một số chảo bằng những nồi luyện kim
đặt lên mấy cái bếp to tướng. Người ta đem tất cả sắt vụn của
bọn tôi thu nhặt được cho vào lò luyện kim, kể cả những mảnh
vụn của mấy cái chảo. Bếp lúc nào cũng được đun nóng, cho đến
khi sắt vụn bắt đầu biến thành chất lỏng. Thầy cô chúng tôi
thay phiên nhau cho củi vào suốt ngày đêm và quậy nồi luyện
kim bằng một cái cây to tướng. Chúng tôi chẳng học hành gì bao
nhiêu, vì lò luyện kim tí hon của chúng tôi làm cho mọi người
đều bận rộn. Những người học trò lớn tuổi hơn cũng liên tục
góp phần lao động trong chuyện luyện kim. Còn những người khác
thì được phân công quét dọn căn hộ của mấy nhà giáo hoặc giữ
con cho họ.
Tôi nhớ có một hôm, cùng với mấy người bạn đến bịnh xá để thăm
một cô giáo bị sắt lỏng đang sôi làm phỏng tay. Bác sĩ, y tá
mặc áo choàng trắng đang chạy lung tung. Thì ra, dưới từng hầm
của bịnh xá có một lò luyện kim, cần được đun củi liên tục, kể
cả ban đêm, dù có phải bỏ dở một ca mổ khó khăn.
Một thời gian ngắn, trước khi tôi nhập học, gia đình rời xóm
nhà bình dân để dọn đến khu cư xá đặc biệt, gần trụ sở của
tỉnh. Khu này gồm có nhiều con đường, hai bên là những tòa nhà
được làm văn phòng và nhà ở, ngoài ra còn có một số cư xá
riêng biệt, tất cả nằm sau một bức tường cao, ngăn chia với
thế giới bên ngoài. Gần cổng chính ra vào, là câu lạc bộ cũ
của quân lính Mỹ, trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Năm 1941,
Ernest Hemingway đã có ở nơi đây. Đó là một căn nhà cất theo
kiểu truyền thống của Trung Hoa, nóc lợp ngói màu vàng, mái
cong lên, với những cây cột nặng nề, màu đỏ sậm. Ngày nay,
người ta dùng làm trụ sở của Ủy Ban Hành Chánh tỉnh Tứ Xuyên.
Một cái lò luyện kim lớn được đặt tại bãi đậu xe của cư xá,
nơi mà các bác tài tập hợp lại để chờ lịnh. Về đêm, không gian
rực sáng một cách kỳ lạ và từ phòng tôi, cách đó khoảng 300
thước, cũng còn nghe thấy tiếng người xôn xao tụ họp quanh lò.
Chảo, cũng như tất cả những dụng cụ làm bếp bằng gan của nhà
tôi đều được đưa vào lò hết. Cũng chẳng thiệt hại gì lắm, vì
chúng tôi không cần dùng đến những thứ đó nữa. Không còn một
ai có quyền làm bếp ở nhà, ai cũng phải dùng bữa ở nhà ăn tập
thể. Không làm sao thỏa mãn nổi mấy cái lò luyện kim. Chiếc
giường sắt có lò xo của ba mẹ tôi, tuy vẫn còn tốt, cũng bị
đưa vào lò, cũng như những rào cảng bằng sắt dọc theo lề đường
và tất cả những gì có chất sắt của thành phố cũng vậy. Hàng
mấy tháng qua, có thể nói là tôi không thấy mặt ba mẹ tôi.
Thường thì hai người không có về nhà ban đêm, vì ba mẹ tôi
phải canh chừng cho lò luyện kim của trụ sở phải cháy nóng
luôn.
Chính vào thời kỳ đó, chủ tịch Mao nâng lên cao độ giấc mơ hão
huyền của ông là làm sao cho đất nước Trung Quốc trở thành
cường quốc tiên tiến hàng đầu. Ông gọi thép là "nguyên soái"
của ngành công nghiệp và ra lịnh phải tăng lượng sản xuất lên
gấp đôi trong vòng một năm - từ 5,35 triệu tấn hồi 1957 lên
10,7 triệu tấn trong năm 1958. Thế nhưng, thay vì tìm cách
triển khai công nghiệp gang thép, bằng cách tăng lên số thợ
chuyên nghiệp, Mao lại quyết định đưa toàn bộ nhân dân vào
công trình đó. Mỗi đơn vị phải đạt được chỉ tiêu sắt thép của
mình, và tháng này sang tháng nọ, người ta ngưng tất cả các
hoạt động khác, chỉ làm sao để đạt được kết quả mong muốn.
Mức phát triển kinh tế của đất nước chỉ quy tụ vào một vấn đề
đơn giản là đã sản xuất ra được bao nhiêu tấn thép, và cả nước
tận tâm tận lực lo cho mỗi một lãnh vực duy nhứt đó. Những con
số chính thức cho thấy rằng gần một trăm triệu nông dân phải
bỏ bê công việc đồng áng để lao mình vào việc sản xuất gang
thép. Từ trước tới nay, nông dân là những nhà cung cấp thực
phẩm chính cho cả nước. Ngoài ra, người ta còn đốn sạch cây
rừng trên khắp đồi núi để lấy chất đốt. Vậy mà năng suất của
công cuộc sản xuất đại thể đó, rốt cuộc lại chỉ còn được điều
mà dân chúng Tàu cho là một thứ "phân bò", nghĩa là những cặn
bã vô ích.
 Tình
trạng phi lý đó, không những phản ảnh sự ngu dốt của Mao về
kinh tế mà còn nói lên thái độ dững dưng, gần như quái gở,
trước một thực tế. Một thái độ như vậy có thể là hay ho đối
với một nhà thơ nhưng đối với một nhà lãnh đạo, có quyền lực
tuyệt đối, thì coi không được. Vì lẽ thái độ đó cho thấy ông
ta coi rẻ sinh mạng con người một cách quá quắt. Trước đó
chẳng bao lâu, Mao có tuyên bố với ông đại sứ Phần Lan:"Nếu
Hoa Kỳ có bom nguyên tử mạnh hơn và đem sử dụng chống Trung
Quốc, thì sẽ đào một lỗ trên hành tinh này hoặc làm cho Trung
Quốc tan thành mảnh vụn. Hẳn nhiên đó sẽ là một tai họa cho
thái dương hệ của chúng ta, nhưng điều đó chỉ tác động đến
toàn thể vũ trụ một cách không đáng kể."
Đã quyết tâm tuyệt đối rồi, Mao lại càng nhứt quyết hơn nữa
sau chuyến đi thăm Liên Xô hồi gần đó. Sau khi Khrouchtchev
lên tiếng tố cáo Staline hồi năm 1956, đến cuối năm 1957, nhà
lãnh tụ Trung Quốc sang Mạc Tư Khoa dự hội nghị cấp cao của
cộng sản quốc tế. Khi trở về, Mao dứt khoát cho là Nga Sô và
các đồng minh của họ đang từ bỏ xã hội chủ nghĩa để "xét lại",
và từ đó Mao cho rằng chỉ có Trung Quốc mới là thành viên đích
thực của chủ nghĩa cộng sản. Cho nên, Trung Quốc phải đứng ra
vạch một hướng đi mới. Vì vậy mà trong đầu óc của Mao bắt đầu
nảy sinh ra một ý nghĩ, bắt nguồn từ kết quả của hoang tưởng
tự đại cộng với một quyết tâm cao.
Không một ai dám đá động gì đến "định kiến" của Mao về chuyện
làm ra sắt thép, cũng như về bất cứ một ý định nào khác của
ông ta. Thí dụ như có một lần, ông ấy thù ghét chim sẻ một
cách dễ sợ vì chúng đã ăn hết những hột giống được gieo rắc
ngoài đồng ruộng. Thế là nhà nhà trên toàn đất nước Trung Quốc
bị huy động để chống lại lũ chim. Thiên hạ phải ra ngoài đồng
mấy tiếng đồng hồ liền, lấy cây đập vào những vật dụng bằng
kim loại như chũm chọe hoặc nồi xoon để đuổi chim bay khỏi các
cành cây, hy vọng rằng chúng sẽ chết cứng vì mỏi mệt! Bây giờ,
tôi như còn nghe thấy những tiếng ồn do anh, chị, em chúng
tôi, cũng như những viên chức nhà nước, tụ tập dưới gốc cây
khổng lồ trong sân nhà, tạo ra.
 Mao
đề ra những mục tiêu vĩ đại cho nền kinh tế Trung Quốc. Ông ta
tin rằng mức sản xuất công nghiệp của Trung Quốc có thể qua
mặt Hoa Kỳ và Anh quốc trong vòng mười lăm năm. Dưới cái nhìn
của người Hoa, Mỹ và Anh tượng trưng cho thế giới tư bản một
cách tiêu biểu nhứt. Vượt thắng được hai nước đó về mặt kinh
tế thì coi như là một cách thắng được kẻ thù. Viễn ảnh đó nâng
cao lòng tự hào của nhân dân và làm cho họ càng thêm phấn khởi
vô cùng. Vì Mỹ và đa số các quốc gia phương Tây không chịu
công nhận Trung Quốc về mặt ngoại giao nên đã làm bỉ mặt nhân
dân Trung Quốc một cách trầm trọng, khi mà họ rất thiết tha
muốn cho thế giới thấy rằng họ có thể tự lực cánh sinh và sẵn
sàng tin tưởng là đất nước sẽ có những bước tiến thần kỳ. Hơn
nữa, Mao chủ tịch đã sẵn sàng làm cho nhân dân Trung Quốc có
một ảo ảnh như thế. Nhân dân muốn có cơ hội để vận dụng năng
lực thì nay đã sẵn sàng rồi đó. Vì quá phấn khởi nên chẳng còn
biết thận trọng là gì nữa và vì ngu dốt nên con người đâu còn
có lý trí.
Đầu năm 1958, sau khi đi Mạc Tư Khoa về, Mao lưu lại Thành Đô
khoảng một tháng. Ông hăng say nghĩ rằng Trung Quốc có thể làm
được mọi việc, kể cả chuyện chiếm quyền lãnh đạo xã hội chủ
nghĩa. Chính tại thành phố của chúng tôi, Mao đã minh định
những đường hướng chính cho chương trình nổi tiếng, "Bước Đại
Nhảy Vọt" của ông. Thành phố tổ chức một cuộc diễn hành trọng
thể đón tiếp ông, nhưng những người tham dự không biết là ông
có mặt ở đó. Ông lánh mặt, không muốn cho người ta trông thấy.
Nhân cuộc duyệt binh đó, một khẩu hiệu mới xuất hiện:"Một
người phụ nữ đảm đang có thể dọn bữa mà chẳng cần thức ăn",
đảo ngược lại một câu châm ngôn khá thực tiễn của Tàu là:"Dẫu
đảm đang mấy đi nữa, một người phụ nữ không làm sao dọn bữa mà
chẳng có thức ăn." Những bài diễn từ khoa trương đã biến thành
những yêu sách thực tiễn. Những ước mơ không tưởng được coi
như trở thành hiện thực.
 Năm
đó, chúng tôi hưởng được một mùa xuân tuyệt vời. Một hôm, Mao
đi dạo trong công viên mang tên Thảo Đường của Đỗ Phủ, thi sĩ
đời Đường hồi thế kỷ 18. Chịu trách nhiệm khu phía Đông, ban
ngành của mẹ tôi đảm trách an ninh một phần của công viên. Thế
nên, những nhân viên của mẹ tôi đi tuần tra trên khu vực, giả
dạng như những du khách. Thường thường, Mao chẳng có giờ giấc
gì hết và rất ít khi ông thông báo cho những người thân cận
biết ông đi lại như thế nào. Thế nên, mẹ tôi phải ngồi trong
quán nước, uống tách này qua tách khác để tỉnh táo mà canh
phòng. Cuối cùng, mẹ tôi buồn chán và cho những nhân viên biết
là bà sẽ đi dạo một chút. Không để ý, mẹ tôi lang thang qua
vùng an ninh của khu phía Tây. Vì không biết bà nên toán canh
phòng bèn theo dõi mẹ tôi ngay. Hay tin có một người đàn bà
"khả nghi", người bí thư chi bộ chịu trách nhiệm khu phía Tây
quyết định đích thân đến xem coi sự thể ra làm sao. Thấy mẹ
tôi, ông phá lên cười rồi nói rằng:"Tưởng ai chớ, nữ đồng chí
Xia của khu phía Đông mà". Sau đó, mẹ tôi bị bà Guo, thủ
trưởng của bà khiển trách vì "không tôn trọng kỷ luật".
Mao cũng đi thăm nhiều nông trại trong miền Thành Đô. Lúc bấy
giờ, những hợp tác xã nông nghiệp tương đối còn bé nhỏ. Chính
tại nơi đây, nhà lãnh tụ của chúng tôi ra lịnh tập trung các
hợp tác xã lại thành những tổ chức rộng lớn, sau này được gọi
là "hợp tác xã nhân dân".
Mùa hè năm đó, toàn thể Trung Quốc được tổ chức thành những
đơn vị mới, mỗi đơn vị tập hợp lại từ hai ngàn đến hai mươi
ngàn gia đình. Vùng Xushui, ở tỉnh Hà Bắc, thuộc Hoa Bắc, được
chọn làm khu kiểu mẫu cho công cuộc cải tổ này, được Mao đặc
biệt cho là hợp với ý thích của mình. Vì nóng vội muốn cho dân
chúng tỉnh nhà được người lãnh tụ tối cao chú ý, người trách
nhiệm đảng bộ địa phương quyết định sẽ tăng mức sản xuất ngũ
cốc lên gấp mười. Nghe nói vậy, Mao chỉ cười và đáp:"Thực phẩm
đó, đồng chí sẽ làm gì? Nghĩ cho cùng thì có thực phẩm dư thừa
cũng tốt! Nhà nước không cần thực phẩm đó. Đất nước đâu đâu
cũng có đủ ăn. Nông dân của đồng chí cứ ăn thỏa thích. Các
đồng chí có thể ăn một ngày năm bữa!" Hứng chí, Mao cũng thả
hồn mình vào giấc mơ muôn thuở của mọi nông dân Tàu là có thực
phẩm dư thừa. Sau khi được Mao phê phán như thế, dân làng tiếp
tục làm cho người lãnh tụ vĩ đại của họ hài lòng bằng cách xác
nhận rằng một mẫu đất sẽ sản xuất ra 450 tấn khoai tây (một
mẫu bằng 0,065 ha), nghĩa là một mẫu sản xuất ra 59 tấn lúa
mì, và những bắp cải cân nặng 225 kí lô!
Thật là một thời kỳ không tưởng tượng nổi, trong đó tất cả mọi
người đều bịa ra những câu chuyện cho chính mình cũng như cho
mọi người, với một lòng tin tưởng sắt đá. Nông dân chở số
lượng thu hoạch được trên nhiều cánh đồng, tập trung lại một
thửa đất để làm cho giới hữu trách của đảng tin rằng họ gặt
hái được một kết quả thần kỳ. Người ta trưng ra để giới thiệu
những sản phẩm hào nhoáng, theo kiểu "Potemkine", cho khách
tham quan, như vậy cho những chuyên viên nông nghiệp, nhà báo,
những khách nước ngoài hay khách từ những tỉnh khác, người nào
cũng cả tin, hoặc giả cố tình không chịu thấy. Những sản phẩm
đó thường hư thối trong vòng năm ba ngày vì không nên chuyên
chở và chất đống nhiều như vậy, nhưng người ta cứ lờ đi, không
cần biết. Rất đông đảo quần chúng nhân dân bị lôi cuốn vào cái
thế giới điên loạn đó, một vương quốc đầy dẫy xáo trộn. Một
cung cách "dối mình, lừa thiên hạ". Cả nước lâm vào tình cảnh
đó. Rất nhiều người, kể cả những chuyên viên nông nghiệp và
những nhà lãnh đạo đảng, đều xác nhận là đã chứng kiến những
chuyện thần kỳ. Những ai không đạt được những thành tựu ly kỳ,
giống như những người lân cận, đâm ra hoài nghi chính mình rồi
tự trách mình. Dưới một chính thể độc tài kiểu Mao, trong đó
thông tin được cung cấp nhỏ giọt hoặc được dựng đứng, con
người tầm thường không còn tin tưởng ở kinh nghiệm bản thân
hay ở sự hiểu biết của chính mình nữa. Vả lại, họ phải đối đầu
với quá nhiều nhiệt tình dân tộc làm cho cá nhân không còn
bình tỉnh được.
Tốt hơn hết là chẳng cần biết sự thực làm gì và hoàn toàn tin
tưởng ở chủ tịch Mao.
Muốn chống trả lại sự cuồng nhiệt của tập thể đâu phải dễ. Đắn
đo, nghĩ ngợi và tỏ vẻ thận trọng sẽ gặp phải điều phiền toái.
Lúc bấy giờ, có một biếm họa trên báo chí quốc doanh, vẽ một
nhà khoa học mang dáng vóc một con chuột đang than vãn:"Một
cái lò như của chúng ta chỉ để dành nấu nước pha trà thôi."
Bên cạnh nhà khoa học là một công nhân vạm vỡ, vừa mở nắp nồi
ra đổ một dòng thép lõng nóng bỏng vừa đáp lại:"Sẽ có một lúc
nào đó ông chẳng còn uống trà được." Thông thường, những ai
nhận ra chỗ phi lý đều rất sợ, không dám phát biểu ý kiến của
mình, nhứt là sau chiến dịch chống hữu khuynh hồi năm 1957.
Một số ít người bạo gan, liều mình tỏ ý hoài nghi thì bị bịt
miệng hoặc bị mất việc ngay. Gia đình đương sự phải gánh chịu
hậu quả và tương lai con cái vì đó phải chịu liên lụy mãi mãi.
Có nhiều nơi, người ta đánh đập những kẻ ngoan cố không chịu
ca ngợi mức sản xuất tăng lên ồ ạt, cho đến khi nào họ chịu
chấp nhận mới thôi. Vì vậy cho nên ở Yibin, một vài người phụ
trách các đơn vị nông nghiệp bị trói hai tay ra sau lưng, bỏ
nằm giữa quảng trường trong làng, thiên hạ đua nhau hạch hỏi:
- Một mẫu mày gặt được bao nhiêu?
- Bốn trăm giạ (phỏng chừng 200 kg).
Thế là vừa đánh, thiên hạ vừa hỏi:
- Vậy chớ một mẫu mày "có khả năng" gặt được bao nhiêu?
- Tám trăm giạ.
Một con số đúng ra là không thể đạt được, nhưng cũng không làm
cho thiên hạ hài lòng. Người nông dân đáng thương kia lại lãnh
một trận đòn nữa, hoặc giả thiên hạ cứ để mặc cho ông ta nằm
đó cho đến khi nào chịu nói "mười ngàn giạ". Đôi khi ông ta
nằm chết tại chỗ vì không chịu đưa ra một con số cao hơn, hay
chỉ vì ông ta không còn đủ thời gian để nói con số mà thiên hạ
muốn nghe.
Một số đông đảo nông dân và đảng viên cơ sở chứng kiến những
cảnh tượng như thế chẳng có chút gì tin tưởng vào những lời
khoác lác khôi hài đó, nhưng vì sợ chính mình cũng bị vạ lây
nên phải ngoan ngoãn làm theo thôi. Họ cứ làm theo chỉ thị của
đảng và chừng nào họ còn tuân hành Mao thì chẳng gì mà phải
sợ. Dưới uy quyền của chế độ chuyên chính, họ đã hoàn toàn bị
lệch lạc và tinh thần trách nhiệm của họ cũng tiêu tan luôn.
Thậm chí có những người thày thuốc còn dám khoe khoang là đã
chửa được những bịnh nan y một cách kỳ diệu.
Những chiếc xe tải đều đặn đổ xuống cư xá của chúng tôi những
đoàn nông dân, vui cười hớn hở báo cho chúng tôi một vài thành
công tuyệt vời, phá hết mọi kỷ lục. Hôm thì một trái dưa leo
khổng lồ, dài bằng nửa chiếc xe tải, hôm khác thì một trái cà
chua, hai đứa nhỏ khiêng không nổi. Một lần khác, họ kéo tới
với một con heo to tướng, kẹt cứng trên thùng xe tải. Mấy
người nông dân khẳng định là họ đã nuôi được một con thú to cỡ
đó. Thật ra, chỉ là một con vật bằng giấy bồi, thế nhưng,
trong trí tưởng tượng của trẻ con, tôi cứ tưởng là thật. Phải
chăng vì tôi bị ảnh hưởng của những người lớn tuổi quanh tôi,
những người chẳng bao giờ tỏ vẻ hoài nghi những điều thần kỳ
như thế. Thiên hạ đã quen thói xem thường lẽ phải, để sống với
những điều hữu danh vô thực.
Cả nước sống trong cảnh nhập nhằng như vậy. Ngôn ngữ chẳng còn
đi đôi với thực tế, với trách nhiệm mà cũng không phù hợp với
ý nghĩ đích thực của thiên hạ nữa. Người ta nói dối dễ dàng vì
lời nói chẳng có ý nghĩa gì nữa và vì không còn ai cho những
gì họ nói ra là nghiêm chỉnh.
 Hiện
tượng này có ảnh hưởng đến những quy định xã hội do chính phủ
đặt ra. Khi ban hành chế độ "công xã nhân dân", Mao nêu rõ một
trong những lợi ích chính của nó là "dễ kiểm soát", nông dân
không còn bị bỏ quên nữa mà sẽ được đưa vào một bộ phận có tổ
chức hẳn hoi. Chẳng hạn như người ta sẽ ra lịnh một cách chính
xác, lịnh từ cấp cao đưa xuống, chỉ dẫn cung cách cày ruộng ra
làm sao. Mao tóm lược toàn bộ nông nghiệp ra làm tám thành
phần:"đất, phân, nước, giống, thâm canh, bảo vệ, chăm sóc, kỷ
thuật". Trung ương đảng ở Bắc Kinh phân phát những tài liệu
chừng hai trang giấy, chỉ cho nông dân toàn quốc phương thức
để cải tiến đồng ruộng, tài liệu khác về cách sử dụng phân
bón, một tài liệu khác nữa về cách thâm canh. Những chỉ dẫn vô
cùng giản lược này phải được tuân hành triệt để.
Lúc bấy giờ, Mao chăm chú theo đuổi một dạng quy chế khác là
hình thành những nhà ăn tập thể trong các công xã nhân dân.
Với thói quen chẳng cần lo nghĩ gì hết, lúc đó Mao tóm gọn chủ
nghĩa cộng sản dưới công thức "những nhà ăn tập thể công cộng
miễn phí". Ông không cần biết là những nhà ăn như thế làm gì
sản xuất ra thức ăn. Năm 1958, chế độ thực sự cấm người ta ăn
cơm ở nhà. Tất cả các nông dân nhứt thiết phải ăn ở một nhà ăn
tập thể của cộng đồng. Dụng cụ nhà bếp, như chảo, đều bị cấm
dùng và, ở một vài nơi, cả tiền bạc cũng không được xài. Tất
cả mọi người đều được công xã và nhà nước lo liệu. Hàng ngày,
sau khi lao động xong, nông dân xếp hàng nối đuôi ở nhà ăn. Họ
ăn uống thỏa thích, trước kia đâu được như vậy, dẫu cho gặp
những năm trúng mùa nhứt và ở những vùng màu mỡ hơn hết. Nông
dân tiêu thụ và phung phí hết những dự trữ thực phẩm của nông
thôn. Họ rất đông đúc ở đồng ruộng. Thật ra, không còn có
chuyện lao động cật lực nữa vì từ nay sản phẩm làm ra là thuộc
nhà nước, chẳng ăn nhằm gì với đời sống của họ cả. Bấy giờ,
Mao tuyên bố rằng Trung Quốc sẽ trở thành một xã hội cộng sản,
hiểu đúng như tiếng Hoa là "phân chia của cải vật chất". Nông
dân kết luận rằng dẫu thế nào đi nữa họ cũng có phần, dù cho
họ có lao động hay không. Chẳng còn hứng thú gì nữa, từ nay họ
chỉ cần ra đồng để ngủ nghê mà thôi.
Nông nghiệp cũng bị coi thường vì ưu tiên được dành cho sắt
thép. Phần đông nông dân cảm thấy mỏi mệt sau khi phải mất
hàng giờ để tìm chất đốt, sắt vụn hay quặn sắt để cung cấp cho
các lò luyện kim. Chuyện canh tác thường được giao phó cho phụ
nữ và trẻ con trông nom, qua cung cách làm lụng độc nhứt bằng
tay, vì thú vật kéo xe cũng dành để đóng góp vào việc sản xuất
gang thép. Vào đợt gặt mùa thu năm 1958, hầu như chẳng còn ai
ngoài đồng ruộng.
Mùa màng thất bát báo động là sẽ bị đói ăn, dẫu các con số
thống kê chính thức cho thấy sản xuất nông nghiệp gia tăng
đáng kể. Y như rằng, người ta loan báo là năm 1958, Trung Quốc
đã sản xuất lúa mì nhiều hơn Hoa Kỳ. Tờ "Nhân Dân Nhật Báo",
cơ quan của đảng, phát động một cuộc tranh luận kỳ lạ:"Làm thế
nào để đương đầu vấn đề sản xuất thực phẩm dư thừa?"
Cơ quan của ba tôi chịu trách nhiệm về báo chí của địa phương
Tứ Xuyên, hay đăng những tin tức kỳ quặc khó tin, cũng giống
như mọi ấn phẩm Trung Quốc thời bấy giờ. Báo chí là tiếng nói
của đảng và, về mặt chính trị, ba tôi không nói năng gì được.
Vả lại, những người khác cũng vậy. Phương tiện thông tin đại
chúng chuyển tiếp những chỉ thị từ trên đưa xuống một cách
trung thực. Ba tôi nhìn thấy diễn biến của tình hình với nhiều
lo lắng. Ông chẳng còn biết làm gì khác hơn là lưu ý những cấp
trên cao.
Thế nên, cuối năm 1958, ba tôi viết thơ cho ủy ban trung ương
ở Bắc Kinh tường trình rằng, theo ý ông thì việc sản xuất sắt
thép một cách điên cuồng chỉ là một sự phí phạm vô ích. Nông
dân không còn chịu được nữa, việc làm của họ chẳng đem lại lợi
ích gì. Nhứt định sẽ bị nạn đói ăn, cần phải phản ứng gấp rút.
Ba tôi trao thơ cho đồng chí trợ lý, nhờ đồng chí chuyển lên
ủy ban. Ông trợ lý Lee Da-zhang là nhân vật số hai của tỉnh.
Chức vụ đầu tiên của ba tôi ở Thành Đô là nhờ sự giúp đỡ của
ông Lee, khi ông hối hả rời khỏi Yibin, và ông vẫn xem ba tôi
là bạn chí thân.
Lee Da-zhang cho ba tôi biết là ông không chuyển bức thơ đi,
vì thơ không đem đến một điều gì cho bất cứ ai hết. Theo ông
Lee thì đảng nắm được tình hình và nên tin tưởng ở đảng. Mao
đã nói là dù sao đi nữa cũng không nên làm suy suyển tinh thần
của nhân dân. Bước Đại Nhảy Vọt đã làm thay đổi tâm lý người
Trung Quốc. Quên đi tính thụ động của mình, người nông dân đã
trở nên lạc quan, dám nghỉ dám làm. Nên chi, đừng làm cho sự
thay đổi hữu ích đó phải bị lâm nguy.
Quan đầu tỉnh cũng cho ba tôi biết rằng những người có trách
nhiệm trong tỉnh, đã từng nghe ba tôi thố lộ tâm tình, liệt ba
tôi vào thành phần "chống đối". Chỉ nhờ các phẩm chất nghề
nghiệp, lòng trung thành bất biến với đảng và tinh thần kỷ
luật triệt để mà ba tôi đã thoát được những chuyện tồi tệ
nhứt. Ông Lee Da-zhang nói thêm:
- May cho đồng chí là đồng chí chỉ tỏ vẻ hoài nghi với những
người trong đảng chớ không phải một cách công khai trước quần
chúng.
Ông Lee cảnh giác ba tôi là nếu cứ tiếp tục nêu lên những vấn
đề tế nhị đó thì sẽ có nguy cơ gặp nhiều điều phiền toái. Rồi
gia đình sẽ gánh chịu ảnh hưởng tai hại và những thứ khác nữa.
Vì chỗ thân thiết, ông Lee ngầm cho ba tôi hiểu rằng chắc chắn
là cá nhân ba tôi cũng bị vạ lây. Ba tôi không khẩn khoản nữa,
nhưng ông chưa hoàn toàn tin tưởng những lý lẽ mà người ta mới
vừa đưa ra, vì vấn đề quá trầm trọng. Đã đến lúc, ba tôi không
còn biết phải hiểu như thế nào đây.
Trong
khi chờ đợi, suốt ngày những người có trách nhiệm của các cơ
quan thuộc bộ Tuyên Truyền thu thập tất cả mọi khiếu nại để
chuyển về Bắc Kinh. Đó là nhiệm vụ của họ. Càng ngày càng có
nhiều điều bất bình trong dân chúng. Thực ra, Bước Đại Nhảy
Vọt đã gây chia rẻ trầm trọng ở cấp cao của đảng, từ khi cộng
sản nắm quyền cách nay mười năm. Trong hai chức vụ chính đã
đảm trách, Mao phải từ bỏ chức chủ tịch nước, một chức vụ kém
quan trọng, nhường lại cho Lưu Thiếu Kỳ. Như vậy, họ Lưu trở
thành nhân vật số hai của Trung Quốc, nhưng uy tín của ông
không mấy quan trọng, so với Mao, người còn giữ chức vụ then
chốt là chủ tịch đảng.
Mối bất hòa ở cấp cao trở nên khá trầm trọng nên đảng bị bắt
buộc phải mở một hội nghị đặc biệt. Hội nghị khai diễn vào
cuối tháng Sáu năm 1959, tại trạm trượt tuyết Lư Sơn, thuộc
Hoa Trung. Ở hội nghị này, thống chế Bành Đức Hoài, bộ trưởng
Quốc Phòng, gởi cho Mao một bức thơ, chỉ trích những tai hại
của Bước Đại Nhảy Vọt và đề nghị một giải pháp thực tế cho nền
kinh tế. Bức thơ này tương đối ôn hòa và kết thúc bằng một
luận điểm nhất định là phải lạc quan, chẳng hạn như ý kiến sẽ
bắt kịp Anh quốc trong vòng bốn năm sắp tới. Thế nhưng, dẫu
cho họ Bành là một trong những đồng chí xưa cũ, cùng chiến đấu
với Mao, và đồng thời là một trong những nhân vật thân cận với
Mao, những lời trách cứ nhẹ nhàng và rụt rè như vậy cũng làm
cho Mao khó chịu. Hơn nữa, Mao đang trong thế tự vệ vì ông hẳn
biết là mình đã sai quấy. Vận dụng loại ngôn ngữ quá khích sở
hữu của mình, Mao cho bức thơ của Bành là một "quả bom định
san bằng Lư Sơn". Cố chịu đựng, Mao tìm cách vừa kéo dài hội
nghị hơn một tháng vừa đổ tội cho họ Bành. Bành và nhóm người
ủng hộ ông bị kết tội là những người "cơ hội chủ nghĩa hữu
khuynh". Cuối cùng, Bành Đức Hoài bị cách chức và bị quản thúc
tại gia. Sau đó, người ta cho Bành về Tứ Xuyên, hưởng hưu trí
non và được bổ nhiệm vào những chức vụ thứ yếu.
 Mao
phải áp dụng nhiều thủ đoạn để bảo vệ quyền bính của mình và
ông rất điêu luyện trong lãnh vực này. Sách ưa thích nhứt của
ông, và cũng được ông khuyên những người lãnh đạo khác trong
đảng đọc, là một tuyển tập cổ điển, gồm có nhiều quyển mô tả
lại những mánh khóe và cấu trúc của quyền lực trong các triều
đại Trung Quốc xa xưa. Thật ra, phương thức tốt nhứt để hiểu
được chế độ của Mao là đem so sánh với một triều đình thời
trung đại, trong đó nhà vua có một quyền hành gần như mê hoặc
được quần thần. Vả lại, ông rất khôn khéo trong kỷ thuật "chia
để trị" và có biệt tài khai thác tính độc ác của con người.
Chung cuộc lại, mặc dù có những người chán chường với đường
lối của chính phủ nhưng hiếm thấy cán bộ cao cấp nào của đảng
đứng ra binh vực cho thống chế Bành. Có mỗi mình ông tổng bí
thư đảng, Đặng Tiểu Bình, là người đứng ngoài vòng cương toả
vì ngày lấy quyết nghị ông ta vắng mặt với một lý do tuyệt vời
là bị gảy chân. Ở nhà, bà nhạc mẫu của ông cứ cằn nhằn:"Suốt
cuộc đời nông dân, tao chưa bao giờ nghe nói đến những cung
cách ở đời phi lý đến như vậy!" Khi được biết họ Đặng bị gảy
chân - trong lúc đánh bi da - Mao thốt lên:"Cũng tốt thôi!"
Sau khi hội nghị bế mạc, ủy viên Li, bí thư thứ nhất tỉnh Tứ
Xuyên, mang về Thành Đô một hồ sơ, trong đó có những lời nhận
xét của Bành Đức Hoài gởi cho hội nghị Lư Sơn. Những bản sao
của tài liệu này được phân phát cho cán bộ từ cấp 17 trở lên,
với lời yêu cầu cho biết một cách chính thức, họ có đồng quan
điểm hay không. Thời đó, mọi người đều có thói quen cái gì
cũng tán thành hết. Thế nhưng kỳ này, phần đông đều cảm thấy
có một cái bẫy. Thông thường, mỗi tài liệu quan trọng được phổ
biến đều có mang dấu ấn của Mao, đính kèm một lời phê theo
kiểu "Đã đọc và chấp thuận".
Ba tôi có biết được chuyện lủng củng ở Lư Sơn, qua lời thuật
lại của tỉnh trưởng Tứ Xuyên. Qua một cuộc đàm đạo, có tính
cách kiểm điểm, ba tôi có nói bóng nói gió về những luận điệu
trong bức thơ của họ Bành. Sau đó, ba tôi có một hành động
chưa từng thấy bao giờ là ông cho mẹ tôi biết đó là một cái
bẫy. Mẹ tôi rất ngạc nhiên vì đây là lần đầu tiên ba tôi coi
trọng quyền lợi bản thân hơn điều lệ của đảng.
Mẹ tôi ngạc nhiên khi thấy rằng dường như nhiều người khác
cũng biết chuyện đó. Qua một cuộc kiểm điểm tập thể, một nửa
số đồng chí của bà biểu lộ sự bất bình về bức thơ của Bành Đức
Hoài, cho rằng những lời chỉ trích trong thơ đó "không có một
cơ sở nào hết". Những người khác dường như chẳng còn nói năng
gì được nữa và chỉ lẩm bẩm những câu nói mơ hồ. Có một người
ăn nói loanh quanh để tránh né:"Tôi không thể nói là tôi đồng
ý hay không vì tôi không biết những gì thống chế Bành đưa ra
có đúng sự thật hay không. Nếu đúng vậy thì đương nhiên là tôi
ủng hộ ông ấy. Bằng không thì rõ ràng là tôi không tán thành."
Trưởng phòng Ngũ Cốc của Thành Đô và trưởng ngành Bưu Điện là
những cựu binh Hồng Quân đã từng chiến đấu dưới quyền thống
chế Bành. Cả hai người đều cho biết là họ tán đồng ý kiến của
vị cựu chỉ huy khả kính, và nói thêm là những kinh nghiệm bản
thân của họ trên chiến trường xác nhận những nhận xét của Bành
Đức Hoài là đúng. Mẹ tôi tự hỏi không biết những người chiến
sĩ già nua kia có ý thức được đây là một cái bẫy hay không.
Nếu quả thật là họ biết thì sự ngay tình của họ đúng là một sự
dũng cảm. Mẹ tôi muốn có được lòng dũng cảm của họ. Nhưng, bà
nghĩ đến các con của bà. Rồi ra các con của bà sẽ như thế nào
đây? Bà không còn được tự do như thời còn đi học. Khi đến
phiên bà phải phát biểu, bà đành phải nói:"Những ý kiến phát
biểu trong bức thơ đó không phù hợp với đường lối của đảng
trong những năm sau này."
Ông Guo, thủ trưởng của mẹ tôi, cho bà biết rằng phát biểu như
vậy là chưa đạt vì chưa trình bày rõ ràng quan điểm của mình.
Mấy ngày sau, mẹ tôi cứ dằn vặt lo âu. Hai người cựu binh Hồng
Quân đã binh vực thống chế Bành bị liệt vào diện "cơ hội hữu
khuynh". Bị cất chức, họ trở thành những người lao động tay
chân. Mẹ tôi bị đưa ra trước một phiên họp và bị chỉ trích
nặng nề về những "khuynh hướng hữu khuynh" của bà. Nhân dịp
này, ông Guo nhắc lại một cái lỗi trầm trọng mà mẹ tôi đã mắc
phải trước đây. Năm 1959, ở Thành Đô một loại chợ đen gia cầm
và trứng nổi lên. Công xã nhân dân tịch thu gà của nhân dân,
trong khi đó công xã không có khả năng chăn nuôi, nên mặt hàng
này biến mất ở cửa hàng nhà nước. Một số nông dân giữ được một
vài con ở nhà bằng cách giấu dưới gầm giường, rồi đem bán ra
một cách lén lút tại các hẻm nhỏ âm u với giá cao gấp hai mươi
lần. Hàng ngày, người ta cho đi tuần tra để bắt những người
buôn bán lậu. Một hôm, ông Guo yêu cầu mẹ tôi tham dự những
cuộc bố ráp đó, mẹ tôi hỏi lại:"Thỏa mãn những gì người ta cần
thì có gì quấy đâu? Có cầu thì phải có cung chớ." Ý kiến này
của mẹ tôi khiến cho bà phải bị khiển trách về "khuynh hướng
hữu khuynh".
Đợt thanh trừng bọn "cơ hội hữu khuynh" làm xáo trộn đảng một
lần nữa, vì một số lớn cán bộ tán thành ý kiến của Bành Đức
Hoài. Như vậy phải nói rằng người ta không dám đả động gì đến
uy thế của Mao, dẫu cho ông ta sai quấy một cách rõ ràng. Viên
chức nhà nước thấy rõ rằng càng cao cấp trong đảng - họ Bành
cũng là bộ trưởng Quốc Phòng - và càng có thế có thần - ai
cũng biết thống chế Bành là người thân thích của Mao - mà xúc
phạm đến Người Cầm Lái Vĩ Đại thì nhứt định phải bị thất sủng.
Ai cũng biết rằng không có vấn đề bày tỏ ý kiến của mình rồi
từ chức, mà cũng chẳng có chuyện từ chức mà không phải là
chống đối vì bất cứ việc từ chức nào cũng bị coi như là một
dạng chống đối không thể chấp nhận được. Chẳng làm sao thoát
khỏi được hết. Chỉ còn biết yên lặng và câm mồm, đó là phương
châm hành động của đảng viên và của nhân dân. Sau vụ này, Bước
Đại Nhảy Vọt còn là đầu mối của nhiều chuyện quá lố khác càng
phi lý hơn. Những nhà lãnh đạo cấp cao áp đặt những mục tiêu
kinh tế càng viễn vong hơn nữa. Người ta động viên một khối
nông dân khác để sản xuất ra sắt thép. Rồi một lô lịnh lạc độc
đoán khác lại gieo mối bất hòa ở nông thôn.
Cuối năm 1958, khi Bước Đại Nhảy Vọt đang ở cao điểm, người ta
đưa ra một dự án xây cất khổng lồ dành cho Bắc Kinh. Mười công
trình xây dụng to lớn phải được hoàn tất trong vòng mười tháng
để, vào ngày 1 tháng 10 năm 1959, sẽ làm lễ chào mừng kỷ niệm
mười năm ngày Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc chào đời.
 Trong
số những tòa nhà này có Đại Sảnh Nhân Dân, một công trình xây
dựng có nhiều cột theo kiểu Liên Xô, nằm phía Tây quảng trường
Thiên An Môn. Mặt tiền của đại sảnh bằng cẩm thạch, chiều dài
bốn trăm thước, với một phòng đại yến, có vô số đèn chùm, có
thể chứa hàng mấy ngàn thực khách. Những phòng khách, cái nào
cũng rộng thênh thang, mang tên của các tỉnh Trung Quốc. Ba
tôi có trách nhiệm trang trí phòng khách mang tên tỉnh Tứ
Xuyên. Khi đã hoàn thành công tác, ba tôi mời những người lãnh
đạo đảng, có liên hệ đến tỉnh này, đến kiểm tra. Đặng Tiểu
Bình, người quê quán Tứ Xuyên, đáp ứng lời mời của ba tôi,
cũng như thống chế Ho Lung, một nhân vật nổi tiếng anh hùng
nghĩa hiệp, trước kia là một trong những người sáng lập Hồng
Quân và người bạn thân thích của Đặng.
Có lúc, ba tôi vì bận công chuyện phải đi nơi khác, để cho hai
người ngồi với nhau, cùng với một người đồng sự cũ, thực ra
cũng là người em của họ Đặng. Khi ba tôi trở vào thì ông nghe
thống chế Ho vừa nói với người em của Đặng vừa chỉ Đặng:"Lẽ ra
giờ phút này, ông ấy đã lên ngôi rồi." Thấy ba tôi vào, họ
ngưng nói ngay.
Sau đó, ba tôi thấy băn khoăn vô cùng khi cảm thấy rằng vì vô
tình mà ông biết được một mối bất đồng ở cấp cao. Từ nay, có
làm gì hay chẳng làm gì hết, đàng nào ba tôi cũng có thể gặp
điều chẳng may. Chung cuộc lại thì ba tôi chẳng hề hấn gì hết,
nhưng mười năm sau, khi kể lại cho tôi nghe chuyện đó, ba tôi
thú thật là từ ngày đó trở về sau, ba tôi sống trong phập
phòng lo sợ. Theo ba tôi thì "chỉ cần nghe câu nói đó không
thôi cũng đủ bị cho là phản bội, một tội ác đáng bị chặt đầu".
Điều mà ba tôi đã nghe thấy chỉ phản ảnh nỗi tuyệt vọng ghê
gớm mà Mao đã gây nên. Tâm trạng đó là của nhiều nhà lãnh đạo
cấp cao, bắt đầu từ ông Lưu Thiếu Kỳ, vị chủ tịch mới lên cầm
quyền.
Mùa thu năm 1959, họ Lưu đến Thành Đô để thanh tra một cái
làng với biệt danh là "Ánh Sáng Đỏ Hồng". Năm trước đó, Mao đã
vô cùng phấn khởi với mức sản xuất lúa gạo tuyệt vời của làng
này. Trước ngày Lưu đến thăm, cán bộ địa phương bắt tất cả
những ai bị coi như là có thể tố cáo họ và đem nhốt vào một
cái đền. Thế nhưng, nhờ có tay trong mật báo nên khi đi ngang
qua đền, họ Lưu dừng lại và yêu cầu cho nhìn qua bên trong.
Những người tháp tùng viện ra đủ mọi lý lẽ, thậm chí còn cho
rằng tòa nhà có nguy cơ sập đổ, nhưng họ Lưu đâu chịu nghe
những lời dối trá. Cuối cùng, người ta đành phải mở cái khóa
to tướng và han gỉ, thế là một toán nông dân, quần áo rách
bươm tràn ra ánh sáng, cặp mắt nhăn nheo vì bị chói. Ngượng
đến chín người, giới hữu trách địa phương tìm cách giải thích
cho họ Lưu biết rằng đó là "những tên gây rối" cần phải nhốt
lại vì sợ họ quấy rầy người khách khả kính. Biết rõ phận mình,
những người nông dân kia im phăng phắc. Dẫu cho hoàn toàn bất
lực về mặt chính trị, những ông chủ tịch xã cũng nắm quyền
sinh sát dân làng. Muốn trừng phạt ai, các quan chỉ cần bắt họ
chịu những cực hình, cắt xén khẩu phần của họ hoặc bịa đặt ra
những cớ này, cớ nọ để gây phiền hà, để tố cáo, thậm chí để
cho đương sự ngồi tù như chơi.
Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ săn sóc hỏi han, nhưng nông dân chỉ biết
mĩm cười, lầm bầm trong miệng những lời lẽ khó hiểu. Theo họ
thì thà làm mích lòng người khách đến thăm hơn là làm cho cấp
trên cận kề phải khó xử. Người khách kia sẽ trở về Bắc Kinh
trong giây lát nữa đây, trong khi những quan địa phương sẽ còn
ở bên cạnh họ suốt đời!
Một thời gian sau, một nhân vật khác đến thăm Thành Đô. Đó là
thống chế Chu Đức, có một bí thư của Mao tháp tùng. Chu Đức
quê quán ở Thành Đô. Là người đứng đầu Hồng Vệ Quân, Chu Đức
là nhân vật quân sự đã làm nên chiến thắng của chủ nghĩa cộng
sản. Từ năm 1949, không thấy ai nhắc nhở đến ông. Trong chuyến
đi này, ông thăm qua nhiều xã gần Thành Đô, sau đó ông đi dạo
dọc theo con Sông Lụa, ngắm xem những ngôi nhà, những bụi tre
và những quán trà bên trên có những vòm liễu rũ dài theo bờ
sông. Ông tấm tắc khen bằng một giọng nói đầy xúc động, như
chừng ông ngâm thơ:"Thành Đô quả thực là một nơi tuyệt trần".
Như để đối đáp, người bí thư tiếp lời Chu Đức:"Nhưng tiếc
thay, Thành Đô đã bị những báo cáo láo và những luận điệu cộng
sản giả dối làm hư hỏng hết". Cùng đi trong đoàn, mẹ tôi cảm
thấy rằng họ hoàn toàn có lý.
Nghi ngờ những người đồng sự và lúc nào cũng điên tiết vì
những lời chỉ trích, như ở Lư Sơn, Mao ngoan cố bám lấy những
đường hướng kinh tế ngông cuồng, không cần biết đến những hậu
quả. Dẫu cho phải chấp nhận duyệt xét lại một cách miễn cưỡng,
nhưng vì quá kiêu căng nên Mao không chịu loại bỏ hoàn toàn.
Thế nên, bước qua những năm sáu mươi, toàn bộ Trung Quốc phải
rơi vào một nạn đói ăn khủng khiếp.
Ở Thành Đô, khẩu phần hàng tháng dành cho người trưởng thành
bị giảm xuống còn 8,6 kí gạo, 100g dầu ăn và 100g thịt, nếu
tìm ra được. Như vậy có nghĩa là chẳng có gì để ăn, thậm chí
đến rau cải cũng không. Đông đảo người bị phù thũng vì thiếu
dinh dưỡng, da trỗ màu vàng và mình mẩy sưng vù. Phương thức
chữa trị thông dụng nhứt là ăn một thứ tảo nước ngọt, được cho
là có nhiều chất dinh dưỡng, sinh sôi nẩy nở trong nước tiểu
con người. Thế là người ta không đi tiểu ngoài thiên nhiên nữa
mà chứa sản phẩm bài tiết của mình trong những cái bô, rồi
gieo hột tảo vào đó. Vài ngày sau, hột tảo nẩy mầm, trông
giống như những trứng cá màu xanh lá cây. Người ta vớt những
hột tảo đó ra, rửa sạch xong nấu chung với gạo. Thật là dễ sợ,
nhưng cũng chữa được bịnh phù thũng.
Như mọi người, ba tôi được hưởng một khẩu phần hạn chế. Thế
nhưng, vì là cán bộ cao cấp của đảng, ba tôi được hưởng một
vài đặc quyền đặc lợi. Khu cư xá của chúng tôi có hai nhà ăn
tập thể, một cái nhỏ để cho viên chức cấp cao và gia đình, cái
kia lớn hơn, dành cho những người khác. Chẳng hạn như bà ngoại
tôi, dì tôi và người giúp việc nhà tôi đều ăn ở đó. Phần lớn,
chúng tôi đến nhận khẩu phần ở nhà ăn tập thể rồi mang về nhà.
Dễ tìm được thức ăn ở nhà ăn tập thể hơn ở ngoài đường. Chính
quyền tỉnh có một nông trại riêng và viên chức các quận tặng
cho nhiều quà. Những quà thượng thặng này được phân phối cho
hai nhà ăn tập thể, nhưng nhà ăn dành cho cấp cao thường được
biệt đãi hơn.

Ở
địa vị cán bộ đảng, ba mẹ tôi cũng được hưởng tem phiếu thực
phẩm đặc biệt. Tôi thường đi theo bà tôi đến cửa hàng bên
ngoài khu cư xá, đem tem phiếu đổi lấy đồ dùng. Tem phiếu của
mẹ tôi màu xanh, mỗi tháng đổi được năm cái trứng, gần ba mươi
gờ ram đậu nành và ngần ấy đường. Với tem phiếu màu vàng, ba
tôi nhận được khẩu phần gấp đôi. Chúng tôi tập trung lại những
thức ăn của hai nhà ăn tập thể cùng với những gì xuất phát từ
những nguồn khác để cùng ăn với nhau. Người lớn lúc nào cũng
dành một phần của suất ăn cho trẻ con. Tôi chẳng khi nào thấy
đói khi rời bàn ăn. Trái lại, những người lớn đều bị thiếu ăn
và bà ngoại tôi mắc bịnh thũng nhẹ. Bà cấy thứ tảo nói trên và
tôi trông thấy mọi người trong nhà đều ăn dù cho họ không muốn
cho tôi biết để làm gì. Một hôm tôi thử ăn một miếng, tôi phải
khạc nhổ ra tức khắc. Thật là đáng tởm! Tôi chỉ thử có mỗi một
lần duy nhứt.
Tôi chẳng hay biết gì nạn đói ăn đã lan tràn quanh tôi. Một
hôm, trên đường đến trường, tôi đang ăn cái bánh bằng bột hấp
thì bỗng dưng có một người nhảy bổ vào tôi và cướp lấy thức ăn
của tôi. Hoàn hồn lại, tôi nhìn thấy kẻ cướp món ăn của tôi là
một người ốm tong teo, đi chân đất, mặc chiếc quần đùi, vừa đi
vừa ngốn ngấu cục bột hấp của tôi. Khi thuật câu chuyện lại
cho ba mẹ tôi, thì trong cái nhìn của ba tôi hiện ra một nỗi
buồn cùng cực. Vuốt tóc tôi, ba thỏ thẻ:"Như vậy là con còn
may mắn, có những đứa trẻ như con phải chết vì đói."
Lúc bấy giờ, những vấn đề răng cỏ bắt tôi phải thường xuyên đi
khám ở bệnh xá. Mỗi lần đến đó, tôi thấy buồn nôn trước cảnh
tượng hãi hùng của hàng chục người tay chân xưng vù, bóng
lưỡng, gần như trong suốt, thân hình to tướng gần bằng những
cái thùng cây đựng rượu. Người ta đưa họ đến bệnh xá bằng
những chiếc xe kéo tay vì quá đông. Hỏi bà nha sĩ những người
đó bệnh gì thì bà thở dài và cho biết là "bệnh thũng". Khẩn
khoản mãi, vì muốn biết rõ hơn, thì bà lí nhí trong miệng
những điều gì đó, để cho tôi thoáng biết một cách mơ hồ là
chuyện liên quan đến thức ăn.
Phần đông những bệnh nhân này thuộc giới nông dân. Nạn đói lan
tràn ở nông thôn vì chế độ khẩu phần không được áp dụng ở đó.
Chính sách nhà nước chủ yếu là ưu tiên tiếp tế cho thành phố,
những chủ tịch hợp tác xã nhân dân phải tranh giành thóc lúa
cho xã viên. Ở nhiều nơi, những nông dân tìm cách cất giấu một
phần lương thực dự trữ đều bị bắt giữ, đánh đập và tra tấn.
Những người có trách nhiệm ở hợp tác xã mà đắn đo không chịu
tước lấy lương thực của nông dân bị đói ăn sẽ bị mất chức, một
số khác bị hành hung, đánh đập. Cho nên, chính những người làm
ra thức ăn lại bị chết hàng triệu trên toàn đất nước Trung
Quốc vì đói!
Sau đó, tôi được biết nhiều thân nhân trong gia đình từ Tứ
Xuyên đến Mãn Châu đều bị chết đói, nhất là người em của ba
tôi, mắc chứng chậm phát triển. Bà nội tôi mất năm 1958 và khi
nạn đói xảy ra, chú không biết phải làm sao vì chú không chịu
nghe bất cứ ai. Khẩu phần lương thực được phát hàng tháng, chú
ăn hết trong mấy ngày, không biết giữ để ăn trong những ngày
còn lại. Thế là chẳng bao lâu mà chú tôi phải chết vì đói. Dì
và dượng của tôi, bị chỉ định cư trú ở một vùng khỉ ho cò gáy,
miệt cực Bắc Mãn Châu vì trong quá khứ có liên hệ với mật vụ
Quốc Dân Đảng, cũng lần hồi chết vì đói. Khi dự trữ bắt đầu
cạn, những viên chức trong làng phân chia lương thực dựa theo
những tiêu chuẩn hoàn toàn độc đoán. Vì trước kia, dượng tôi
thuộc phe Quốc Dân Đảng nên dĩ nhiên hai vợ chồng là diện bị
cắt tiếp tế trước tiên. Con cái của họ còn sống vì hai ông bà
đương nhiên nhường phần ăn lại cho con. Cha chồng của dì tôi
cũng qua đời vì cuối cùng ông ăn cả gòn độn gối và lá tỏi khô.
 Một
đêm nọ, năm tôi lên tám, có một bà thật già, nhỏ người, mặt
mày nhăn nheo, xuất hiện trước nhà. Người bà ốm tong ốm teo và
yếu đuối, chỉ một cơn gió nhẹ cũng làm bà té nhào. Bà quỳ mọp
dưới chân mẹ tôi, cúi lạy và gọi mẹ tôi là "ân nhân của con
gái bà". À thì ra đó là mẹ của người giúp việc nhà tôi. Bà nói
thêm:"Không nhờ bà thì con gái tôi chẳng còn sống..." Thật sự
tôi không hiểu bà ấy muốn nói gì, mãi đến một tháng sau, khi
chị giúp việc chúng tôi nhận được thư nhà, báo tin bà lão đã
qua đời, chẳng bao lâu sau khi bà đến nhà chúng tôi để cho chị
ấy biết rằng chồng và con của chị đã chết vì đói ăn. Tôi chẳng
khi nào quên được những tiếng khóc nức nở đau lòng của chị
người làm, đứng trên sân thượng nhà tôi, tựa người vào cây
cột, cố gắng nén những tiếng rên rỉ tức tưởi bằng chiếc khăn
tay. Ngồi trên giường, bà tôi cũng khóc. Chạy trốn vào một
góc, gần chiếc mùng của bà, tôi nghe được bà lẩm bẩm:"Cộng sản
là những người tốt, nhưng tất cả những con người khốn khổ kia
đều chết hết..." Mấy năm sau, tôi được biết là người anh khác
của chị giúp việc và bà vợ của ông ta cũng qua đời không bao
lâu sau đó. Trong số những người đói ăn, các gia đình địa chủ
đứng sau cùng trên danh sách những người cần được tiếp tế.
Năm 1989, một cán bộ đảng, trước kia làm việc trong chiến dịch
trợ giúp chống đói, xác nhận với tôi rằng, theo ông ước lượng
thì tổng số nạn nhân của riêng tỉnh Tứ Xuyên cũng phải lên đến
bảy triệu, nghĩa là khoảng 10% tổng số dân chúng trong một
vùng nổi tiếng là sung túc. Trên toàn quốc, con số nạn nhân
phải lên đến khoảng ba mươi triệu!
Một ngày của năm 1960, đứa con gái 3 tuổi của bà láng giềng
của dì Jun-Ying tôi ở Yibin, bỗng dưng biến mất. Vài tuần lễ
sau, mẹ cháu gái đó trông thấy một đứa bé đang chơi ngoài
đường, mặc chiếc áo giống áo con bà. Bà đến gần, xem xét cẩn
thận và bắt gặp một dấu vết không phai nên bà quả quyết là áo
của con bà. Đi báo công an và cuộc điều tra cho thấy là cha mẹ
đứa bé chuyên bán thịt phơi khô. Họ đã bắt và giết chết, rồi
phân da xẻ thịt nhiều trẻ em để bán ra với giá cắt cổ, dưới
danh nghĩa là thịt thỏ. Cặp vợ chồng khủng khiếp kia bị xử tử
và vấn đề bị ém nhẹm, nhưng rồi mọi người đều biết rằng lúc
bấy giờ chuyện trẻ em bị giết hại là tương đối phổ biến.
Mấy năm sau, tôi có gặp một cộng sự viên cũ của ba tôi, một
con người hiền lành và giỏi giang, không phải thuộc hạng người
thích phóng đại. Ông ấy kể lại cho tôi với nhiều xúc động
những gì ông đã tận mắt trông thấy tại một công xã nhân dân
trong đợt đói ăn. Tại một vùng thường được mùa lúa, dù cho
người ta chẳng cần đi thu nhặt thóc rơi vãi, khoảng 35% nông
dân bị chết đói vì nhân công bị trưng dụng để sản xuất thép.
Vả lại, nhà ăn tập thể của công xã đã phung phí một lượng khá
lớn những gì họ có trong tay. Có một hôm, một gã nông dân
thình lình đến gặp ông ta trong văn phòng và quỳ xuống kêu
than là mình đã phạm phải một tội tày đình và xin được ân xá.
Thì ra, đương sự đã giết chết đứa con mình để ăn thịt. Cơn đói
là một thôi thúc không kềm hãm được đã xui ông cầm lấy con dao
để giết chính con mình. Nước mắt giàn giụa, viên chức công xã
đành ra lệnh bắt giữ kẻ có tội. Sau đó, người nông dân kia bị
xử bắn để làm gương và để ngăn chận những hành động giết con.
 Nhà
cầm quyền giải thích một cách chính thức, cho biết sở dĩ có
nạn đói là do Khrouchtchev đã đột ngột bắt Trung Quốc phải bồi
hoàn món nợ khổng lồ vay mượn trong thời chiến tranh Triều
Tiên để chi viện cho Bắc Triều Tiên. Như thế chế độ muốn cho
thấy nhà nước cũng như đại đa số quần chúng nhân dân, là những
người đã bị mất trắng còn bị chủ nợ nhẫn tâm đòi địa tô hay
bắt hoàn trả những khoản tiền vay mượn. Bằng cách nêu danh
Liên Xô, Mao Trạch Đông cũng chỉ đích danh một kẻ ngoại thù,
coi đó như là nguồn gốc của mọi tội lỗi và nhân dân Trung Quốc
phải đồng lòng đánh trả.
Tập đoàn lãnh đạo còn viện ra một nguyên nhân khác, coi như là
do một "thiên tai vô tiền khoáng hậu". Trung Quốc là một nước
rộng thênh thang và hàng năm thời tiết xấu làm cho nơi này,
nơi khác phải thiếu thốn trầm trọng. Ngoài giới chức cao cấp
ra, không một ai biết được những thông tin về thời tiết liên
hệ đến toàn quốc. Thực ra vì dân chúng không di chuyển nhiều
nên ít ai biết được chuyện gì xảy ra bên tỉnh láng giềng, thậm
chí những chuyện ở bên kia núi gần nhất cũng không biết nữa
là. Lúc bấy giờ, nhiều người Hoa nghĩ rằng đói ăn là do hậu
quả của thời tiết, thậm chí hiện nay cũng vậy. Tôi không nắm
được những dữ kiện toàn bộ có tính thuyết phục, nhưng đối với
những người thường mà tôi đã tiếp xúc được ở mọi nơi trên đất
nước Trung Quốc thì ít có ai cho rằng đói ăn là do thảm họa
thiên nhiên. Trái lại, họ còn kể hàng tá chuyện về những con
người đáng thương hại bị chết vì đói.
Đầu năm 1962, nhân một hội nghị quy tụ 7.000 giới chức cao cấp
trong đảng, Mao Trạch Đông tuyên bố rằng nạn đói ăn vừa qua có
70% do thiên tai và 30% do sai lầm của con người. Chủ tịch Lưu
Thiếu Kỳ, dường như chẳng suy nghĩ gì hết, nói rằng theo ông
thì những số liệu đó nên đảo ngược lại. Ba tôi có dư hội nghị
đó, và khi trở về nhà ba nói với mẹ:"Anh nghĩ rằng đồng chí
Lưu Thiếu Kỳ sẽ gặp khó khăn."
Khi biên bản phiên họp được phổ biến đến những cán bộ cấp nhỏ
hơn, như mẹ tôi, thì những lời phát biểu của chủ tịch Lưu
Thiếu Kỳ đã bị cắt đi. Thậm chí những phát biểu của Mao Trạch
Đông cũng không được phổ biến cho quần chúng. Giấu giếm thông
tin như thế hiển nhiên sẽ ru ngủ dân chúng, và chẳng bao giờ
ai nghe thấy có một điều than phiền nào đối với đảng cộng sản
Trung Quốc. Phần đông những người bất đồng chính kiến đã bị
loại trừ hoặc bị bịt miệng, bằng cách này hay cách khác, trong
những năm tháng trước đó. Thế nhưng, những người Hoa trung
bình chẳng thấy rõ là phải chê trách chính phủ. Chẳng hạn như
không ai có thể nói là có tham nhũng trắng trợn hay viên chức
chính phủ cướp đoạt lương thực thực phẩm. Vì thân phận của
đảng viên cũng chỉ hơn nhân dân một tí thôi. Vả lại, ở vài
thôn ấp cán bộ là những người chết đói trước hơn ai hết. Dưới
trào Quốc Dân Đảng chưa từng gặp một trận đói như thế bao giờ.
Thế nhưng, tình hình dường như khác hơn bây giờ. Trước kia đói
kém là hậu quả của những trường hợp tham ô nhũng lạm trắng
trợn.
Trước trận đói ăn, một số lớn những giới chức cộng sản, xuất
thân từ những gia đình địa chủ, đã đưa thân nhân từ nông thôn
về sinh sống gần họ ở thành phố. Khi nạn đói bắt đầu hoành
hành, đảng ra lệnh đưa những người có tuổi trở về làng mạc để
cùng với các đồng chí nông dân chia xẻ cuộc sống khó khăn, nói
một cách khác là về cùng chết đói ở đó. Đúng ra là đừng để cho
thiên hạ có cảm tưởng rằng cán bộ đảng đã lợi dụng đặc quyền
đặc lợi để đối xử ưu đãi thân quyến thuộc "giai cấp thù địch".
Ông bà của nhiều người bạn thân với tôi phải rời Thành Đô như
thế để rồi phải chết vì đói.
Phần đông những người nông dân sinh sống trong một môi trường
khép kín, thực ra họ chẳng cần bận tâm đến những gì xảy ra bên
ngoài phạm vi của thôn xóm. Họ đổ lỗi cho những người chỉ huy
họ về nạn đói kém vì đã ban ra những lệnh lạc tai hại.
Bước Đại Nhảy Vọt và cơn đói khủng khiếp này đã làm cho ba mẹ
tôi phải xao xuyến trầm trọng. Dù cho hai ông bà khó hiểu được
toàn bộ tình hình, ba mẹ tôi cũng biết rằng đâu có thể hoàn
toàn đổ lỗi cho "thảm họa thiên nhiên". Ba mẹ tôi đặc biệt cảm
thấy có lỗi vô cùng. Cả hai đều xung phong vào chiến dịch
tuyên truyền nên ba mẹ tôi đều hoạt động ngay bên trong bộ máy
ăn gian nói dối, lừa bịp dân chúng. Để cho lương tâm khỏi bị
dày vò và để thoát khỏi cái dễ dãi của nếp sống thường ngày,
ba tôi tình nguyện xung vào chương trình chống đói ở những
công xã nhân dân. Làm thế, ba tôi "đồng cam cộng khổ với quần
chúng nhân dân", đúng theo lời dạy của chủ tịch Mao. Tập thể
của ba tôi không tán thành quyết định đó của ông. Thành ra,
các người phụ tá của ba tôi phải luân phiên nhau tháp tùng
ông, một việc làm mà họ không thích vì như thế họ luôn luôn bị
đói.
Từ cuối năm 1959 cho đến 1961, nghĩa là trong giai đoạn tồi tệ
nhất của thời kỳ đói kém, tôi gần như chẳng bao giờ thấy mặt
ba tôi. Những khi ở nông thôn ba tôi ăn rau lang, ăn cỏ và ăn
vỏ cây, như nông dân. Một hôm, đang đi dọc theo một bờ mẫu
giữa hai thửa ruộng, ba tôi trông thấy một người ốm tong teo,
còn xương với da, đang từ xa tới, bước đi thật chậm, rõ ràng
là đuối sức. Bỗng dưng bóng người đó biến mất. Ba tôi chạy vội
đến nơi, thì thấy ông ta nằm xoài ra trên ruộng lúa, chết đi
vì đói.
Không có ngày nào mà ba tôi không bị nản lòng vì những cảnh
tượng đã trông thấy, dù cho ông không nhìn thấy những trường
hợp bi đát hơn vì, theo thói quen, các giới chức địa phương
lúc nào cũng bao vây ông ở những nơi mà ba tôi đi đến. Ba tôi
mắc bệnh to gan và bị phù thũng trầm trọng, đó là chưa nói đến
trường hợp nản chí khá nặng nề. Đã nhiều lần, sau những chuyến
đi dã ngoại trở về, ba tôi phải nằm nhà thương ngay. Trong mùa
hè năm 1961, ba tôi phải mất ba tháng nằm bệnh viện. Ông đã
thay đổi nhiều. Ông không còn là một con người nghiêm ngặt
khắt khe nữa. Đảng không hài lòng về ba tôi, người ta kết tội
là "để cho khí thế cách mạng bị giảm đi" và cuối cùng đuổi ba
tôi ra khỏi bệnh viện.
Ba tôi dành nhiều thì giờ để đi câu. Trước bệnh viện có một
con sông xinh đẹp tên là Sông Ngọc. Hàng liễu nghiêng mình
xuống dòng sông, cành lá mơn man mặt nước, in hình những cụm
mây luân phiên nhau tan hợp thành muôn nghìn hình ảnh phản
chiếu lung linh. Giờ này sang giờ nọ, ngồi trên bờ dốc đứng,
tôi vừa ngắm nhìn những hình dáng đổi thay đó vừa nhìn ba tôi
ngồi câu. Một mùi phân người phảng phất đâu đây trong không
gian. Trên đầu dốc là những mảnh vườn của bệnh viện, xưa kia
đầy những hoa là hoa nay người ta đã biến thành những vườn rau
xanh để tăng thêm chất rau tươi cho bệnh nhân cũng như cho
nhân viên bệnh viện. Nhắm mắt lại, tôi còn thấy những con
nhộng bướm ăn lá cải. Mấy người anh của tôi săn bắt nhộng để
ba tôi làm mồi câu. Mấy vườn rau tạm bợ này trông thật thê
thảm. Hiển nhiên là mấy ông bác sĩ và mấy cô y tá không phải
là những người chuyên môn trồng trọt.
Xuyên suốt qua lịch sử Trung Quốc, những nhà uyên bác và những
quan lại thường say mê câu cá khi họ nản lòng vì thái độ của
nhà vua. Một cung cách ẩn mình trong thiên nhiên, lánh xa
chính trị, một thái độ tiêu biểu cho nỗi chán chường và cho
tinh thần bất hợp tác.
Ba tôi ít khi câu được cá. Một hôm ông sáng tác một bài thơ
bắt đầu bằng câu:"Ta đi câu đâu cần được cá." Người bạn cùng
câu với ba tôi, một người phụ tá trong ban ngành của ba tôi,
lúc nào cũng tặng cho ba tôi một phần của số cá câu được. Như
để giúp đỡ gia đình tôi, vì năm 1961 giữa cơn đói kém, mẹ tôi
lại mang thai lần nữa. Người Hoa họ cho rằng cá là thành phần
thiết yếu để phát triển tóc của trẻ sơ sinh. Mẹ tôi không muốn
có con nữa. Ba mẹ tôi nay hưởng một bậc lương, theo đó nhà
nước không cung cấp chị vú mà cũng chẳng có người giúp việc.
Phải nuôi bốn đứa con, bà ngoại tôi và một phần của gia đình
bên ba tôi, hai ông bà phải chật vật với số lương hàng tháng.
Thu nhập của ba tôi thì một phần lớn dùng để mua sách, nhất là
những tuyển tập tác phẩm cổ điển, đôi khi phải mất hai tháng
lương. Đôi khi mẹ tôi hơi càu nhàu về vấn đề này. Một vài bạn
đồng sự của ba tôi viện cớ này nọ với nhà xuất bản để được
sách miễn phí, gọi là "để làm tài liệu", nhưng ba tôi thì nhất
quyết trả tiền sòng phẳng.
Chuyện tuyệt sinh sản, chuyện phá thai, chuyện ngừa thai chẳng
phải dễ dàng gì. Năm 1954, cộng sản đã bắt đầu áp dụng chương
trình kế hoạch hóa gia đình và chính mẹ tôi là người chịu
trách nhiệm vấn đề đó trong vùng của bà. Lúc bấy giờ mẹ tôi,
đang có thai em Xiao-hei sắp tới ngày sinh, thường khai mạc
những phiên họp thông tin bằng một cuộc tự phê đầy tính hài
hước. Nhưng, Mao Trạch Đông thay đổi ý kiến, bỗng dưng tuyên
bố quyết liệt phản đối lại chuyện kiểm soát sinh sản. Ông ta
muốn có một nước Trung Quốc lớn mạnh, dựa trên một dân số đông
đảo. Ông ta hống hách tuyên bố rằng nếu Mỹ ném bom nguyên tử
xuống Trung Quốc thì người Trung Quốc cứ "tiếp tục sinh sôi
nẩy nở" và như thế sẽ lần hồi tái lập lại di sản nhân loại.
Ngoài ra, ông còn tán thành thái độ truyền thống của nông dân
Trung Quốc liên quan đến chuyện con cái, là càng có nhiều tay
để lao động càng tốt. Năm 1957, Mao Trạch Đông đích thân gán
cho một giáo sư nổi tiếng của đại học Bắc Kinh là thành phần
hữu khuynh vì ông này chủ trương việc kiểm soát sinh đẻ. Sau
đó, hầu như chẳng ai nói đến chuyện kế hoạch hóa gia đình nữa.
Năm 1959, khi phát hiện ra là đã có bầu, mẹ tôi viết thơ cho
giới thẩm quyền ở Bắc Kinh để xin phép phá thai, theo thủ tục
hiện hành lúc bấy giờ. Thời đó, phá thai là một chuyện làm
nguy hiểm nên cần phải có sự thỏa thuận của đảng. Mẹ tôi có
nói rõ rằng vì muốn tận tụy với sự nghiệp cách mạng nên mẹ tôi
nghĩ rằng sẽ phục vụ nhân dân tốt hơn nếu không có thêm đứa
con nữa. Được phép rồi, mẹ tôi trải qua một cuộc giải phẫu vô
cùng đau đớn vì phương pháp được áp dụng đã quá lỗi thời. Năm
1961, khi mẹ tôi lại có thai nữa, các thày thuốc cho rằng
không có vấn đề giải phẫu lần thứ nhì. Vả lại, mẹ tôi cũng
cùng quan điểm và đảng cũng quy định hai cuộc phá thai phải
cách nhau ít lắm là ba năm.
Chị giúp việc nhà cho chúng tôi cũng mang bầu. Chị ấy kết hôn
với anh bảo vệ cũ của ba tôi, hiện làm việc tại một cơ xưởng.
Bà tôi pha chế cho hai người một thức uống gồm có trứng và đậu
nành, mà chúng tôi mua được nhờ tem phiếu của ba mẹ tôi và sau
đó là món cá do người đồng sự của ba tôi câu được.
Cuối năm 1961, chị giúp việc gia đình tôi sinh ra một đứa con
trai và lập tức rời khỏi nhà chúng tôi để về sinh sống với ông
chồng. Lúc còn làm cho gia đình tôi, chính chị đả đi đến nhà
ăn tập thể để lãnh phần ăn cho gia đình. Một hôm, ba tôi bắt
gặp chị đứng trong vườn đang ăn ngốn ngấu một chút ít thịt và
nhai một cách ngon lành. Ba tôi ngoảnh mặt đi chỗ khác và vội
vã bước đi để cho chị khỏi ngượng. Nhiều năm qua, ba tôi không
thố lộ với ai nỗi âu lo trong lòng ông về sự chênh lệch giữa
thực tế và những lý tưởng của ông thời niên thiếu.
Sau khi chị người làm đi rồi, chúng tôi không thể nào tìm được
người thay thế vì nạn đói kém. Những người phụ nữ muốn làm cho
chúng tôi, phần đông từ miền quê lên, không được phép có khẩu
phần. Nên chi, bà và dì tôi bị bắt buộc phải trông coi chúng
tôi.
Người em nhỏ nhất của tôi, tên Xiao-fang, sinh ngày 17 tháng
Giêng năm 1962. Trong bọn chúng tôi chỉ có một mình Xiao-fang
được mẹ tôi cho bú. Lúc mang thai nó, mẹ tôi đã muốn phá đi,
nhưng khi sinh ra, mẹ tôi lại thấy thương nó nhiều hơn nên nó
đã trở thành đứa con cưng của bà. Tất cả bọn tôi chơi đùa với
nó coi như một món đồ chơi. Em tôi lớn lên trong tình thương
yêu, do đó mẹ tôi cho rằng Xiao-fang cảm thấy thoải mái và tự
tin. Ba tôi dành cho nó nhiều thời gian hơn, điều mà ba tôi
không có dành cho những đứa lớn. Khi Xiao-fang khá lớn để có
thể chơi đùa với đồ chơi thì cứ mỗi thứ bảy ba tôi đưa nó đến
gian hàng đồ chơi ở đầu phố để mua cho nó một món mới. Khi em
tôi khóc vì một lý do nào đó không cần biết, ba tôi bỏ dở công
việc đang làm và hối hả đến dỗ dành nó.
* * *
 Cuối
năm 1961, chung cuộc lại con số mấy chục triệu người chết cũng
bắt buộc Mao Trạch Đông từ bỏ chính sách kinh tế đó. Dù không
ưng ý nhưng Mao cũng phải nhường quyền cai trị đất nước nhiều
hơn cho những con người thực tiễn là chủ tịch nước Lưu Thiếu
Kỳ và Đặng Tiểu Bình, tổng bí thư đảng. Hơn nữa, Mao còn bị
bắt buộc phải trải qua những phiên tự kiểm, rồi ra cũng đầy
dẫy những trường hợp đáng thương cho thân phận của chính ông
ta và được bóp méo để cho thiên hạ có cảm tưởng là Mao phải
gánh chịu lỗi lầm của những viên chức thiếu khả năng trên toàn
đất nước Trung Quốc. Thậm chí ông ta còn hào hiệp ra lệnh cho
đảng viên "rút tỉa bài học" từ kinh nghiệm quái ác đó, không
để cho họ có quyền phê phán nội dung của các bài học. Ông ta
còn phán rằng đảng viên đã xa rời quần chúng nhân dân và đã có
những quyết định không phản ảnh được tâm tư tình cảm của người
dân trung bình. Đối với Mao cũng như đối với những người khác,
những cuộc tự phê liên miên đó thật ra là để che đậy những
trách nhiệm đích thực mà không một ai thừa nhận.
Dù thế nào đi nữa thì lần hồi mọi chuyện cũng ổn định trở lại.
Những nhà lãnh đạo thực tiễn áp đặt một lô những cải cách quan
trọng. Chính trong bối cảnh như thế, Đặng Tiểu Bình đưa ra một
nhận xét để đời:"Mèo trắng, mèo đen, can hệ gì, miễn là nó bắt
chuột." Không còn có vấn đề sản xuất sắt thép một cách điên
cuồng nữa. Người ta loại bỏ những mục tiêu kinh tế phi lý để
chọn lấy những mục tiêu thực tế hơn. Những nhà ăn tập thể bị
dẹp bỏ và người ta công nhận trở lại một tương quan hài hòa
giữa thu nhập và lao động của nông dân. Nhà nông thu hồi lại
những tài sản bị công xã nhân dân trưng thu trước kia, kể cả
những dụng cụ nông nghiệp và những gia súc của họ. Ngoài ra,
nhà nước còn cấp cho họ những mảnh đất nhỏ, từ nay do cá nhân
họ khai thác lấy. Ở một vài nơi, thậm chí đất đai còn được cho
những gia đình lĩnh canh thuê mướn. Trên lãnh vực công nghiệp
và thương mại, một vài dạng kinh tế thị trường được chính thức
áp dụng, và trong vòng vài ba năm đất nước thịnh vượng trở
lại.
Song song với việc mở cửa kinh tế này, người ta cũng nhận thấy
cởi mở về mặt chính trị. Một số lớn địa chủ rồi cũng thoát
khỏi nhãn hiệu "kẻ thù giai cấp". Ngoài ra, hàng loạt người bị
loại trừ qua nhiều chiến dịch "thanh lọc" chính trị cũng được
phục hồi. Nhất là những người bị coi là "phản cách mạng" hồi
năm 1955, những diện "hữu khuynh" hồi 1957 và những thành phần
"cơ hội chủ nghĩa hữu khuynh" hồi năm 1959. Mẹ tôi đã nhận
được giấy cảnh cáo hồi năm 1959 vì có "xu thế hữu khuynh", thì
ba năm sau, để bù trừ lại, được thăng một cấp, lên hạng 16.
Ngoài ra, văn học nghệ thuật cũng được cởi trói. Bầu không khí
chung được cởi mở hơn. Theo ba mẹ tôi, cũng như theo nhiều
người khác, chế độ cho thấy dường như có khả năng cải thiện và
biết rút ra bài học từ những sai lầm. Cho nên, hai ông bà lại
tin tưởng ở chính phủ hơn.
Xuyên suốt qua thời kỳ lâu dài đăng đẳng đó, tôi sống trong
một cái kén, được bốn bức tường của cư xá che chở. Tôi chẳng
có chút liên hệ trực tiếp nào với những biến cố bi thảm đó. Và
trong môi trường yên tĩnh giả tạo như thế, từng bước một, tôi
thoát khỏi thời thơ ấu.
Xem
kỳ tới: C15:
Cách mạng Văn hóa mở màn
---------------------------------------
(Trích dịch theo "Les Cygnes Sauvages", Jung Chang, nxb France
Loisirs, Plon 1992.) |