"Hủy diệt cái đã, rồi tự nó sẽ tái thiết"
(Mao Trạch Đông)

Đầu
thập niên 1960, dẫu cho đã gây ra nhiều thảm họa, nhưng nhờ
được quần chúng tôn sùng, Mao vẫn còn là lãnh tụ của Trung
Quốc, một chức vụ không ai tranh giành được. Khi những con
người có đầu óc thực tiễn đã cụ thể quản lý đất nước thì thế
nào dân chúng cũng tương đối được tự do trên lãnh vực văn
chương và nghệ thuật. Khá nhiều vở diễn, nhạc kịch, phim và
tiểu thuyết xuất hiện sau một thời gian dài ngưng đọng. Không
một tác phẩm nào trực tiếp đả kích đảng vì các tác giả ít khi
đề cập đến những đề tài đương thời. Thế nhưng, lúc bấy giờ Mao
đang phải lo tự vệ, vả lại ông ta đang càng ngày càng bận tâm
với bà vợ là Giang Thanh, kịch sĩ trong những năm 1930. Những
người làm văn nghệ đồng lòng thỏa thuận khai thác đề tài lịch
sử, thực ra là để mượn chuyện xưa mà ám chỉ hiện tại, tìm cách
ngầm chống lại chế độ và chống cả Mao.
Những nhà trí thức Tàu lúc nào cũng sính mượn lịch sử để chống
đối về chính trị. Còn ngày nay thì người ta ám chỉ một cách có
vẻ như vô cùng bí hiểm nhưng đôi khi lại là những chuyện mật
kín vậy mà nhiều người vẫn biết được. Tháng 4 năm 1963, Mao ra
lịnh cấm những "kịch ma", một thể loại văn chương trong đó có
nhiều chuyện linh hồn người chết báo thù. Theo ông thì quả
thật những hồn ma rất giống với kẻ thù giai cấp bị chết dưới
triều đại của ông.
Hai vợ chồng Mao ưa thích một thể loại sáng tạo văn chương
khác, như những "thảm kịch của triều thần nhà Minh", mà nhân
vật chánh là Hải Thụy, một ông quan đời nhà Minh (1368-1644).
Là hiện thân của công lý và quả cảm, triều thần nhà Minh đó đã
binh vực những hạng thứ dân khốn khổ, bất chấp những nguy cơ
cho đời mình. Ông bị cách chức và lưu đày. Vợ chồng Mao ngỡ là
người ta lợi dụng nỗi gian truân của quan triều thần kia để
nói đến nguyên soái Bành Đức Hoài, cựu bộ trưởng Quốc Phòng,
hồi 1959 đã công khai phản đối chính sách thảm hại của Mao,
gây ra nạn đói ăn. Hầu như ngay sau khi họ Bành bị cho về
vườn, người ta đã ngạc nhiên thấy hiện tượng triều thần nhà
Minh sống dậy. Vợ Mao thử ra lịnh cấm những vở diễn đó, nhưng
các tác giả và những bộ trưởng phụ trách văn nghệ, được bà
liên lạc để bàn bạc, đều làm ngơ.
Năm
1964, Mao đưa ra một danh sách ba mươi chín nghệ sĩ, văn gia
và trí thức bị lên án. Ông ta cho họ là những "giới chức tư
sản phản động", một dạng mới của kẻ thù giai cấp. Trong số
những nhân vật lỗi lạc trên danh sách đen đó, có Ngô Hàm, kịch
tác gia nổi tiếng chuyên viết những kịch loại "triều thần nhà
Minh", cũng như giáo sư Mã Dần Sơ, trước kia là đại kinh tế
gia đã khuyến cáo trước tiên việc kiểm soát sinh sản. Vì
chuyện đó mà ông đã bị liệt vào thành phần hữu khuynh hồi năm
1957. Về sau, Mao mới thấy ra rằng kiểm soát sinh sản là cần
thiết, nhưng Mao vẫn oán giận vì Mã Dần Sơ đã có lý hơn ông
ta.

Danh sách này không được
phổ
biến
công khai nên ba mươi chín người liên hệ không bị thanh trừng.
Tuy nhiên, Mao cho phổ biến trong nội bộ chính quyền, kèm theo
những chỉ thị khuyến khích cấp lãnh đạo cơ quan trừng trị
những "giới chức tư sản phản động" khác. Trong mùa đông
1964-1965, mẹ tôi chịu trách nhiệm một tổ công tác, được phái
đến một trường học được gọi là "Chợ trâu bò". Bà có nhiệm vụ
vạch mặt chỉ tên những người khả nghi, trong số những giáo
viên tài giỏi nhất, và những tác giả sách và bài viết cần phải
canh chừng.
Mẹ tôi thấy nản lòng với công tác đó, hơn nữa, đợt thanh trừng
này lại nhằm vào chính những người mà mẹ tôi ngưỡng mộ hơn
hết. Vả lại, bà thấy rõ rằng, dù cho có tìm kiếm thật kỷ cũng
không ra một "kẻ thù" nào. Trước tiên, nhìn qua tất cả các
cuộc trừng phạt mới đây, ít thấy có ai còn dám mở miệng. Mẹ
tôi tâm sự với ông Bào, cấp chỉ huy trực tiếp của bà, là người
chịu trách nhiệm chiến dịch ở Thành Đô.
Cả năm 1965, mẹ tôi chẳng động đậy gì. Ông Bào không làm áp
lực gì mẹ tôi. Tình trạng bất động của họ phản ảnh tình hình
chung của cán bộ đảng. Phần đông họ chán ngấy những vụ trừng
phạt. Họ quan tâm đến việc cải thiện đời sống quần chúng nhân
dân nhiều hơn và tạo lấy cho mình một cuộc sống bình thường.
Dĩ nhiên là họ không cưỡng lại những quyết định chính trị của
Mao và, trái lại, còn duy trì thái độ tôn sùng cá nhân ông ta,
điều mà ông ta rất mong muốn. Một nhúm người, thường lo ngại
về việc thần thánh hóa Mao, biết rằng chẳng có cách nào ngăn
cản được, vì ông nắm quyền hành và còn uy tín. Tốt hơn hết là
họ chỉ còn có cách đối kháng một cách thụ động.
Mao thấy có bằng chứng là cán bộ đảng đã giảm bớt lòng trung
thành đối với ông, qua việc họ phản ứng lại lời ông kêu gọi
thanh trừng mới đây. Ông xác quyết là từ nay họ ngã theo đường
lối của chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ và tổng bí thư Đặng Tiểu Bình
nhiều hơn. Những điều Mao nghi ngờ được xác nhận là đúng, khi
các bộ phận báo chí của Đảng không chịu đăng một bài viết, tố
cáo nhà soạn kịch Ngô Hàm và vở diễn của đương sự nói về triều
thần nhà Minh. Cho đăng bài báo đó thực ra Mao muốn cho quần
chúng tham gia vào công cuộc thanh trừng. Lúc bấy giờ Mao thấy
ra rằng bộ máy của Đảng - trong thời gian qua lúc nào cũng là
gạch nối giữa nhân dân và bản thân ông - đã cô lập ông với
những người xung quanh. Mao không còn nắm được tình hình một
cách hữu hiệu nữa. Thành ủy Bắc Kinh, nơi mà Ngô Hàm làm phó
bí thư, và cục Tuyên Truyền trung ương, đặc trách báo chí và
nghệ thuật, chống lại Mao, nhất quyết không chịu cáo giác Ngô
Hàm hay hạ bệ đương sự.

Mao
cảm thấy lâm nguy. Ông tự đặt mình vào địa vị của một Staline
sắp bị một Khrouchtchev tố khổ, và tệ hơn Staline là trong khi
ông còn tại thế. Cho nên, ông quyết định đánh đòn phủ đầu,
nhằm hủy diệt Lưu Thiếu Kỳ, người mà ông cho là một
"Khrouchtchev Tàu" cùng với người đồng sự với Lưu là Đặng Tiểu
Bình, cũng như những người cùng phe phái với họ trong Đảng.
Một sáng kiến mà Mao mập mờ đánh lận con đen gọi là "Cách Mạng
Văn Hóa". Mao thấy rằng ông phải đơn thân độc mã, nhưng như
thế ông thấy thỏa thích vô cùng là thách thức được cả mọi
người và điều động trên một quy mô rộng lớn. Qua cung cách như
thế, người ta cũng có chút thương hại cho ông, cũng như cho
một người hùng đáng thương, một mình phải đương đầu với một kẻ
thù hùng mạnh, đáng gờm, khổng lồ, là bộ máy của Đảng.
Sau nhiều lần tìm cách phổ biến ở Bắc Kinh tài liệu đả kích vở
hát của Ngô Hàm mà không được, ngày 10 tháng 11 năm 1965, Mao
đưa được bài viết lên báo ở Thượng Hải là nơi mà đàn em của
Mao nắm vững tình hình. Chính trong bài viết đó mà thành ngữ
"Cách Mạng Văn Hóa" xuất hiện lần đầu tiên. Tờ "Nhân Dân Nhựt
Báo" từ chối không chịu đăng, cũng như tờ "Bắc Kinh Nhật Báo",
tiếng nói của Đảng ở thủ đô. Lúc bấy giờ, ba tôi coi tờ "Tứ
Xuyên Nhật Báo". Ông cũng không chịu đăng bài viết đó, cho
rằng bài viết là để đả kích nguyên soái Bành Đức Hoài và để hô
hào một đợt thanh trừng mới. Ba tôi quyết định đi tham khảo
người trách nhiệm những vấn đề văn hóa của tỉnh. Ông này đề
nghị nên điện thoại lấy ý kiến của Đặng Tiểu Bình. Ông Đặng
không có mặt tại văn phòng, nhưng nguyên soái Hà Long, một
trong những người thân tín của ông Đặng, ủy viên Bộ Chính Trị,
trả lời thay. Đó chính là người, mà ba tôi đã nghe thì thầm
hồi 1959 câu nói "Đáng lẽ ông ta (Đặng Tiểu Bình) phải lên
ngôi rồi", khuyên ba tôi chớ nên đăng bài viết đó.
Rốt cuộc lại, Tứ Xuyên là một trong những tỉnh đã đăng bài
viết có vấn đề đó, vào ngày 18 tháng 12. Ban biên tập "Nhân
Dân Nhựt Báo", cuối cùng cũng quyết định làm theo, vào ngày 30
tháng 11, có kèm theo một ghi chú do Chu Ân Lai thảo ra. Ông
Thủ tướng đóng một vai trò hòa giải trong cuộc tranh giành
quyền bính đó. Trong đoạn tái bút, dưới danh nghĩa một "tổng
biên tập", ông viết rằng Cách mạng văn hóa phải là một cuộc
tranh cải có tính lý luận, nói cách khác là phi chính trị, thế
nên không thể tạo điều kiện để lên án về chính trị.
Trong vòng ba tháng sau đó, đã xảy ra đủ thứ thủ đoạn do những
người chống đối Mao và Chu Ân Lai chủ xướng, nhằm chận đứng
đợt thanh trừng này. Tháng Hai năm 1966, trong khi Mao đi
vắng, Bộ Chính Trị cho thông qua một nghị quyết, quy định rằng
các cuộc "tranh cải qua lý luận" không thể đưa tới việc thanh
trừng. Mao phản đối nghị quyết này, nhưng người ta không mấy
quan tâm đến phản ứng của ông ta.
Tháng Tư, người ta yêu cầu ba tôi soạn thảo một tài liệu trong
tinh thần của nghị quyết để làm kim chỉ nam cho Cách Mạng Văn
Hóa của tỉnh. Hồ sơ mang tên "Tài liệu tháng Tư" quy định đại
để là các cuộc tranh cải phải tuyệt đối mang tính cách lý
luận, những lời buộc tội vô căn cứ tuyệt đối bị cấm chỉ, mỗi
người đều bình đẳng trước chân lý, đảng không nên lấy vũ lực
để loại trừ trí thức.
Hồi tháng Năm, khi tài liệu sắp được phổ biến thì đột nhiên
lại có lệnh hủy bỏ. Bộ Chính Trị lại có một quyết định mới.
Lần này thì có mặt Mao và ý kiến của ông ta thắng thế, với sự
tiếp tay của Chu Ân Lai. Mao xé toạc nghị quyết tháng hai và
tuyên bố rằng tất cả những tên trí thức ly khai, cùng với
những tư tưởng của bọn nó nhất định phải bị loại bỏ. Mao khẳng
định là cán bộ đảng viên, mà ông coi như là những "chúa tể tôn
thờ đường hướng tư bản", bao che những tên phản động đó, cũng
như những "kẻ thù khác của giai cấp", nên cần phải bị diệt
trừ. Thế là người ta nhanh chóng gọi họ là những người "chạy
theo con đường tư bản". Như thế, cuộc Cách Mạng Văn Hóa đã
chính thức được phát động.
Thế thì "ai là người chạy theo con đường tư bản"? Chính Mao
cũng không biết chắc. Trái lại, ông ta biết mình muốn thay thế
toàn bộ ủy ban của Đảng ở Bắc Kinh, và phải làm gấp. Ông ta
cũng muốn loại bỏ Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, và những
"thành phần tư sản nòng cốt trong Đảng". Có điều là ông ta
chẳng có một chút ý kiến gì về con số những người ủng hộ ông
trong bộ máy to lớn của Đảng, mà cũng không biết tầm quan
trọng của số lượng những người tận tâm với Lưu Thiếu Kỳ, Đặng
Tiểu Bình và với "con đường tư bản". Ông ta ước tính là chỉ
nắm được chừng một phần ba. Muốn cầm chắc là không một kẻ thù
nào thoát khỏi tay ông ta, Mao quyết định loại bỏ toàn bộ Đảng
cộng sản một cách triệt để. Những người ủng hộ ông ta đương
nhiên sẽ tồn tại qua sự xáo trộn này. Theo như cách nói của
Mao thì:"Hủy diệt cái đã, rồi tự nó sẽ tái thiết". Nếu như
đảng có bị tiêu tan cũng không có chút gì làm cho ông ta phải
lo âu. Ông Mao hoàng đế lúc nào cũng thắng thế hơn ông Mao
cộng sản. Ông ta chẳng chút gì bận tâm nếu như phải làm thiệt
hại một cách bất công những người trung thành ủng hộ ông. Hồi
thế kỷ thứ I của thời đại chúng ta, một trong những vĩ nhân,
quyền thần Tào Tháo, có đưa ra một câu nói bất hủ mà Mao mượn
lấy làm của mình:"Ta thích làm hại mọi người trên trái đất
này, còn hơn để cho một người trong bọn họ làm hại ta." Câu
ngạn ngữ đáng ghi nhớ này, Tào Tháo nói lên trong trường hợp
ông ra lệnh giết lầm một cặp vợ chồng lớn tuổi vì bị nghi phản
bội ông trong khi thực ra là họ cứu mạng sống cho Tào.
Những mệnh lệnh hiếu chiến của Mao làm cho dân chúng và phần
đông cán bộ đảng hoàn toàn bấn loạn, hơn nữa những lệnh đó khá
mơ hồ. Phần đông họ không biết Mao muốn gì và rất khó mà xác
định kẻ thù. Noi gương toàn bộ những viên chức cao cấp, ba mẹ
tôi hiểu rằng Mao quyết định trừng phạt một số cán bộ nào đó
trong đảng, nhưng hai ông bà chẳng thấy Mao muốn nhắm vào
người nào. Rất có thể ba mẹ tôi cũng nằm trong số những người
đó. Hai người lo sợ và rầu rĩ vô cùng.
Dù sao, Mao vừa phát động một phong trào quan trọng nhất ở
chức vụ chủ tịch của mình qua việc thành lập một hệ thống kiểm
soát đặc biệt, lại còn hoạt động bên ngoài guồng máy đảng. Tuy
nhiên, Mao có thể cho rằng hệ thống đó thi hành theo lệnh đảng
vì ông chính thức đặt nó dưới trướng của Bộ Chính Trị và Ủy
Ban Trung Ương.

Mao
bắt đầu chọn nguyên soái Lâm Bưu làm phụ tá. Họ Lâm đã kế tục
Bành Đức Hoài ở chức vụ bộ trưởng Quốc Phòng năm 1959, và ông
đã có công trong việc nâng cao uy tín cá nhân của Mao trong
quân đội. Ngoài ra, Mao còn thiết lập một bộ phận mới trong
chính phủ, mang danh hiệu "Ban Lãnh Đạo Cách Mạng Văn Hóa", do
Trần Bá Đạt, bí thư của Mao, điều khiển và Khang Sinh, trùm
mật vụ, cùng Giang Thanh, vợ của Mao, chỉ huy trên thực tế. Bộ
phận này là công cụ hữu hiệu nhất của Cách Mạng Văn Hóa.
Sau đó, Mao bắt đầu tấn công đến các cơ quan truyền thông, đặc
biệt là tờ "Nhân Dân Nhựt Báo", mà ai cũng biết là cơ quan
chính thức của đảng. Quần chúng đã quá quen thuộc với chuyện
tờ báo này là tiếng nói của chế độ. Ngày 31 tháng 5, Mao bổ
nhiệm Trần Bá Đạt làm Chủ nhiệm tờ báo này, như thế ông bảo
đảm có được tuyến thông tin trực tiếp dành cho hàng trăm triệu
người Hoa.
Kể từ tháng 6 năm 1966, tờ "Nhân Dân Nhựt Báo" loan đi trên
khắp nước hàng loạt những bài xã luận vang dội, ca tụng "uy
quyền tối thượng của chủ tịch Mao", cổ vũ nhân dân đứng lên
"đập nát bọn đầu bò quỷ sứ và bè lũ rắn rết ma vương" - kẻ thù
của giai cấp - để cùng với Mao lao vào cuộc Cách Mạng Văn Hóa,
một sự nghiệp vĩ đại, vô tiền khoáng hậu.
Trường học của tôi bắt đầu nghỉ hè từ đầu tháng sáu, nhưng
người ta bắt chúng tôi tiếp tục đến trường mỗi ngày. Các loa
phóng thanh cứ ra rả rống lên để phát đi những bài xã luận của
tờ "Nhân Dân Nhựt Báo" cùng với những bài trang nhứt mà chúng
tôi phải học tập mỗi sáng, một trang báo thường bị ảnh chân
dung của người "lãnh tụ vĩ đại" chiếm gần hết. Mỗi ngày, những
khẩu hiệu của Mao trám đầy một cột báo. Nay tôi còn nhớ những
khẩu hiệu đó, vì cứ lập đi lập lại mãi nên đã in sâu trong
những góc thầm kín của bộ não tôi.
Như những câu: "Chủ Tịch Mao là vầng thái dương hồng soi sáng
trong lòng chúng ta!" "Tư tưởng Mao Trạch Đông chỉ đạo cung
cách xử thế của chúng ta!" "Chúng ta sẽ tiêu diệt không thương
xót bất cứ ai chống đối lại Chủ tịch Mao!" "Cả thế giới tôn
thờ Chủ tịch Mao, lãnh tụ vĩ đại của chúng ta!" Có những trang
báo đầy ấp những lời bình phẩm tán tụng của những nhân vật
nước ngoài và những hình ảnh cho thấy quần chúng người Tây
phương tranh giành những tác phẩm của Mao. Qua cung cách đề
cao tình cảm yêu nước cũa chúng tôi như vậy, thiên hạ càng
nâng cao thái độ tôn thờ Mao.
Chẳng bao lâu sau đó, chuyện đọc báo hàng ngày được thay thế
bằng việc đọc lại những lời trích dẫn của Chủ tịch Mao mà
chúng tôi phải học thuộc lòng, được tập hợp lại thành một
quyển sách bỏ túi, bìa nhựa đỏ, nổi tiếng là "Mao Tuyển". Mỗi
người được một quyển, phải được gìn giữ cẩn thận như "con
ngươi của mắt mình". Hằng ngày, chúng tôi phải đồng loạt hát
lên nhiều đoạn một cách liên tục, không mệt mỏi. Giờ đây, tôi
cũng còn bập bõm được khá nhiều lời trích dẫn đó.
Có một hôm, chúng tôi đọc được trên "Nhân Dân Nhựt Báo" có một
người nông dân già treo ba mươi hai bức chân dung của Mao trên
vách của phòng ông, "để mỗi khi mở mắt ra là nhìn thấy được
dung nhan của Chủ tịch Mao, dẫu cho ông quay mặt về hướng
nào". Đến phiên chúng tôi cũng treo đầy trên tường lớp học
những hình ảnh của một Chủ tịch Mao hớn hở và miệng cười một
cách ngây ngô. Thế nhưng, chúng tôi phải vội vàng gỡ ngay vì
có tin đồn rằng người nông dân kia thực ra dùng những hình ảnh
của Mao như là giấy dán vách, bởi lẽ những chân dung của Lãnh
tụ vĩ đại của chúng tôi đều được in trên giấy tốt lại được
phát không. Thiên hạ còn loan truyền rằng ông nhà báo, tác giả
bản tin kia, là kẻ thù giai cấp, muốn mượn bài viết để "bêu
xấu Chủ tịch Mao". Đây là lần đầu tiên nỗi khiếp sợ người lãnh
tụ đã len lỏi vào tiềm thức tôi.
Cũng như những
phiên tố
khổ
khác, trường tôi có một toán làm việc cố định. Làm cho có,
toán này đã tố cáo nhiều giáo viên, trong số những thầy cô
giỏi nhứt, là "phần tử tư sản phản động", mà chẳng báo cho học
trò hay biết gì hết. Tháng Sáu năm 1966, cuống cuồng vì làn
sóng Cách Mạng Văn Hóa ập tới và thấy cần phải đào cho ra nạn
nhân, toán này bất thình lình đưa tên những bị cáo trình cho
cả trường.
Họ cũng thuyết phục học sinh và giáo viên, trước nay được miễn
viết biểu ngữ và bích chương tố cáo, bắt đầu làm chuyện đó, và
không mấy chốc mà bích chương và biểu ngữ đã đầy khắp sân
trường. Những giáo viên cũng phải lăn xả vào làm, vì nhiều lý
do khác nhau, như làm cho phải lẽ, làm vì trung thành với
đảng, vì ganh tị với uy tín và đặc quyền đặc lợi của những
giáo viên khác và nhứt là vì sợ sệt.
Trong số những nạn nhân bị tố, có thầy Trì, giáo sư Hoa ngữ và
văn chương Trung Quốc mà tôi rất kính mến. Cứ theo một trong
những bích chương dán trên tường thì đầu thập niên 60, thầy có
nói:"Hô hào 'Bước Đại Nhảy Vọt muôn năm' cũng không trám đầy
được bao tử!" Vì lúc bấy giờ tôi đâu có biết là Bước Đại Nhảy
Vọt đã tạo ra cảnh đói ăn nên tôi không hiểu được câu nói đó
ám chỉ điều gì, dẫu cho tôi cũng thấy ngay rằng làm như vậy là
vô lễ.
Ở
thầy Trì, có một cái gì làm cho tôi thấy thầy không phải như
những người khác. Lúc bấy giờ, tôi không xác định được đó là
điều gì, nhưng bây giờ thì tôi nghĩ là chính vì thái độ mỉa
mai kia mà thầy chẳng bao giờ chịu từ bỏ. Thầy thường có những
cái cười ngắn gọn, hơi khô khan, gần giống như tiếng ho, cho
thấy rằng thầy không nói hết những gì muốn thố lộ. Có một ngày
kia, thầy có một phản ứng giống như thế, khi tôi đưa ra một
thắc mắc.

Một trong những bài học trong sách Hoa ngữ của chúng tôi có
một trích đoạn hồi ký của Lục Định Nhất, lúc đó là bộ trưởng
Tuyên Truyền, thuật lại kinh nghiệm của ông trong cuộc Vạn Lý
Trường Chinh. Thầy Trì lưu ý chúng tôi đoạn miêu tả sống động,
tường thuật cảnh binh lính leo một con đường mòn hình chữ chi
để lên núi, dưới ánh lửa bập bùng của các ngọn đuốc bằng cây
thông, trong một đêm đen không trăng. Cuối cùng, khi họ đến
được doanh trại, "cả bọn nhảy vào tô đựng thức ăn, nuốt ngốn
ngấu trong chớp nhoáng". Chi tiết này làm tôi ngạc nhiên, vì
người ta thường bảo rằng các chiến sĩ Hồng Quân lúc nào cũng
nhường miếng ăn cuối cùng cho bạn bè, dù cho chính họ phải
chết đói. Không thể nào tưởng tượng được cảnh họ đang "bổ nhào
chớp lấy miếng ăn". Thầy húng hắn ho, giải thích rằng tôi
không biết được chết đói là thế nào, rồi nhanh chóng chuyển
sang đề tài khác. Tôi chưa tin hẳn là như vậy.
Dù sao đi nữa, tôi cũng rất kính trọng thầy Trì. Tôi thấy nản
lòng là tại sao người ta lại có thể lên án ông một cách vô căn
cứ như vậy, cũng như những giáo viên khác mà tôi ngưỡng mộ,
hơn nữa lại còn chưởi rủa một cách nhục nhã. Tôi thật sự cảm
thấy kinh hoàng khi toán công tác đó biểu chúng tôi thảo ra
những bích chương nhằm "bức hại và tố cáo họ".
Lúc bấy giờ tôi mới có mười bốn tuổi đầu và đương nhiên chán
ghét mọi hoạt động đấu tranh. Tôi chẳng biết viết gì trên bích
chương của tôi. Những nét chữ đen ngòm dễ sợ, che kín những tờ
giấy trắng to tướng làm cho tôi khiếp đảm, cũng như sự hung
bạo và loại ngôn ngữ quái đản được sử dụng. Chẳng hạn như "Hãy
đập đầu thằng chó X...", hay "Nếu nó không chịu thua thì ta sẽ
thủ tiêu tên Y..." Tôi đành đi đến chỗ quyết định trốn học, ở
nhà là hơn. Thái độ đó làm cho tôi bị chỉ trích không thôi qua
những cuộc họp liên miên, từ nay đã trở thành sinh hoạt chủ
yếu của đời sống học sinh chúng tôi. Người ta lên án tôi là cứ
"lo cho gia đình". Tôi sợ những cuộc họp như thế. Tôi có cảm
tưởng là một nguy cơ sắp xảy đến cho tôi.
Một hôm, thầy Cam, hiệu phó của trường, một con người vui tính
và cương quyết, cũng bị cáo buộc ca ngợi chủ nghĩa tư bản và
bao che những giáo viên bị lên án. Tất cả những gì thầy đã dạy
ở lớp học trong bao năm qua đều bị cho là có tính "tư bản", kể
cả việc nghiên cứu các công trình của Mao, viện lẽ rằng thầy
không dành đầy đủ thời gian như những môn khác.
Tôi cũng thấy chán hết sức khi người ta buộc tội thầy Sơn,
người bí thơ chi bộ thanh niên cộng sản của trường tôi, với lý
do là ông "chống lại chủ tịch Mao". Ông là một người khá đẹp
trai mà tôi muốn làm cho ông để ý, vì biết rằng ông có thể
giúp tôi gia nhập chi bộ khi tôi đã đến tuổi tối thiểu là mười
lăm.
Thầy Sơn dạy triết lý mác-xít cho học sinh từ mười sáu tới
mười tám tuổi và có yêu cầu họ viết nhiều luận văn. Khi sửa
bài, thầy có lọc ra một số đoạn mà thầy cho là diễn đạt rất
khéo. Những trích đoạn đó, mà nội dung chẳng ăn nhập gì với
nhau cả, được học trò của thầy ráp nối lại thành một bản văn,
dĩ nhiên là không đầu không đuôi, lại được các bích chương dán
trên tường cho là có tính chống Mao. Mấy năm sau, tôi được
biết là phương pháp phi lý đó, nhằm lấy râu ông này cắm càm bà
nọ, đã được sử dụng từ năm 1955, năm mà mẹ tôi bị cộng sản
tống giam lần đầu tiên và khi những nhà văn lúc bấy giờ đã áp
dụng để lăng nhục một vài đồng nghiệp.

Mãi
lâu về sau, thầy Sơn kể cho tôi biết là ông hiệu phó và thầy
đã bị chọn làm nạn nhơn chỉ vì, trong giai đoạn thiết yếu, hai
người không có mặt ở đó. Vì là thành viên của một tổ công tác
khác nên hai người không thể dự phiên họp quyết định, thế là
hai người đành phải gánh chịu hết. Hơn nữa,
vì hai người bất đồng ý kiến với ông hiệu trưởng, người đã có
mặt trong phiên họp, nên tình trạng của họ càng thêm phần trầm
trọng. Thầy Sơn giải thích cho tôi một cách sống sượng:"Nếu mà
chúng tôi có mặt hôm đó, đứng vào vị trí của ông ta, thì đừng
hòng gì thằng trời đánh đó làm gì được."
Thầy Cam, hiệu phó, lúc nào cũng trung thành với đảng cho nên
tự coi như bị nhục mạ một cách khủng khiếp. Một thời gian sau,
có một đêm thầy lấy dao cạo cắt cổ, để lại mấy lời trăn trối.
Vợ thầy, bất chợt về nhà sớm hơn mọi khi, nên kịp đưa thầy vào
nhà thương. Tổ công tác trực phiên ém nhẹm vấn đề. Đối với một
đảng viên như thầy Cam, mưu toan tự vận thì cũng chẳng khác
nào một sự phản bội, một cung cách hờn dỗi muốn cho thiên hạ
hiểu rằng đương sự chẳng còn tin tưởng gì ở đảng. Thế nên, con
người đau khổ đó chẳng được chút xót thương. Thế nhưng, những
người tố giác ông cũng cảm thấy khó chịu. Họ biết rõ là họ đã
tạo dựng ra những nạn nhơn, chẳng cần chút bằng chứng nào hết.
Khi biết được tai nạn của thầy Cam, mẹ tôi òa lên khóc nức nở.
Mẹ tôi rất có cảm tình với thầy. Thừa biết bản chất lạc quan
của thầy, mẹ tôi đoan chắc là thầy phải gặp những áp lực rất
tàn nhẫn vô nhân đạo nên mới đi đến chỗ tuyệt cùng như vậy.
Tại trường học của bà, mẹ tôi không chịu chạy theo đà hốt
hoảng và truy hại đó. Thế nhưng, vì bị bài viết trên tờ "Nhân
Dân Nhựt Báo" kích thích, học trò của trường cũng bắt đầu đứng
lên chống lại các giáo viên. Cơ quan báo chí của đảng chủ
trương "loại bỏ" chế độ thi cử, một sinh hoạt được kể như "coi
học sinh là kẻ thù" (như lời nói của Mao) và nằm trong những
mưu mẹo lừa dối do bọn "trí thức tư sản", nghĩa là đa số các
giáo viên, hình thành (cũng theo lời Mao). Tờ báo cũng tố giác
những tên "trí thức tư sản" tìm cách đầu độc tinh thần giới
trẻ bằng những trò ngớ ngẩn, mang tính tư bản, để chuẩn bị cho
Quốc Dân Đảng trở lại. Chủ tịch Mao có quyết định là:"Chúng ta
không thể chấp nhận để cho bọn trí thức tư sản thống trị
trường học của chúng ta nữa!"
Một hôm đến trường bằng xe đạp, mẹ tôi phát hiện ra rằng học
trò đã tập họp ông hiệu trưởng, thầy giám học và những giáo
viên cao cấp nhứt mà họ cho là "tư sản và phản động", dựa theo
luận điệu của báo chí quốc doanh, cùng với những nhà giáo khác
mà họ không ưa thích. Sau đó, họ đưa tất cả vào nhốt trong một
phòng học, ngoài cửa dán một tấm bảng đề:"lớp học quỷ sứ".
Những nạn nhân để cho họ mặc tình muốn làm gì thì làm, vì Cách
Mạng Văn Hóa đã làm cho đầu óc họ hoàn toàn bị xáo trộn. Dường
như kể từ nay, bọn học trò có được một thứ uy quyền, dẫu rằng
không được minh định rõ rệt, nhưng cũng là điều thực tế. Sân
trường tràn ngập những bích chương khổng lồ, thường chứa đầy
những tựa của tờ "Nhân Dân Nhựt Báo".
Trên đường đi tới lớp học, biến thành phòng giam, mẹ tôi phải
qua ngang nhiều tốp học trò. Một số người nhìn mẹ tôi một cách
dữ tợn, vài người khác có vẻ hỗ thẹn hoặc lưỡng lự và một số
khác thì đăm đắm nhìn mẹ tôi với vẻ lo âu. Nhiều thiếu niên đi
theo mẹ tôi từ lúc bà mới đến. Với tư cách là trưởng tổ công
tác, mẹ tôi có được quyền hành tối thượng và được coi như hiện
thân của đảng. Bọn học trò chờ lịnh, vì sau khi nhốt giáo viên
rồi họ không biết phải làm gì.
Mẹ tôi ra lịnh cho họ là phải thả "lớp học quỷ sứ" ra. Đám
đông có vẻ xôn xao nhưng không một ai nghi ngờ gì mệnh lệnh
đó. Một đám con trai càu nhàu điều gì đó, nhưng họ lại im lặng
khi mẹ tôi yêu cầu họ nói rõ ra. Mẹ tôi giải thích rằng họ
không có quyền giam giữ người mà không có lịnh và họ không
được bạc đãi giáo viên của họ là những người, trái lại, đáng
được mang ơn và kính trọng. Người ta mở cửa lớp học, thế là
những "người tù" đã được phóng thích.
Như vậy, mẹ tôi tỏ ra vô cùng can đảm khi bà có hành động
thách thức trào lưu của thời thế như vậy. Nhiều tổ công tác
khác nhằm vào những người hoàn toàn vô tội cốt để tự cứu lấy
mình. Thực ra, mẹ tôi có những lý do hết sức đặc biệt để lo
nghĩ. Những nhà cầm quyền cấp tỉnh đã bắt được những kẻ bung
xung và linh tính cho ba tôi biết rằng ông sẽ là nạn nhân kế
tiếp của họ. Nhiều người đồng sự của ba tôi đã kín đáo cho ba
tôi biết rằng trong những tổ chức trực thuộc ba tôi, người ta
đã rỉ tai nhau là cần phải xét lại trường hợp của ba tôi.
Ba
mẹ tôi không khi nào cho tôi hoặc anh chị em tôi biết những
chuyện đó. Những nỗi sợ hãi đã từng xui khiến ba mẹ tôi im hơi
lặng tiếng về những đề tài chính trị và do đó cũng làm cho ba
mẹ tôi không cởi mở tâm tình với chúng tôi. Bây giờ thì lại
càng khó cho ba mẹ tôi nói ra hơn nữa. Tình hình đã trở nên
quá phức tạp và hỗn độn đến đổi ba mẹ tôi cũng chưa hiểu được
nữa. Phải ăn nói làm sao cho chúng tôi hiểu được đây? Vả lại,
nói để làm gì? Không có ai thay đổi được gì hết. Hơn nữa, biết
quá nhiều thì lại nguy hiểm to. Như vậy là anh chị em chúng
tôi, và cả tôi nữa, hoàn toàn không được chuẩn bị cho cuộc
Cách Mạng Văn Hóa, dẫu rằng chúng tôi cũng mơ hồ có cảm tưởng
về một tai biến đang ngấm ngầm hình thành.

Trong bầu không khí căng thẳng đó, tháng tám lù lù tới. Bỗng
nhiên, như một trận cuồng phong thổi qua nước Tàu, hàng triệu
hồng vệ binh ồ ạt xuất đầu lộ diện.
Kỳ trước : C12:
Những năm đói ăn
(Kỳ tới: Hồng Vệ Binh của Mao)
---------------------------------------
(Trích dịch theo "Les Cygnes Sauvages", Jung Chang, nxb France
Loisirs, Plon 1992.) |