Sài Gòn nỗi nhớ
không tên
Tôi xách chiếc giỏ đầy quà đi lên cầu thang. Cầu thang khu chung cư
đã xuống cấp thảm hại. Hai bên sơn đã tróc, rỉ sét. Vách tường cáu
bẩn, lem nhem như một tờ giấy ướt bị trẻ con vẽ ngoằn nghèo những
hình ảnh quái dị. Tôi lần theo từng bậc tam cấp và cố nhớ lại những
người hàng xóm sống trong chung cư. Những hàng cây kiểng, chậu hoa
bên lan can nhà của nhà văn Lưu Linh không còn trổ bông. Nhà của nhà
thơ Trang Ngọc cửa đóng kín. Tôi hỏi thăm người quen mới biết cả hai
vợ chồng đã chết cách đây ba năm vì bệnh ung thư phổi. Nhà của nhạc
sĩ Trường Giang thì các cánh cửa tối om không có ánh đèn. Ông không
vợ con chỉ sống đơn độc một mình. Ông đã dọn đi đâu hay cũng đã đi
vào cõi âm? Ở tuổi trên 60 tại Việt Nam, còn sống sót là may mắn.
Rượu, thuốc lá, lo âu, sầu thảm, bất đắc chí, cô đơn, vô vọng, đói
khát, nghèo nàn, bon chen, giành giựt, đối phó, giẫm đạp lên
nhau...là những căn bệnh thế kỷ của Việt Nam.
Tôi lọc cọc bò lên cầu thang như một con rùa lật ngược. Nhà má Hai ở
tầng lầu thứ 8 không có thang máy. Tôi cũng chẳng hiểu vì sao hai
ông bà già đến bây giờ vẫn còn sống cheo leo trên chót vót tám từng
mây. Có thể họ còn yêu mến sự yên tỉnh, hay họ còn nhớ những kỷ niệm
đã trôi qua trong suốt cuộc đời cầm bút. Tôi không còn nhớ tôi quen
họ lúc nào, ở đâu? Nhưng theo thời gian, tôi trở thành người quen
thuộc trong gia đình. Có thể vì tôi là dân Nam Bộ, quen ăn ngay nói
thẳng, không úp mở, cong queo, màu mè hoa lá. Con người tôi bộc
trực, trơn tuột như cánh hoa giấy, hoa mười giờ mọc um tùm dưới tia
nắng ban mai. Tôi cũng chẳng biết trang điểm sự lừa dối trên khuôn
mặt mình để che giấu cảm xúc. Tôi là vậy, muôn thuở, muôn đời làm
cho kẻ yêu, người ghét.
Tôi đứng trước cánh cổng khoá kín. Nhìn quanh, trời mây bao la. Nắng
xuân hây hây lay động những hàng cây trước mặt. Thành phố Sài gòn
dưới chân tôi thu nhỏ lại như một tấm bản đồ chi chít những dòng
chữ, những chiếc ô vuông, hình chữ nhật dài ngắn, thấp cao. Giàn hoa
giấy cạnh nhà má Hai đã biến mất, những hàng dây trầu bà có lá xoè
to như hai bàn tay đan lại đã không còn rung rinh trong gió. Những
giò lan rừng đã khô héo, quắc queo. Tôi không còn tìm thấy sinh khí,
sự sung mãn và sự sống cây cỏ nơi căn nhà tôi đã từng đến viếng
thăm, cư ngụ mỗi khi về thăm vợ chồng má Hai. Một người đàn ông dẫn
theo một đứa bé gái độ năm tuổi, bước đến gần bên tôi, và nói vọng
xuống cầu thang:
- Hằng à! Ông bà Hai chưa về đâu em.
Giọng người phụ nữ gay gắt vang lên:
- Tôi đã nói với anh là họ chưa về, bửa khác tới thăm anh không chịu
nghe.
Đứa bé nhảy choi choi vòng quanh chân người đàn ông. Nó có vẻ thích
thú khi thấy chiếc giỏ của tôi chất đầy quà có một con búp bê màu
hồng nhồi bông, rất xinh xắn. Bàn tay nhỏ của nó khiều nhẹ vào giỏ,
và quay sang người đàn ông nói:
- Ba, con thích con búp bê.
Người đàn ông nắm tay nó, giọng âu yếm:
- Ba sẽ mua cho con.
Cái môi đỏ chót của nó trề ra, đôi mắt chớp chớp như nũng nịu:
- Con muốn bây giờ.
- Bây giờ làm sao mà có.
Cô bé khóc ào lên, đôi mắt nó không rời khỏi con búp bê trong giỏ đồ
chơi của tôi. Giọng nói của người mẹ nghiêm khắc vang lên khiến cô
bé im lặng không dám khóc:
- Không được nhõng nhẽo. Không phải thấy cái gì cũng đòi cho được.
Hư lắm nhé Trâm.
Tôi ngước nhìn người đàn bà có thân hình nặng nề nên chiều cao đã
biến mất. Mái tóc lưa thưa, rẽ đường ngôi ở giữa đã bạc màu muối
tiêu. Khuôn mặt tròn với chiếc mũi xẹp, và đôi mắt nhỏ. Tôi chợt
giật mình nhìn kỹ người đàn ông trước mặt. Có thể nào là Trí. Tôi
định thần nhìn lại và bất giác kêu lên:
- Xin lỗi, ông cũng đến tìm ông bà Hai sao? Có phải ông
là...là...à...
- Tôi là Trí. Còn bà?
Tôi vui mừng:
- Thương đây. Chắc ông còn nhớ tôi.
Trí ngạc nhiên nhìn tôi một lúc và kêu lên:
- Trời không ngờ gặp Thương ở đây.
Hằng hết nhìn tôi từ đầu đến chân, rồi nhìn Trí và nói:
- Tôi nhớ chị rồi. Tôi thấy hình của chị, và đã gặp chị một lần.
Tôi gật đầu:
- Tôi đi công tác chung với anh Trí. Tôi có nghe nói về chị nhưng
tiếc là chưa được làm quen.
- Anh Trí vẫn còn giữ rất nhiều hình của chị.
- Vậy sao? Tôi không hề biết.
Hằng nhìn chồng một lúc rồi đột ngột nắm tay bé Trâm dẫn xuống cầu
thang. Bà ta không quên quay sang tôi từ giả:
- Chào chị. Có dịp sẽ nói chuyện nhiều hơn.
Tiếng con bé khóc hét lên:
- Ba, ba...con không muốn về đâu.
Tôi ngại ngùng trao cho Trí con búp bê:
- Tôi tặng cho cháu làm quà. Anh về đi để chị chờ.
Trí tần ngần nhìn tôi không chớp mắt và nói nhỏ:
- Thương về bao giờ?
- Một tuần rồi?
- Thương sống ra sao?
- Mọi chuyện tốt đẹp. Cảm ơn anh đã quan tâm.
- Gặp lại Thương, tôi mừng quá! Tưởng Thương sẽ không bao giờ còn
trở lại.
- Không ai quên được quê hương đâu anh.
- Chiều mai, Trí muốn gặp Thương.
- Để làm gì. Gặp hôm nay đã đủ rồi. Tôi không dám làm phiền đâu.
Tiếng Hằng gọi giật ngược:
- Đi về. Làm gì mà lâu quá vậy?
Trí ngập ngừng từ giả:
- Tôi về. Hẹn gặp lại.
Anh lật đật bước nhanh xuống cầu thang. Tôi đứng sát lan can nhìn
xuống đất. Trí đang ngồi trên chiếc hon-da đời mới, bóng bé Trâm ôm
con búp bê vào lòng, và Hằng đang ngồi ôm ngang lưng anh. Mắt Hằng
còn nhìn lên cao nơi tôi đang đứng.
******
Bửa cơm đạm bạc được dọn ra. Trên chiếc bàn gỗ tròn chỉ có một dĩa
rau má, một nồi cơm vừa nấu chín. Những hạt cơm trắng nàng hương
thơm lừng bay lên khắp phòng khiến tôi đói cồn cào. Má Hai bưng lên
bàn một cái nồi đất màu gạch nung đã ngã màu đen. Bà mở nắp nồi đất
ra, mùi cá bóng trứng kho tiêu bay theo làn khói, bốc lên thơm phức
làm tôi phát thèm:
- Thơm quá! Lâu lắm rồi con chưa được thưởng thức món cá bóng trứng
kho tiêu ăn với rau má.
Bới cho tôi một chén cơm đầy, má Hai hỏi:
- Con sống ở bển chắc lạnh lắm! Có nhớ quê không?
Tôi bỏ cá bóng kho vào chén, gấp thêm vài cọng rau má bỏ vào miệng
nhai rao ráo. Nuốt xong miếng cơm, tôi nói:
- Ở bên Mỹ lạnh, nhưng bình yên lắm! Đời sống xứ người văn minh,
phồn thịnh nên không có ai sợ chết đói.
Ba Hai ngồi cạnh, thỉnh thoảng ông gắp thức ăn cho tôi. Tôi nhìn mái
tóc bạc trắng, dáng người ốm tong teo của ông mà thương. Ông hiền
lành, ít nói và thương tôi như con gái. Ông hỏi:
- Ở bển có cá trê, cá lóc không Thương?
- Cái gì ở Việt Nam có là ở Mỹ có. Người Việt qua Mỹ lâu đời mua
thực phẩm bên Thái Lan bán cho các chợ Việt Nam. Nhưng cá không thơm
và ngon như ở Việt Nam, mùi tanh tanh khó ăn lắm!
- Có bán bún riêu, bún ốc như chợ Tân Định không?
- Ba làm con phát thèm. Có bán đủ thứ nhưng cách nấu khác với chợ
Tân Định. Bún riêu chợ Tân Định ngon nhất.
Má Hai cười lớn:
- Ừ! Ngon nhất vì có thằng Trí đi bên cạnh.
Tôi phì cười chống chế:
- Con đâu có đi ăn bún riêu với Trí bao giờ - Tôi chợt nhớ ra chuyện
hôm qua - Hôm qua, vợ chồng Trí có đến đây tìm ba má.
- Sao con biết nó đến?
- Gặp trước cổng. Không ngờ Trí có con còn nhỏ quá!
Ba Hai vọt miệng chen vô:
- Nó có hai đứa con. Đó là nhỏ Út- rồi ông chặt lưỡi, lắc đầu nói
tiếp - Cái con vợ nó vừa xấu, vừa dữ hết biết luôn.
Má Hai nói:
- Hồi đó, tao muốn gài nó cho mầy. Mà coi bộ tướng mày kén chồng quá
nên con Chung Vô Diệm đó vớt- Má Hai thở dài- Ứ hự! Cái thằng mặt
mày đẹp trai, tướng tá ngon lành mà lấy cái con thấy phát rầu.
- Duyên nợ của người ta mà má. Tại cô đó yêu anh Trí.
Má Hai khoát tay:
- Trời ơi! Đàn bà con gái thời nay thấy đàn ông là tươm tướp, như ăn
cướp. Nó đeo thằng nầy như đĩa, ai dám nhào vô.
Tôi cười hì hì:
- Nhờ vậy mới câu được cá chớ má. Câu cá thì phải nhử mồi. Nếu không
biết ngồi chờ thời thì cá đâu có chịu cắn câu. Con trai Việt Nam có
giá lắm. Nhất là con của các ông cán bộ gộc. Cô nào chịu đeo thì lấy
được chồng.
- Ừ! Ai như mầy, thấy gì cũng lấy mắt ngó. Bởi vậy, cuối cùng bỏ
nước ra đi biệt xứ. Phải chi mầy ưng nó, bây giờ ở lại cũng sướng.
Nó đi du học bên Úc sáu năm. Bây giờ chức vụ lớn lắm! Con vợ nó y
hệt sư tử Hà Đông.
- Vậy sao? Chức vụ lớn bất quá như ba của Trí thôi. Nếu biết ăn cắp
thì may ra giàu.Trí hiền và vui tính lắm!
- Nó chửi thằng Trí như con.
Tôi không nói gì thêm, có cái gì đó mặn chát trên đầu lưỡi khi nghe
câu chuyện không hay về Trí. Khi đã chọn bạn trăm năm, có ai ngờ
người ngày xưa đeo mình như đỉa, để rồi sau nầy theo mình hành hạ
cho bỏ ghét để trả thù. Ăn hết chén cơm cuối cùng tôi nói:
- Không có ai kho cá ngon như má. Đi đâu cũng nhớ cá bóng trứng kho
ăn với rau má sống.
- Vậy về Việt Nam ở luôn đi con.
- Sống ở Việt Nam đủ ngán rồi má ơi! Đất nước nầy có điều gì đó bất
an và không bình thường.
Tôi nghe tiếng hai vợ chồng thở dài. Má Hai hiểu vì sao tôi đã rời
bỏ quê hương. Hai ông bà không nói gì thêm. Tôi dọn chén bát đi rửa
và nhìn đồng hồ đeo tay, đã hơn năm giờ chiều. Tôi tắm nhanh và rối
rít chào hai ông bà:
- Con đi chùa hái lộc rồi sẽ về sớm.
- Ừ! Đừng có đi tối quá! Nó biết mầy Việt Kiều là mệt đó!
Tôi ầm ừ cho ông bà yên lòng. Xuống cầu thang, tôi gọi tắc-xi rồi đi
thẳng đến chùa Vĩnh Nghiêm.
*******
Ngôi chùa đã được sơn phết rất lộng lẫy để thu hút khách thập
phương. Hai cánh cổng sắt mở rộng. Những ngày giáp Tết, người qua kẻ
lại rất nhộn nhịp. Ngay bên lề đường, những người bán nhang đèn,
vàng bạc kê những chiếc bàn nhỏ, những cái thùng đựng nhang, trái
cây, hoa, bánh, pháo...bày bán la liệt. Tôi vừa bước xuống tắc-xi đã
có hơn chục đứa trẻ rách rưới chạy bu lại chìa vé số, báo, nhang,
đèn cầy, trái cây, pháo chuột ra mời:
- Mua giùm cháu đi bà.
- Mua báo Tết, vé số...
- Mua nhang cúng Phật. Phật phù hộ cho bà.
Tôi đã thủ sẳn một nắm tiền Việt Nam mà tôi hay gọi đùa là tiền "lá
mít", tặng cho mỗi đứa mười ngàn đồng. Đứa nào mặt mày cũng hớn hở,
chúng cười toe toét và biến mất trong dòng xe cộ hổn độn đang lao
nhanh như những dòng thác. Trong sân chùa, người che rạp, kẻ che dù,
có nhiều người trãi những tấm ni-lon ngồi bệt trên sân chùa bán
nhang, đèn đủ màu. Họ nhìn tôi bằng đôi mắt lạ lẫm. Tôi chọn mua một
bó nhanh thơm, một cây nhang to bằng cổ tay có viền hoa vân một con
rồng uốn khúc màu đỏ nổi bật. Tôi trả tiền cho người bán và hỏi:
- Thưa bà, thầy Thích Không Tự còn ở đây không bà?
Người đàn bà già nua đưa đôi mắt lèm nhèm ngước nhìn tôi. Bà đưa tay
vịn cái nón lá đã lũng một lỗ phía sau và nói nhỏ:
- Ông ấy đã bị đổi đi rồi. Ai cũng biết hết trơn. Bộ cô từ nước
ngoài về hay sao mà không biết? - Bà nhổ một bãi nước bọt xuống đất,
giọng không vui bà tiếp - cộng sản Bắc Việt tràn vô Nam đầy nghẹt,
nơi nào có ăn là chúng chiếm giữ, không kể gì đến chùa chiền, thánh
thất, nhà thờ...Cô vô đó xem, ông thầy tụ trì ngôi chùa nầy là một
người từ ngoài Bắc vô, còn trẻ măng. Có người nói với tôi, ông ấy
xuất thân từ công an, mật vụ...còn đám chú tiểu, các sư cụ, sư bà
cũng vậy luôn. Chùa chiền, cơ quan, sân bay, bến cảng, truyền thanh,
truyền hình...nhà cửa, ruộng vườn đều là của họ hết trơn. Thôi cô đi
đi, tôi càng nói càng tức. Có ngày họ bắt tôi nhốt vô tù chết rục
xương. Miền Nam mạt kiếp, sạch bóng rồi cô hai ơi!
Tôi ái ngại nhìn đôi mắt hum húp, mờ mịt của bà. Từ khoé mắt lấm tấm
những giọt nước. Hình như bà khóc. Nước mắt của những bà mẹ miền Nam
cứ âm thầm rơi lẫn lộn với gió bụi cuộc đời đầy lầm than, khốn khổ.
Tôi nắm tay bà vuốt nhẹ như an ủi:
- Cám ơn bà cho tôi biết nhiều điều đã xảy ra. Chúc bà một năm mới
bình an, may mắn.
Bà cúi đầu nhìn xuống, chiếc nón lá quay đi che những giọt nước mắt
đang rơi lã chã. Tôi đi ngang qua phòng tiếp khách, ba chú tiểu mặc
áo nâu sòng, mặt còn non choẹt nhìn tôi xoi mói. Anh mắt họ không
thân thiện, hiền dịu như đôi mắt sư cô Thanh Đàn, Như Nguyện, Tĩnh
Tâm...Tôi vái chào và hỏi:
- Xin các vị cho tôi gặp Thượng Toạ Thích Không Tự.
Một chú tiểu trả lời, giọng Bắc đặc sệt:
- Ông ấy không còn ở đây ạ!
- Vậy các vị có biết thầy được chuyển đi đâu không?
- Không. Chúng tôi không rõ.
- Còn các sư cô?
- Đã đổi đi nơi khác.
Tôi đặt lên bàn 50 chục ngàn đồng rồi lui ra:
- Xin cảm ơn.
Tôi đi chầm chậm về phía chánh điện. Cánh cửa chánh điện mở rộng.
Dòng người viếng thăm cúng bái đông nghẹt. Các lư hương đặt quanh
chánh điện toả lên những làn khói trắng mờ đục. Anh sáng từ những
bóng điện trên trần nhà trở nên huyền hoặc. Tôi đốt một nắm nhang,
đứng dưới bức tượng Phật bằng vàng. Khuôn mặt Ngài uy nghi, hiền từ,
nhân ái như toả xuống muôn người lòng bao dung và sự tha thứ. Tôi
chấp tay cầu nguyện cho thầy và các sư cô được an bình một nơi nào
đó. Tôi cầu nguyện cho những người thân yêu được may mắn và hạnh
phúc. Tôi quỳ xuống cúi lạy và đứng lên cắm nhang vào lư hương. Một
bàn tay ai đó nắm tay tôi và ấn mạnh nắm nhang xuống. Tôi thản thốt
quay lại. Trong làn khói mờ mịt, mắt tôi chạm vào khuôn mặt của Trí,
mờ ảo, mong lung...Có phải Trí đó không? Anh đến đây từ bao giờ hay
anh đang từ trong giấc mơ nào đó hiện về trong những năm tháng xa
xưa?...
....- Thương về Sài Gòn thăm tôi hả?
- Còn khuya? Người ta đi thăm ba má Hai.
- Thiệt vậy sao?
- Ừ!
- Sao hỏng đi thăm người ta?
- Người ta nào vậy hả?
Trí đưa ngón tay trỏ chỉ vào ngực mình:
- Người nầy nè.
Tôi chống nạnh lên và đỏng đảnh trả lời:
- Hứ! Làm như mình quan trọng lắm vậy đó. Mỗi lần về Sài Gòn là phải
đi thăm sao. Người ta còn có công chuyện của người ta nửa chứ.
- Thương à! Bộ Thương không thích gặp tôi thiệt sao?
Tôi đưa cái mặt lên trời trả lời:
- Ai dám gặp chớ. Lúc nào cũng có cái đuôi đi sau lưng.
Trí đỏ mặt đáp:
- Tại người ta thích mình thôi Thương ơi!
- Anh không thích người ta sao cứ để người ta đeo theo như đĩa vậy.
Nếu không yêu thì cứ từ chối đừng có gặp mặt.
- Cô ấy là bạn của mình lâu lắm rồi. Tôi không nở...
- Không nở từ chối đi chơi chung. Không nở làm cho cô ấy giận. Trí
à! Anh thích nhiều người quá! Vậy, bửa nay đừng có đi theo tôi có
được không?
Mặt Trí buồn thiu. Con đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa rất dài, tôi cứ đi bộ
thong thả vào những ngày rảnh rỗi. Tôi muốn đến chùa Vĩnh Nghiêm để
cầu nguyện cho tôi, cho gia đình, bạn bè và cho cả Trí. Không hiểu
sao, vào những ngày tháng nầy tôi lại hay đi chùa. Tâm tư tôi bất
an, xao động và buồn. Tôi không còn muốn tiếp xúc với nhiều người,
không muốn gặp Trí hay bất cứ ai. Đối với Trí, tôi chỉ là người bạn
văn nghệ. Chúng tôi quen nhau trong những ngày đi công tác chung ở
Tân Uyên, Đồng Nai. Trí thường đi theo tôi trêu chọc, hỏi han tôi đủ
thứ chuyện gia đình, chuyện học hành, chuyện công việc ở trường. Tôi
không bao giờ nói cho Trí biết gia đình tôi thuộc chế độ cũ. Ba tôi
là một người không cùng chiến tuyến với ba Trí. Bản thân tôi không
thích chế độ cộng sản. Tôi sống nửa giả, nửa thật, giả ngu, giả điếc
như bao nhiêu người đang sống quanh tôi. Tôi phải học thuộc lòng
rằng cái gì đúng tôi phải nói sai, và ngược lại. Tôi không muốn mình
nói láo, dối gạt Trí. Anh giản dị, dễ mến không phách lối, kiêu ngạo
như những người tôi từng gặp. Ba anh là một nhạc sĩ có uy tín và
tiếng tăm, nhưng khi tôi nói về ba Trí thì anh nói rằng "đó là của
ba anh chứ không phải của anh". Mỗi lần anh cười, tiếng cười dòn tan
và thoải mái. Đôi mắt anh to, vô tư, bẽn lẽn mỗi khi tôi nhìn anh.
Tình cảm của tôi dành cho Trí chỉ đến đó. Tôi không muốn đi xa hơn
tình bạn. Thấy tôi im lặng không nói gì thêm, Trí hỏi:
- Dạo nầy, Trí thấy Thương hay đi chùa hơn mọi lần.
- Sao anh biết?
- Má Hai nói cho tôi biết mọi chuyện.
Tôi chậm rãi đáp:
- Chỉ còn có chùa là nơi tôi còn tin tưởng thôi Trí ơi!
- Tại sao? Thương không còn tin vào cuộc sống nửa sao?
Tôi nhìn vào mắt Trí:
- Anh có tin không? Tôi thấy anh yêu mến cuộc sống nầy. Có thể vì
anh sinh ra ở miền Bắc. Khi vào Nam, anh thấy cái gì cũng mới và hấp
dẫn. Thôi! Đến chùa rồi, Thương vào trong đó thăm các Thầy. Anh có
muốn vào trong không?
Trí gật đầu. Tôi dẫn Trí đến chánh điện và lấy ra sáu cây nhang. Tôi
thắp nhang và lâm râm cầu nguyện. Tôi nghe Trí lầm bầm nho nhỏ:
- Cầu Phật -Trời phù hộ sao cho Thương đừng có giận con hoài. Sao cô
ấy khó tính và khó hiểu quá!
Tôi thở ra và thúc vào hông Trí. Nhưng anh vẫn cứ lầm bầm:
- Phật ơi! Cô ấy thúc vào hông con biểu con đừng có nói. Nhưng con
vốn thật thà, ăn ngay, nói thẳng. Bởi vậy, con cứ cầu trời cho
Thương đừng có hiểu lầm con. A Di Đà Phật...
Tôi cắm nhang xong là lật đật chạy ra. Trí cũng chạy theo hỏi:
- Cầu nguyện như vậy có được không?
- Anh toàn nói chuyện tầm phào không. Nếu không có anh đi theo thì
tôi đã đi thăm các thầy rồi.
Mặt Trí tối sầm lại:
- Vậy tôi là người phá đám sao? Các Thầy quan trọng hơn thằng Trí,
bạn của Thương à?
Tôi nhớ lại cảnh cô bạn gái đưa Trí ra xe vào chủ nhật tuần rồi. Lúc
đó, Trí đâu có quan tâm gì đến ai. Tôi trả lời:
- Vậy tôi có quan trọng hơn cô bạn gái của anh không?
Trí không trả lời. Tôi quay lưng bỏ đi. Trí không muốn đi theo tôi
nữa. Anh đứng lại một mình bên ngoài ngôi chùa Vĩnh Nghiêm. Anh nhìn
theo bóng tôi. Tôi không nhìn lại. Tôi cao ngạo, đỏng đảnh đến phát
ghét...
....- Thương ngạc nhiên lắm sao?
Giọng nói của Trí làm tôi tỉnh hẳn. Tôi lúng túng rút tay về:
- Sao anh biết tôi ở đây?
- Má Hai nói Thương đi chùa và tôi biết Thương sẽ đến đây.
- Lần nầy anh có cầu nguyện gì không?
Có chứ. Tôi đứng sau lưng Thương đã lâu. Tôi cầu nguyện cho Thương
đừng quên Sài Gòn, quên quê hương, bạn bè...
- Cảm ơn anh. Thương còn một cây nhang may mắn. Thương sẽ tặng anh
để mang lộc đầu năm về nhà.
Tôi mở giỏ xách ra lấy cây nhang lớn có in hình con rồng ra đốt. Mùi
trầm hương ngào ngạt toả quanh những làn khói trắng. Tôi đi vòng
vòng chấp tay van vái lầm bầm. Trí cũng bắt chước theo. Tôi tặng cho
anh cây nhang và nói rằng cây nhang nầy sẽ phù hộ cho Trí may mắn,
hạnh phúc. Trí cầm cây nhang ngắm nghía, và nhìn tôi cười không nói
gì. Đi hết một vòng chùa, tôi và Trí ra về. Chúng tôi không đón xe
tắc-xi mà đi bộ bên nhau. Chúng tôi đi dưới những hành cây, những
chiếc lá úa vàng bay là đà và cuối cùng rơi xuống mặt đường. Nắng
Sài Gòn đong đầy trong mắt tôi, trong mắt Trí. Và bụi, khói từ các
loại xe cuốn lên mù mịt. Trí trao cho tôi một chiếc khăn tay:
- Thương phải bịt mũi lại. Sài Gòn bây giờ khói và bụi mù trời.
Thương có thể sẽ bị bịnh viêm họng.
Tôi đón lấy chiếc khăn nhưng lại nhét vào xách tay. Tôi nói:
- Xe nhiều quá! Nhất là xe gắn máy chạy hổn loạn. Mấy chục năm rồi,
người dân Việt Nam sống giữa thành phố Sài Gòn không học được một
luật giao thông nào sao?
- Cứ vậy mà tiến lên thôi Thương. Đời sống khá hơn hồi xưa. Ai cũng
có xe gắn máy mà không phải đi xe đạp.
- Thà đi xe đạp mà không khí không ô nhiễm nặng nề như bây giờ. Chắc
mọi người đã quen sống như vậy nên không nhận ra được điều gì đang
xảy ra phải không?
- Mọi người đang bắt đầu tích luỹ tư bản đó Thương.
- Đất nước đi thụt lùi lại phía sau. Đạp đổ tất cả, rồi sau đó bắt
đầu lại những gì cách đây đã hơn nữa thế kỷ.
- Tôi cũng thấy vậy.
- Nhưng anh có nghe mấy ông chóp bu nói đến những sai lầm khủng
khiếp đó không? Chắc chắn là không rồi.
- Mấy cái bộ óc đó hủ lậu lắm Thương ơi! Thôi đừng nói thêm buồn.
Thương đi uống cà phê với tôi nhé!
- Không dám đâu anh Trí. Đi chung như vậy cũng ngại rồi. Dù sao anh
cũng đã có gia đình.
- Nhưng Thương cũng là bạn cũ của tôi. Đi uống một ly cà phê đâu có
gì quá đáng.
- Anh không sợ, nhưng tôi sợ. Vợ anh ghen lắm! Tôi biết.
- Thương vẫn chưa lập gia đình sao?
Tôi dừng lại nhìn anh. Lòng tôi bâng khuâng, xao động khi nghe anh
hỏi. Vâng, tôi vẫn chưa lập gia đình. Thời thanh xuân chôn vùi tại
Việt Nam. Những ngày xa quê hương vật lộn với cuộc sống xứ người.
Tôi bắt đầu cuộc sống mới bằng hai bàn tay trắng. Tôi phải cật lực
làm việc để gởi tiền về nuôi dưỡng anh chị em còn kẹt lại Việt Nam.
Mười mấy năm qua, tôi đã mang hết gia đình sang Mỹ, nhiệm vụ lo cho
gia đình của tôi chấm dứt, nhưng tuổi đời không còn chờ đợi. Tôi khô
cằn, héo quắc queo như cánh hoa mười giờ sau cơn mưa lớn. Còn ai dám
yêu một người đàn bà đã quá bốn mươi? Tôi lại một lần nữa tự hỏi
mình "lấy ai bây giờ? Một ông Tây đã luống tuổi? Một người đàn ông
lở dỡ tình duyên, li dị và có một bầy con riêng? Một ông già lụm
khụm tuổi đáng cha mình?..." Thôi thì sống một mình cũng có niềm vui
thì cần chi thứ hạnh phúc hờ hững, với sự ràng buộc trách nhiệm mà
tình yêu đã chết tự bao giờ. Tôi nói:
- Anh nhìn xem, tôi có thể lấy ai?
- Thương không bao giờ biết yêu? Thương chỉ thích đùa.
- Tôi có dám đùa với ai bao giờ.
- Thương đùa với tôi.
- Bao giờ. Bộ tôi có hẹn hò với anh sao?
- Không? Nhưng Thương làm cho tôi...suy nghĩ. Chắc Thương quên, còn
tôi thì nhớ những ngày cuối cùng tại Cù Lao Rùa.
Làm sao quên ngày đó. Nó có xa lắm đâu mà đã vội quên. Nó chỉ còn là
kỷ niệm nằm sâu trong tim tôi. Tôi muốn quên, tôi muốn chôn nó đi
như bao nhiêu chuyện khác. Nhưng đôi lúc nó lại hiện về trong tâm
thức tôi...
...Ngày đi công tác đã gần kề, tôi cố gắng chấm thi, lên điểm và
trao hồ sơ cho phòng giáo vụ. Tôi chuẩn bị nghĩ hè và dự định đi
công tác xa thị xã. Tôi xếp lại sách vở bỏ vào tủ khoá lại, và soạn
mấy bộ quần áo nhét vào va-li. Có tiếng gõ cửa. Tôi nhìn lên đã thấy
Trí đứng trước cửa phòng. Căn nhà tập thể của giáo viên nhỏ nhắn, bề
bộn. Tôi thấy việc Trí đến tìm tôi thật bất tiện và đột ngột. Tôi
ngập ngừng mời anh vào phòng:
- Sao anh biết tôi ở đây?
- Hỏi thăm người ta. Đoàn xe đang chờ Thương bên ngoài.
- Mọi người đến sớm vậy sao? Anh chờ chút nhé! Tôi phải đi tắm cái
đã.
Trí ngồi nhìn căn phòng tập thể của giáo viên trống trãi, nghèo nàn.
Ngoài vài chiếc giường cá nhân, cái bàn nhỏ, sách vở, không có một
món đồ gì trang trí cho phụ nữ. Anh tự hỏi vì sao Thương không về
nhà mà sống ở đây một mình. Má Hai nói với anh Thương không có bạn
trai. Ngoài những giờ đi dạy học, Thương còn phải viết tin tức cho
các tờ báo địa phương để có thêm tiền nhuận bút. Cô vui đó rồi chợt
trầm tư như một bà cụ. Những ngày đi công tác chung, Trí đâm ra mến
tình tình thật thà, vui tươi và hồn nhiên của cô. Trí nhìn tấm hình
bán thân Thương treo nơi đầu giường. Khuôn mặt cô rạng rỡ nụ cười,
nhưng đôi mắt đen láy với hàng lông mi dầy và rậm chứa đựng điều gì
u ẩn.
Tôi bước ra khỏi nhà tắm, quần áo tôi đã chỉnh tề. Trí chìa cho tôi
tấm hình mà Trí chụp cả đoàn công tác đi băng ngang ruộng lúa. Phía
sau tấm hình là một bài thơ Trí viết tay bằng mực xanh của bút
nguyên tử:
Vô đề
Bông lúa vừa được gặt
Bông cau sắp trổ ra
Bông ổi thì bé quá
Bông mía giống bông lau
Chắc bông cỏ cũng có
Nhưng chẳng tìm thấy đâu
Chắc bông chuối cũng có
Nhưng chưa kịp nhú đầu
Trong đoàn người thấy có
Rõ ràng một nhỏ bông!
Không một Bình Bông đấy!
Tặng Thương
Bình Dương 01/ 88
Tôi bật cười hỏi Trí:
- Anh định chọc tôi với ông Bình đó à?
- Ông ấy cứ đi theo Thương hoài. Bộ Thương không thấy sao? Bí Thư
Thị Xã chớ đâu phải đồ bỏ.
- Tôi không ham mấy ông bí thư, trung ương, giám đốc gì hết trơn.
Anh biết tính tôi mà phải không? Không có cái gì làm cho tôi ham mê
hết. Tôi cảm ơn bài thơ dễ thương của anh. Nhưng nhớ đừng nhắc ông
Bình ở đây.
- Mấy ngày đi công tác chung với Thương, ông Bình cứ quanh quẩn theo
Thương. Ai cũng thấy hết trơn.
Tôi lườm Trí:
- Cũng như anh vậy thôi. Tối ngày đi theo tôi chọc ghẹo. Đọc mấy bài
thơ con cóc...
Tôi thấy mặt anh đỏ như trái gấc nên ngừng lại không nói tiếp. Trí
không giận mà cái miệng rộng lại nở một nụ cười vui thích. Sao tôi
cứ nghĩ Trí là anh chàng ngớ ngẩn? Có thể tại anh quá hiền, cù lần
lửa và còn có cái tật đi theo tôi lẽo đẽo.
Khi chúng tôi ra xe, mọi người đang đợi. Má Hai hỏi:
- Sao vô trỏng lâu vậy Trí?
Tôi trả lời thay cho anh:
- Dạ, tại con đang tắm nên Trí phải chờ.
Tiếng một người trong đoàn trêu:
- Thằng Trí mà đi kiếm Thương thì thích ở lâu hơn là ra đây.
Trí tiếp lời:
- Nếu không đi công tác thì ở trong đó một mình với Thương thích
hơn.
Cả đoàn cười ầm lên. Tôi đỏ mặt nguýt Trí và đưa một quả đấm về phía
anh. Trí cứ tỉnh bơ như không có gì.
Chiều Tân Uyên buồn heo hút. Những cơn gió mùa hè thổi ngang bầu
trời mang theo hơi nóng hầm hập. Cù Lao Rùa bát ngát một màu xanh
thăm thẳm của ruộng lúa, vườn cây ăn trái. Những rặng tre dừa, cau
lã ngọn, đong đưa trong ánh hoàng hôn. Cù lao như một hòn đảo nhỏ,
xinh xắn, chênh vênh nằm phơi mình giữa một vùng nước xanh lơ. Con
sông chảy quanh cù lao nước mờ đục phù sa. Những đám lục bình trôi
bơ vơ, bồng bềnh, nhấp nhô trên sóng nước. Vài con thuyền độc mộc
xuôi dòng, người lái đò già nua, đầu đội nón lá, thân hình ông in
đậm trong ráng chiều vàng vọt. Ông đứng một mình, chơ vơ trên bến
vắng, chờ khách sang sông. Tôi mang quần áo ra sông giặt. Tôi đang
ngồi múc nước đổ vào chậu thì Trí từ xa đi lại. Anh ngồi xuống bên
tôi nói:
- Để Trí giặt phụ cho.
- Thôi. Có mấy cái mà. Để tôi giặt được rồi. Trí ngồi ôm quần áo cho
tôi là tốt rồi.
Tôi lặng lẽ giặt đồ, vắt ráo nước rồi đưa cho anh. Anh ôm quần áo
trên hai cánh tay, và ngồi im lặng như vậy hàng giờ mà không nói câu
nào. Đàn ông con trai gì mà ngớ ngẩn đến mức không biết mở đầu câu
gì, và kết thúc câu gì.
Một tuần ở Tân Uyên cũng đã trôi qua nhanh chóng, đoàn nghiên cứu
văn học của chúng tôi đã làm xong báo cáo. Chúng tôi chuẩn bị để trở
về tỉnh. Ông chủ tịch huyện Tân Uyên đã mời cán bộ các cấp đến tham
dự buổi chiêu đãi chúng tôi trước khi chia tay. Thế là một bửa tiệc
linh đình được dọn ra. Các ông cứ tha hồ uống rượu. Ai cũng bị ép
uống. Tôi không biết uống rượu, sợ rượu nên ăn qua loa một chén cơm,
và bỏ trốn ra ngoài. Tôi đi lang thang nhìn xóm làng trong buổi
hoàng hôn. Anh nắng chiều chênh chếch trên những cánh rừng trùng
điệp bên kia bờ. Những đàn dơi giăng ngang bầu trời như những đàn
quạ đen. Chúng kêu lên những tiếng kêu chí chát chói tai. Gió lướt
trên mặt sông nhè nhẹ làm mặt nước lăn tăn gợn sóng. Ai có về Tân
Uyên, ghé vào Cù Lao Rùa để lắng nghe âm thanh trầm lắng, hiền hoà
và hơi thở của cây cỏ, đất trời. Tôi yêu cái vắng vẻ thanh tịnh một
vùng quê và yêu những người dân cần cù, hiền hoà mà hiếu khách.
Đi một mình đã khá xa, tôi quay trở lại con đường cũ để đến chiếc xe
van của đoàn. Trong xe, tiếng thở nặng nhọc của ai đó cứ vang lên.
Tôi bước vào phía sau. Trí nằm dài trên băng ghế sau. Mặt đỏ bừng,
mùi rượu bay lên nồng nặc. Anh muốn nôn mửa và hơi thở phì phò. Tôi
biết anh không biết uống rượu nhưng bị ép, uống vài ly đã ngã chỏng
cẳng. Tôi đến bên anh, đặt bàn tay lên trán và hỏi:
- Trí có sao không. Hỏng biết uống, ai biểu uống chi cho nhiều.
Trí nổi quạu lầm bầm:
- Kệ tui. Mấy người đừng có làm phiền tui được không?
- Say như chết mà còn làm tàng. Để tôi đi kiếm cái gì cho uống vã
rượu.
Tôi nầng đầu Trí lên, và lấy khăn ướt đắp lên mặt anh cho tỉnh. Anh
nằm yên không nói gì. Thỉnh thoảng, anh mở đôi mắt đỏ lừ nhìn tôi
một giây rồi nhắm lại như giả vờ ngủ. Thực ra, tôi chẳng biết người
say mình phải làm gì cho họ tỉnh. Tôi có bao giờ chăm sóc cho ai đâu
mà biết. Tôi chỉ nghe bạn bè nói là giả đậu xanh thật nhỏ, pha với
nước cho họ uống là họ sẽ tỉnh ngay. Nhưng trong lúc nầy làm gì có
đậu xanh. Đi đâu xin bây giờ? Tôi đành chịu. Tôi ngồi chờ một lát và
cúi xuống vuốt trán Trí. Anh chợt mở mắt ra nói:
- Tôi còn tỉnh lắm nghen.
- Tỉnh thì tôi đi. Nằm đó một mình nha?
- Không thích chăm sóc cho tôi nữa sao?
- Tại nói với tôi là tỉnh rồi. Cần chi chăm sóc nữa. Thôi tôi đi.
Tôi để Trí nằm một mình và bỏ vào trong phòng họp. Tôi bực mình vì
tự nhiên phải lo cho một người say rượu, mà người đó cũng chẳng phải
là gì...gì của mình. Đêm đó, sau khi tan tiệc tôi về phòng ngủ. Trí
đi ngang phòng tôi, nhìn tôi một lúc rồi hỏi:
- Xin lỗi chuyện hồi chiều nghen. Tại say quá nên nói năng không
lịch sự.
- Anh thấy đở chưa hay còn nhức đầu?
- Thương à! Mỗi lần tôi uống rượu là tôi bịnh. Bởi vậy tôi sợ lắm!
Nhất là tôi sợ Thương cười tôi.
- Anh không biết uống rượu là tốt đó. Mấy ông cán bộ bây giờ nhậu
nhẹt trông phát khiếp. Họ uống cho đến chết mà không cần biết ngày
mai ra sao.
- Thương không thích phải không?
- Mấy ông cán bộ chỉ thích nhậu nhẹt, vui chơi hơn là suy nghĩ đến
những điều trọng đại. Anh nghĩ xem, dân mình nghèo đến đứt ruột mà
mình cứ thích ăn, thích nhậu thì còn vui nỗi gì.
- Ai cũng sống như vậy hết trơn. Hơi đâu mà Thương lo.
- Anh Trí à! Tại tôi hay lo chuyện bao đồng đó mà. Thôi anh về ngủ
đi. Ngày mai mình đã trở về rồi. Tôi sẽ về Thị Xã, còn anh và đoàn
trở về Sài Gòn.
Trí chưa kịp nói gì thì tôi đã chào anh và bỏ vào trong.
Chiếc xe van đưa tôi trở về Thị xã. Trí không muốn ngồi phía trước.
Anh đến ngồi băng sau với tôi. Anh vẫn còn say hay anh tỉnh tôi cũng
không biết được. Chỉ thấy giữa trán, hai bên thái dương và cổ bắt
gió đỏ chét. Mùi dầu cù là bay lên nồng nặc. Tôi nhìn mặt anh muốn
chọc quê nhưng thấy mọi người bụm miệng cười, tôi đành im lặng. Anh
dựa đầu vào vai tôi ngủ ngon lành. Tôi không dám đánh thức anh dậy,
cũng không dám làm cho anh phật ý. Có thể, Trí muốn tìm một chút hơi
ấm từ cơ thể tôi chăng. Tôi không biết. Tôi chỉ biết rằng mỗi lần
anh tỉnh lại, anh nhìn tôi như thôi miên và không hé môi nói một lời
nào.
******
Ngày tổng kết đợt nghiên cứu văn học đã qua. Tôi đến tham dự để nghe
báo cáo kết quả. Trí ngồi bên tôi im lặng. Anh chuyển cho tôi một
bài thơ viết bằng mực tím. Nét chữ nắn nót rất đẹp. Đây là một bài
thơ tỏ tình kín đáo:
Trời mưa,
Anh căng ô che đầu
Hết mưa,
Ô lặng lẽ xếp vào nhăn nhó
Bị anh vứt lên bàn hay quăng đâu đó
Tình yêu cũng như chiếc ô
Che cho người khác khô
Riêng mình bị ướt
(Ấn độ- Vô danh)*
Tôi đọc xong cười thầm "bày đặt mượn thơ người để tặng. Muốn gì nói
cho rồi. Thật là ngớ ngẩn". Tôi xếp bài thơ vào cuốn sổ tay, tỉnh bơ
như không có gì. Trên sân khấu, má Hai đang nói về thành quả tốt đẹp
của công trình nghiên cứu vừa qua. Sau đó, mấy cô gái của đoàn dân
ca Miền Nam cứ hát, đánh đàn, thổi sáo những bài dân ca trữ tình,
lãng mạn và dí dỏm. Trí thì thầm hỏi tôi:
- Chia tay rồi buồn không?
- Buồn chớ. Sẽ gặp lại mà. Đâu có phải là chấm hết đâu.
- Biết làm sao gặp lại?
- Cứ lên thăm.
Trí lại im lặng. Anh giả vờ như lắng nghe các ca sĩ hát. Thực lòng
anh đang suy nghĩ mênh mang làm sao có thể gặp lại Thương. Anh lấy
ra thêm một mảnh giấy và viết thật nhanh. Anh đẩy sang cho tôi. Lại
một bài thơ tình không có tựa đề:
Một lần tôi dạo chơi trên bờ xa biển bạc
Vô tình tôi để mất tim mình trong cát sâu
Gặp ai dù ở đâu tôi cũng đều ghé hỏi
Và ai ai cũng nói em đã giấu tim tôi
Với tình yêu lứa đôi và tấm lòng chung thuỷ
Thì ngực tôi không thể thiếu một trái tim
Xin trao em trái tim tôi đó
Còn tim em thắm đỏ thì trao tôi
Trao tôi làm của riêng
(Karmark-Đức)* *
Tôi đọc xong và quay lại nhìn Trí. Anh nhìn tôi bằng đôi mắt lạ lùng
khó hiểu. Làm sao anh thấu hiểu lòng tôi. Làm sao anh biết tôi đang
nuôi dưỡng một chuyến đi xa. Tôi muốn rời khỏi đất nước nầy thì
những bài thơ tỏ tình kia còn có nghĩa gì? Suốt ngày hôm đó, tôi
không nói với anh một lời nào và chúng tôi chia tay nhau.
Những tháng tiếp theo,Trí có đến thăm tôi một vài lần tại trụ sở
mới. Nhưng tôi cũng làm lơ và không quan tâm lắm! Tôi không muốn giữ
lại gì trong tầm tay mình hay gợi cho anh niềm hy vọng. Lần cuối
cùng trước khi tôi rời khỏi Việt Nam, tôi có gặp lại Trí tại nhà má
Hai ở Sài Gòn. Anh trách tôi:
- Sao về Sài gòn mà không đến thăm tôi?
- Sợ làm phiền anh.
- Thương đến thăm tôi, tôi mừng lắm!
- Để làm gì mới được?
- Để nhìn Thương một chút thôi.
Tôi phì cười đáp:
- Đúng là ngớ ngẩn.
- Tôi cứ ngớ ngẩn hoài mỗi khi gặp Thương. Có thể tôi không biết
phải nói gì cho Thương vui.
Ừ! Anh biết gì về tôi đâu mà biết tôi vui hay buồn. Tôi mang nỗi
buồn từ lâu lắm! Nỗi buồn của một người không biết cuộc sống ngày
mai của mình sẽ đi về đâu? Với đồng lương chết đói, với một xã hội
đầy tranh chấp, dối trá làm sao tôi có thể nghĩ đến tình yêu và
tương lai. Trong trái tim sôi nổi của tuổi đôi mươi, tôi cũng muốn
tìm cho mình một tình yêu. Nhưng ai dám yêu tôi và tôi còn dám yêu
ai bây giờ? Tôi có một hoàn cảnh gia đình rất đặc biệt mà tôi không
dám thố lộ cùng ai. Trên vai tôi không chỉ có cuộc đời tôi. Tôi còn
phải cứu vãn gia đình thoát khỏi cuộc sống khốn khổ hiện tại. Anh
nên quên tôi đi. Dù sao, tôi cũng chỉ là một người bạn. Thời gian
qua, tôi và anh cũng chẳng hiểu nhau nhiều. Nó ngắn ngủi và không có
kỷ niệm gì sâu sắc đáng nhớ.
- Tôi sẽ đi xa lắm Trí à! Đừng buồn khi hay tin tôi rời khỏi Việt
Nam.
- Thật sao? - Trí ngỡ ngàng hỏi.
Tôi gật đầu nhè nhẹ. Trí quay mặt đi. Anh nhìn xuống lầu, nơi dòng
xe cộ chạy náo động cả thành phố. Sài Gòn đẹp lắm sao Thương lại bỏ
đi? Thương không còn gì lưu luyến, mong đợi, nhớ thương thành phố
nầy sao? Thương không còn gì để gởi lại mảnh đất quê hương Việt Nam
sao? Tôi thấy Thương hay buồn và trầm tư một mình, nhưng tôi không
nghĩ rằng Thương sẽ bỏ mọi người để ra đi. Tôi không là gì trong tâm
tư của Thương sao? Tôi chẳng thể làm rung động trái tim Thương hay
có thể giữ Thương ở lại Sài Gòn sao? Trí suy nghĩ bâng quơ một mình
và cuối cùng hỏi:
- Tại sao Thương lại ra đi? Không có gì giữ chân Thương ở lại sao?
Tôi ngập ngừng:
- Tôi không tìm được sự bình yên và hạnh phúc trên đất nước nầy Trí
ơi! Làm sao Trí hiểu được tôi đang nghĩ gì về những điều đang xảy ra
cho mọi người và cho quê hương Việt Nam. Nếu có nhiều người vui
sướng, hạnh phúc, được thừa hưởng bao ân huệ mà xã hội ưu đãi, thì
cũng có hàng triệu triệu người nghèo khổ, bất hạnh và tuyệt vọng. Số
người nầy lại rất lớn. Hầu như toàn cõi Việt Nam. Anh không thấy
sao? Anh có cảm nhận không? Hay anh biết mà không dám nói.
Trí ngạc nhiên kêu lên:
- Thương suy nghĩ nhiều quá! Mình làm được gì bây giờ. Phải chịu
thôi Thương ơi! Thương đi nhớ cho tôi biết để tôi tiển Thương ra sân
bay.
- Chắc không cần đâu Trí. Anh còn nhiều việc để làm. Nhất là nên
chăm sóc cho người bạn gái lúc nào cũng ở cạnh anh. Đừng bận tâm
chuyện tôi đi hay ở.
Tôi đã rời bỏ Sài Gòn, rời bỏ thành phố nhỏ quê tôi để tung cánh đi
về một phương trời xa lạ. Tôi đã vĩnh viễn xa mọi người tôi thương
mến, và tôi đã thực sự xa Trí...
....Trí cắt đứt dòng suy tư của tôi:
- Sao tự nhiên Thương im lặng không nói gì hết vậy.
- Tôi phải về để ba má Hai rầy. Tôi không được đi đến tối. Sài Gòn
bây giờ không an toàn đâu.
Trí đưa tôi đến cổng chung cư và ra về. Bỗng tôi thấy bóng Hằng từ
đâu hiện ra. Khuôn mặt bà ta hầm hầm. Bà ta sấn tới trước mặt Trí,
giọng giận dữ:
- Anh đi đâu suốt ngày làm tôi phải chờ. Chắc hẹn hò với bà nầy.
Tôi im lặng không trả lời. Trí tái mặt, anh lôi Hằng ra đường:
- Em đừng có nói bậy. Anh gặp Thương trong chùa. Rồi đi bộ về đây
chung. Có hẹn hò gì đâu.
Hằng giằng mạnh cây nhanh đang cháy trong tay Trí và ném xuống
đường:
- Đừng đem ba cái thứ nầy về. Sao anh không chịu về nhà? Mấy đứa con
đang chờ anh về. Anh cứ lang thang ngoài đường như người không có
trách nhiệm.
- Anh về nhà đâu có vui. Mặt em lúc nào cũng hầm hầm. Em la lối, bắt
bẻ anh đủ điều. Anh chỉ muốn đầu óc thanh thản mà em đâu có muốn.
Tôi nghe tiếng Hằng khóc bù lu bù loa và tiếng Trí phân trần. Tôi
thấy tội nghiệp cho anh. Thì ra, tình yêu cũng có sự tính toán, cân
đong, đo đếm. Người con gái đeo anh như sam, giờ trở thành một mụ
đàn bà đanh đá, bất lịch sự và ghen tuông vô lối. Tôi cứ tưởng anh
lấy được người yêu anh là hạnh phúc, may mắn. Ai ngờ, lấy nhau xong
mới biết được tình yêu đó tồn tại trong bao lâu, và lòng hy sinh cho
nhau trong cuộc sống gia đình kéo dài được bao lâu. Ai cũng tưởng
mình tìm được mình hạnh phúc, nhưng hạnh phúc ở đâu sao cứ mãi đi
tìm?
Ba má Hai đang đứng ở lan can hứng gió, thấy tôi bước vào nhà, má
Hai hỏi:
- Con có gặp vợ thằng Trí không?
- Có. Bà ta thật quá quắc! Chưa chi đã mắng chồng như tát nước vào
mặt.
- Nó ghen dữ lắm! Thằng Trí đi đâu một chút là nó chửi. Nó chăn
chồng như chăn con.
- Tại bà ta yêu chồng nên sợ mất chồng.
- Khi quen nó, thằng Trí đâu có ngờ. Bây giờ hối hận thì đã muộn.
Phần nó cũng có đạo đức. Nếu không người ta đã bỏ rồi.
- Nếu Trí có hỏi thăm về con, ba má đừng cho anh ấy biết. Con không
muốn gặp chuyện lôi thôi.
Hai ông bà không nói gì thêm. Suốt buổi chiều và nhiều đêm tôi không
còn ngủ được. Tâm tư tôi bất an khi nghĩ về Trí.
******
Những ngày Tết đã trôi qua từ lâu, nhưng âm thanh vui tươi, ồn ào
của Sài Gòn vẫn còn đọng lại trong tôi bao luyến tiếc, thương nhớ.
Sân bay Tân Sơn Nhất đông nghẹt người, tôi đứng sắp hàng cân hành
lý. Chợt tôi nghe tiếng gọi của má Hai:
- Thương, Trí muốn gặp con.
Tôi lách mình ra khỏi đám đông:
- Con tưởng ba má về rồi.
Như sợ tôi hiểu lầm, má Hai phân trần:
- Trí gọi điện thoại di động cho ổng. Nó đòi gặp con lần sau cùng.
Hình như nó muốn đưa cho con cái gì đó.
Từ xa, tôi thấy Trí đang đi về phía tôi. Khuôn mặt anh lấm tấm những
giọt mồ hôi. Má Hai ôm tôi lần sau cùng và nói nhỏ:
- Con đi bình an. Ba má luôn nhớ đến con.
Tôi gật đầu cảm động. Tôi có linh cảm ngày trở về sẽ xa vời vợi, và
vợ chồng má Hai không biết còn sống hay không. Trí đến gần tôi, đôi
mắt anh đỏ hoe. Giọng anh run run, xúc động:
- Tôi xin lỗi Thương về chuyện vừa qua. Chắc Thương giận tôi.
Tôi lắc đầu cười:
- Tôi sợ làm phiền lòng vợ anh. Tôi với anh chỉ là bạn, nhưng không
có người đàn bà nào thích chồng làm bạn với người đàn bà khác. Tôi
thông cảm anh hơn là giận.
Anh nở một nụ cười hiền hậu và nhét vào tay tôi một phong thư dầy
cộm:
- Tôi muốn trao lại cho Thương những tấm hình chụp cách đây gần 20
năm. Hy vọng Thương sẽ vui. Tôi sẽ thường xuyên đến chùa cầu nguyện
cho Thương được bình yên và tìm được hạnh phúc.
Tôi lại mỉm cười:
- Anh bắt đầu đến chùa cầu nguyện từ bao giờ?
- Kể từ ngày Thương rời khỏi Việt Nam cho đến nay - Giọng nói của
Trí ngập ngừng - Trong cuộc đời, Thương không biết yêu ai hết sao?
- Có chớ, nhưng lỡ làng, muộn màng. Do đó, tôi mất hết. Không còn ai
bên cạnh tôi cả.
Tôi nhìn sâu vào đôi mắt anh lần sau cùng. Đôi mắt to, vui vẻ hồn
nhiên của ngày xưa bây giờ mệt mỏi, đầy những vết nhăn ngang dọc bao
quanh:
- Anh mãi mãi là người bạn đáng nhớ, đáng yêu của tôi. Xin bảo
trọng.
Tôi bước vào phòng cách ly, tôi vẫn còn thấy anh đứng nhìn theo.
Bóng anh cao lớn in đậm giữa bầu trời đầy nắng chan hoà.
Chiếc boeing cất cánh khỏi phi đạo. Nắng Sài Gòn chói chang, sáng
rực bao phủ những đám mây to lớn. Thành phố như thu nhỏ lại, hun hút
dưới khoảng trời bao la, rộng lớn đang mở ra trước mắt tôi. Tôi mở
phong thư của Trí ra xem. Những dòng chữ quen thuộc, hơi mờ hiện ra
sau từng bức ảnh "Thương cô đơn bên dòng sông Bạch Đằng", "Thương
đang làm thơ bên Cù Lao Rùa". Một tấm khác tôi đang ngồi trên bãi
cỏ, tôi đang cười một mình, tôi và Trí đang nói chuyện với những
người nông dân trồng lúa...nước mắt tôi bất giác chảy dài trên má.
Tôi biết mình không còn gì ngoài những ký ức xa mờ. Tôi không dễ
dàng trở lại Việt Nam như bao nhiêu người trông đợi. Cuộc đời tôi đã
sang một trang mới. Những kỷ niệm về quê hương giống như những kỷ
vật quý giá nằm sâu trong trái tim tôi. Tôi thì thầm "Xin gởi lại
Sài Gòn một nụ hôn thương nhớ. Tạm biệt Sài Gòn và quê hương yêu
dấu. Xin đừng trách tôi người ơi!"
Phong Thu
1/20/2006
Viết để nhớ đến ngày tháng rong ruổi
trên khắp nẻo đường quê hương
Chú thích: Hai bài thơ trên tôi không còn nhớ rõ tác giả. Nếu
quý vị nào biết, xin cho biết xuất xứ, nguồn gốc và tựa đề bài thơ.
|