Hai Hiệp cầm giấy tờ, thót lên xe đạp rồi mất hút sau chòm
cây. Chúng tôi nằm trên đống rơm đợi anh đến khi trời chập
choạng tối. Anh trở về và gọi thằng con trai chừng bảy tuổi ra
bảo nó:
-
Con dẫn mấy chú này lên nhà bà Cô Hai. Đi tắt đường đồng cho
nhanh !
Theo chân thằng nhỏ, chúng tôi băng
đồng và đột ngay vào “ tổng hành dinh” của Bảy Liên Xô. Đó là
ngôi nhà lá nhỏ của bà Hai Giáp, chị vợ ông.
Trong bóng tối lờ mờ, “ vị thủ lĩnh” bước ra đón chúng tôi,
mình mặc chiếc quần cụt rộng thùng thình và chiếc áo Pygiama
đóng phèn mang nhiều mảnh vá. Đầu ông hói cao, mắt xếch, mặt
ngạnh, trán dò ra, cặp môi xệ xuống. Con người thoạt nhìn đã
thấy đầy vẻ ngang tàng khí phách.
-
Mấy chú mới tới hả ?
Anh phóng viên đài phát thanh dường như không nín cười được
nên phát ra một giọng khôi hài:
-
Mèn ơi! Trông chú giản dị thế này mà sao muốn gặp phải làm thủ
tục rắc rối quá vậy?
Ông Bảy liên Xô cười ngượng, trao giấy tờ lại cho chúng tôi và
nói:
-
Biết đâu mấy chú là công an giả danh nhà báo để bắt cóc tôi
thì sao. Đời bây giờ, người thật việc thật thì ít, người giả
việc giả thì nhiều quá, biết đâu mà lường được. Thú thật, từ
hôm cô Nguyệt Anh bị bắt cóc đến nay, tụi tôi trốn luôn, không
ai dám ngủ nhà hết. Mùa rẩy này coi như bỏ, có ai làm được gì
đâu. Khổ sở lắm mấy chú ơi! Thôi vào nhà uống nước, nói chuyện
chơi chớ đứng ngoài hoài sao. Đây là nhà của chị vợ tôi, bà bị
đánh chết giấc kỳ bắt tôi đó. Ông chồng và hai thằng con bả
đều là liệt sĩ mà bị đối xử như vậy đó 1
Như đã sắp xếp sẵn, chúng tôi vừa bước vào nhà chừng năm phút
thì khách cũng kéo đến đầy nhà. Năm Bé, Chín Cửu, mấy người
được xếp vào danh sách lưu manh cũng có mặt. Kế đến là những
người đàn bà con mọn,những cụ già, những thanh niên… Nói
chung, họ đều là những người nông dân thật thà chất phác,
những người đầu tắt mặt tối quanh năm mài miệt với ruộng đồng
và hơn thế nữa, cuộc đời họ đã từng sống kiếp tá điền, đã từng
đi qua hai cuộc chiến tranh. Có người đã từng bị đày ra Côn
Sơn, Phú Quốc, có người mang trên mình năm bảy vết thương. Họ
sống trung thực, thật thà nhưng đầy bản lĩnh, thậm chí ngang
tàng, sẵn sàng đập nát bất cứ cái gì mà họ cho là tráo trở,
bất công.
Hơn mưòi năm qua, họ lại không được bình yên với bao nhiêu lần
xáo trộn của những cung cách làm ăn phi lý, của sự đàn áp bất
công. Nhưng họ vẫn âm thầm làm đội quân chủ lục, đổ giọt mồ
hôi để nuôi dưỡng mọi người, trong đó có một lớp người sống
bám. Họ không cần biết những kẻ ăn gạo của họ đã đối xử với họ
thế nào.
Căn nhà bà Hai Giáp đêm ấy chật người, không đủ chỗ ngồi. Họ
phải trải chiếu ngồi dưới đất. Chúng tôi chỉ ngồi im lặng lắng
nghe những lời tâm tình của từng số phận, từng bi kịch khác
nhau ở mỗi con người. Một niềm ân hận dày vò trong tôi bởi
những mường tượng đầy lý thú vê họ qua lời đồn, qua báo cáo
của đồng chí phó bí thư huyện ủy. Tôi chợt giật mình khi nghĩ
rằng : nếu như tôi chỉ ngồi thu thập tài liệu ở Viện kiểm sát,
ở Sở Công an và ở đoàn chỉ đạo của anh Sáu Kiên thì tôi sẽ
viết về những người nông dân ở đây như thế nào ? chắc rằng tôi
sẽ kết tội ông Bảy Liên Xô là tên phản động, chắc rằng ông sẽ
xuất hiện trên bài viết của tôi hoàn toàn ngược lại với tất cả
những gì mà tôi sẽ kể dưới đây.
Ông Bảy Liên Xô tham gia kháng chiến chống Pháp rồi tập kết ra
Bắc. Năm 1962 vượt Trường Sơn vào Nam, chiến đấu ở miền Đông
cho đến ngày giải phóng
Năm 1976, ông trở về làng cũ ở Long Điền thì gia đình ông
không còn ai sống sót. Cha ông làm liên lạc cho cách mạng bị
giặc bắt và đánh chết. Người em ruột của ông nuôi chứa cán bộ
cũng bị máy bay ném bom giết chết. Cả nhà cửa, vợ chồng con
cái người em cùng với một cơ sở Đảng bị vùi dập dưói hố bom.
Ông hồi hương như một người khách lạ, hơn nữa đời người vẫn
chưa có vợ con.
Cái tên Bảy Liên Xô thật ra là tên của vợ ông bây giờ. Bà Bảy
tên thật là Trần Thị Liên. Năm mươi chín tuổi, sắp làm đám
cưới, bà đã từ hôn và trốn gia đình đi theo kháng chiến.
Năm 1965, bà làm huyện đội phó huyện
Giá Rai và lập gia đình với đồng chí Thắm, trưởng ban tuyên
huấn xã Long Điền. Năm 1969, đồng chí Thắm hy sinh trong lúc
bà vừa có thai ba tháng. Đứa bé ra đời trong một trận càn ác
liệt, bà phải tự sinh đẻ dưới bụi cây. Sau đó bà đau nặng, á
khẩu một thời gian không cầm súng chiến đấu được, bà nhận sự
phân công của tổ chức giả người mắc bệnh thần kinh ra hoạt
động bán hợp pháp ở thị trấn Giá Rai để gây dựng cơ sở.
Năm 1971, do hai tên chiêu hồi chỉ điểm, bà bị bắt giam và
đánh đập đến tàn phế. Gia đình phải bán trâu bán lúa để chạy
lo cho bà được thả ra. Từ đó, bà trở về căn cứ chữa bệnh cho
đến ngày giải phóng. Do hậu quả của những trận đòn tra tấn,bà
trở thành người bệnh hoạn và nghỉ công tác, trở về địa phương
sống với gia đình bên chồng ở xã Long Điền Tây, gần gia đình
cũ của ông Bảy Liên Xô.
Nhờ bà con xóm làng mai mối, năm 1976 hai người cưới nhau. Lúc
bấy giờ ông Bảy Liên Xô đã gần năm mươi tuổi. Năm 1977, ông từ
quân khu 8 chuyển về quân khu 9 cũng là lúc họ sinh được đứa
con trai. Bà Bảy lúc ấy bị đau thần kinh thiệt, lúc điên lúc
tỉnh, đầu rụng không còn sợi tóc. Họ không có nhà ở, phải ở
đậu trong cái chuồng trâu hoặc bên nhà cha vợ. Đứng trước cảnh
nghèo túng, không tiền chạy thuốc và để cứu lấy hạnh phúc muộn
màng mới vừa tìm được ở cái tuổi năm mươi, ông Bảy Liên Xô
đành bỏ ngủ với cấp hàm đại úy.
Hai cuộc đời ấy cuối cùng trở về địa phương với hai bàn tay
trắng sống hẩm hiu như kẻ bị bỏ rơi, rũ sạch công lao của một
thời kháng chiến. Dưới cặp mắt của chính quyền địa phương ông
Bảy Liên Xô là một kẻ đào ngũ sống bất hợp pháp,vì vậy mà qua
bao nhiêu lần điều chỉnh ruộng đất, họ không hề cấp cho vợ
chồng một cục đất chọi chim. Vợ chồng ông phải tự mua đất làm
ruộng sống.
Buồn chán cho số phận, bất mãn chính quyền địa phương cộng với
tình hình ngang bướng, ông Bảy Liên Xô trở thành con người
sống lầm lũi, bấtt cần, ôm lấy cuộc đời riêng với bao tâm sự
ngổn ngang. Gần mười năm sống ở Long Điền Đông A, hầu như ông
tách hẳn mối quan hệ tình cảm với chính quyền. Mặc dù không
có mâu thuẫn gì với nhau, nhưng bên trong, chính quyền vẫn cảm
nhận rằng ông bất mãn và khinh thường họ. Ngược lại ông cũng
cảm nhận được rằng họ chẳng ưa ông.
Xã
phát động phong trào làm đất đỏ, ông không làm, chủ tịch xã
đến vận động ông : “Chú là người có công lao trong kháng
chiến, nay về địa phương cũng nên làm gương cho bà con”. Ông
nói : “ tao là thằng đánh giặc mướn ở miền Đông, chẳng có công
lao gì ở đây cả, giờ về đây với hai bàn tay trắng, tụi bây có
ngó ngàng gì tới tao đâu mà bảo tao làm gương”.Chính quyền xã
đến thu thuế nông nghiệp, ông nói:” tụi bây không cấp đất cho
tao,đất này tao tự mua, tao không đóng thuế “.
Thật ra, việc bắt người thiếu thuế đối
với Long Điền Đông A là chuyện bình thường, có người thiếu nữa
ký lúa cũng phải mang đi đóng đủ. Nhưng với ông Bảy Liên Xô,
hầu như cán bộ xã ở đây đều ngán ông ở cái tính ngang bướng và
nhiều lý lẽ. Thậm chí lúc ông bỏ ngũ có mang về nhà một khẩu
súng cạcbin, một khẩu 54 và một trái lựu đạn nhưng chính quyền
xã cũng không dám thu hồi. Có lần bí thư chi bộ ập đến thương
lượng với ông đổi khẩu K54 với khẩu Col 12 của bí thư xã, nếu
ông chịu đổi, bí thư xã sẽ bù cho ông 20 giạ lúa. Ông từ chối
và nói: “Súng này của quân khu!”Một lần khác, bí thư chi bộ ấp
uống rượu say, đến hỏi mượn khẩu súng của ông để đeo lấy le
vài ngày, ông không cho mưọn, rồi thôi
Từ
những định kiến lặt vặt ấy dẫn đến sự kiện ông bị bắt vô cớ,
quần chúng kéo biểu tình, chính quyền nhận khuyết điểm, cách
chức chủ tịch huyện, chủ tịch xã và cảnh cáo phó công an huyện
làm cho nhiều cán bộ cay cú nghĩ rằng đối với ông Bảy Liên Xô,
họ là người thua cuộc. “Cũng vì tên Bảy Liên Xô mà chúng ta
mất đi một chủ tịch huyện”. Từ đó, vấn đề Long Điền Đông A trở
thành “sự kiện Bảy Liên Xô”. Mọi sự phản ứng của quần chúng
trong việc trả nợ phân bằng lúa, người ta đều đỗ tội cho ông
Bảy Liên Xô, rằng ông là kẻ cầm đầu những người nông dân chống
lại chủ trương Nhà nước. Ông Bảy Liên Xô phải sống trong sự
rình rập, theo dõi và vu khống của chính quyền. Ấ p báo cáo về
xã, xã báo cáo về huyện, huyện báo cáo về tỉnh, tỉnh báo cáo
về Trung ương, những bản báo cáo đi qua nhiều trung gian, mỗi
cấp lên một ít, cuối cùng ông Bảy Liên Xô trở thành: “tên thủ
lĩnh” của một nhóm người bạo loạn. Thay vì vận động, giáo dục
để ngăn ngừa sai phạm, ngưòi ta âm thầm mở cửa khám và chờ đợi
ông trở thành tội phạm để tống giam.
Trong bất cứ cuộc đấu tranh nào,chắc ai cũng cần đồng minh và
phe cánh, cần có tổ chức và lựa chọn những biện pháp tối ưu.Ở
đây, hằng trăm người nông dân đang yêu cầu Nhà nước phải giải
quyết rõ ràng. Vì sao huyện bán phân tồn kho cho họ một ký năm
đồng cuối mùa lại đòi ba ký lúa, rồi bắt bớ, mắng chửi và ức
hiếp quần chúng. Vì sao Năm Phú,Đông Á, Sáu Danh, Chín Việt,
những cán bộ đã phổ biến chủ trương ấy giờ lại bảo rằng họ
không có nói? Vì sao hợp đồng kinh tế đã ghi rõ ràng như vậy
giờ lại nói rằng đó là phân tạm ứng, chưa có giá chính thức,
rằng hóa đơn kiểm phiếu xuất kho ghi giá năm đồng một ký phân
chỉ có giá trị thanh toán giữa vật tư với ngân hàng ?
Cứ
thế, một bên đòi thu nợ phân bằng lúa, một bên kháng cự quyết
liệt đòi trả bằng tiền. Cái nguyên nhân chủ yếu để tạo ra cuộc
tranh chấp này thì bị bưng bít mất đi, các cấp lãnh đạo ngồi
lại với nhau để tìm ra nguyên nhân khác, lúc thì đổ lỗi cho kẻ
địch, lúc lại đổ lỗi cho ông Bảy Liên Xô. Rối thành lập Ban
chuyên án hình sự và an ninh quốc gia.
Long Điền Đông A, xã vừa nhận tấm huân chương lao động của Hội
đồng Nhà nước và đang làm thủ tục để được tuyên dương xã anh
hùng, kế đó đã sa vào một hang cùng không lối thoát.
V. MÀN HAI CỦA TẤN THẢM KỊCH
Cuối năm 1987, tỉnh ủy cử anh sáu Kiên, Giám đốc Sở Văn hóa
Thông tin cùng với Đoàn cán bộ huyện Giá Rai xuống Long Điền
Đông A để giải quyết vấn đề gọi là “ Sự kiện Bảy Liên Xô”, hay
nói cách khác, giải quyết những hậu quả của cuộc biểu tình năm
1986.
Dư
luận thắc mắc rằng vì sao ông Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin
lại được phân công đi giải quyết một vấn đề hoàn toàn không
thuộc về chức năng của ngành văn hóa? Có người nhận định rằng
sự kiện Long Điền Đông A cần một người tế nhị, có văn hóa như
Sáu Kiên để tiếp xúc với quần chúng thì sẽ có sức thuyết phục
hơn. Trong hàng ngũ các nhà lãnh đạo ở đây, Sáu Kiên từng nổi
tiếng là người duy nhất đọc hết bộ Lê-Nin toàn tập.
Từ
nhận định tốt đẹp ấy, người ta hy vọng rằng vấn đề Long Điền
Đông A sẽ được kết thúc trong vòng ngắn gọn để trả lại vị trí
xứng đáng của một xã điển hình, một con chim đầu đàn của Minh
Hải, một tiền đồn vững chắc của huyện trọng điểm Giá Rai.
Theo chủ trương của tỉnh ủy, muốn giải quyết được vấn đề Long
Điền Đông A, trước hết cần làm sáng tỏ xem huyện ủy có chủ
trương bán phân tồn kho với giá năm đồng một ký hay không. Nếu
huyện ủy có chủ trương thì huyện ủy chịu trách nhiệm. Còn nếu
như huyện ủy không có chủ trương thì cá nhân nào phổ biến sai
phải có biện pháp kỷ luật trước dân. Vấn đề cuối cùng là phải
vận động, giải thích và thuyết phục quần chúng chấp nhận chủ
trương chung của Nhà nước để họ chịu trả nợ theo giá mỗi ký
phân bằng ba ký lúa. Sau khi họ ký nợ xong, nếu hộ nào không
có lúa trả thì cho họ trả dài hạn trong thời gian ba năm. Sau
ba năm, nếu họ thật sự không có khả năng trả thì nhà nước xóa
nợ.
Người ta nhận định rằng nếu chủ trương ấy đến với Long Điền
Đông A trước cuộc đấu tranh xảy ra hồi cuối năm 1986 thì chỉ
cần thực hiện hai biện pháp đầu tiên là người nông dân sẵn
sàng chở lúa đi trả nợ phân mà không một lời phản đối. Còn bây
giờ, tuy đã muốn nhưng nếu chủ trương ấy được thực hiện bằng
tất cả lòng kiên nhẫn với quan điểm lấy dân làm gốc, cùng bàn
bạc với dân bằng sự nhiệt tâm để làm sáng tỏ thì chắc rằng, họ
sẽ đem cái nghĩa tình phóng khoáng có sẵn của người nông dân
ra mà đối đãi, như anh Hai Hiệp đã nói với chúng tôi: “Nói
thật với các anh, năm đồng bạc bây giờ mua không được cục kẹo
bòn bon, nhưng nếu mấy ông huyện chịu thật, đừng chơi kiểu lật
lông, đừng ức hiếp, và nếu mấy ổng chịu chơi, xóa nợ đi, tôi,
thằng hai Hiệp này sẽ đưa lại nhà nước mỗi ký phân bốn ký lúa
chớ không phải ba. Hồi kháng chiến, người ta hiến năm bảy chục
giạ lúa, hiến cả mạng người còn không tiếc. Còn chơi kiểu anh
Sáu Kiên bây giờ, phát loa bêu xấu hả, xin lỗi, đừng hòng ai
trả hột lúa nào!”
Vậy là trái ngược với người ta nhận định.
Nếu như chiến dịch huy động lương thực ở đây hồi cuối năm
1986 do vị chủ tịch huyện chỉ huy được trang bị bằng còng số
8, súng AK và dây chuối thì bây giờ có khác. Đoàn cán bộ của
anh Sáu Kiên được trang bị bằng các phương tiện thông tin đại
chúng, nào máy quay phim camera, nào Video cassette, nào máy
ảnh, máy phóng thanh và một tổ phóng viên báo chí để viết tin,
bài phát loa tại chỗ. Sau khi rà soát lại các phương tiện, ông
Giám đốc Sở văn hóa tuyên bố:”Vậy là đầy đủ phương tiện hết
rồi phải không, kỳ này mà trị không được đám dân này, tôi sẽ
từ chức giám đốc và cạo đầu vô chùa tu luôn!”
Màn hai của tấn thảm kịch ở Long Điền Đông A được thay đổi như
thế nên cách dàn dựng có bài bản hơn, bố cục chặt chẽ hơn và
thể hiện chất văn hóa thông tin cao hơn.
Đầu tiên, các tập đoàn trưởng được mời đi đóng phim, bộ phim
do Giám đốc Sở Văn hóa biên kịch và đạo diễn.
Mấy hôm sau, quần chúng được mời đến kho lúa xem Video
cassette do đoàn chỉ đạo huy động lương thực chiếu phục vụ
không phải mua vé. Bà con ùn ùn rủ nhau đi xem. Nhưng kỳ lạ
thay, trước giờ chiếu phim chính, họ thấy trên màn ảnh xuất
hiện các anh tập đoàn trưởng của họ, mặt mày ngơ ngáo, mất hết
thần sắc, miệng thì ngập ngừng nói rằng việc bán phân bằng
tiền họ chỉ nghe lập lờ qua những tin đồn thất thiệt rồi phổ
biến lại với bà con, không có ai công bố chính thức. Nay họ
nhận thiếu sót và yêu cầu bà con thực hiện chủ trương chung,
trả nợ một ký phân bằng ba ký lúa.
Mặc cho khán giả chửi thề ỏm tỏi,nhổ toẹt nước miếng bỏ về,
mặc cho những xung đột, những mâu thuẫn xảy ra giữa những
người nông dân với tập đoàn trưởng, mặc cho các anh tập đoàn
trưởng kia bị dày vò đau khổ, cắn rứt lương tâm… nhà đạo diễn
cứ yên trí rằng những thước phim ấy đã chứng minh cho quần
chúng thấy rằng họ không còn lý do gì để vịn vào một ký phân
năm đồng nữa, họ không còn lý do gì để chống đối việc phải trả
một ký phân bằng ba ký lúa.
Có
lẽ anh Sáu Kiên rất hài lòng khi xử lý trường đoạn này chăng?
Đêm ấy nằm thao thức ở Long Điền Đông A, tôi chợt liên tưởng
đến vỡ cải lương Người ven đô phản ánh cuộc đấu tranh của nhân
dân Mười Tám Thôn Vườn Trầu trong thời kỳ luật 10/59 với nhân
vật Tám Khỏe, một người nông dân trung thành với cách mạng bị
chính quyền Ngô Đình Diệm buộc ông phải ly khai với cộng sản,
vì chúng nghĩ rằng nếu quật được ông thì cả Mười Tám Thôn Vườn
Trầu không còn ai theo cộng sản. Ông nhất định không chịu.
Chúng khống chế ông bằng cách thả chó bẹc- giê vào đám tù
nhân, trong đó có con gái ông rồi chúng ra lệnh cho ông:” Nói
đi rồi tôi tha cho họ, chỉ cần nói nhỏ thôi, nói đủ tôi nghe
thôi, nhưng tiếng nói của ông sẽ cứu những người ấy khỏi bị
chó bẹc giê xé xác, trong đó có con ông”. Thế là ngày hôm sau,
khắp Mười Tám Thôn Vườn Trầu người ta nghe tiếng ông Tám Khỏe
vang đội trên loa phóng thanh:”Tôi, tôi là Tám Khỏe, tôi xin
tuyên bố ly khai với cộng sản!” Chúng chỉ cần một lời nói như
thế, mặc cho ông Tám Khỏe bị dày vò, điên loạn.
Giá như cái thời ấy có camera và Video Cassette thì chắc chắn
rằng hình ảnh ông Tám Khỏe sẽ bị đem đi chiếu khắp Mười Tám
Thôn Vườn Trầu cho dân chúng nhìn xem.
Song, ông Tám Khỏe chỉ là nhân vật trong vở cải lương. Còn
những anh tập đoàn trưởng xuất hiện trên màn ảnh nhỏ ở đây để
tuyên bố với dân chúng rằng không có ai phổ biến việc bán phân
bằng tiền lại là những con người thật.
Chị Nguyễn Thị Cúc, vợ anh Mai Ngọc Có, tập đoàn trưởng tập
đoàn 7 kể với chúng tôi:
- Chồng tôi hiền như cục đất, tháng năm nói một tiếng, tháng
mười nói một tiếng, làm sao cãi lại mấy ổng. Chính ông Năm
Phú, bà con cô cậu ruột với tôi chớ xa lạ gì. Năm đó ổng về
đây nhậu, đôn đốc anh Có một hai phải đi mua phân cho gấp vì
đây là phân tồn kho, bán bằng tiền, không mua kịp để qua tết
phân mới nhập về sẽ bán bằng lúa. Năm Phú còn bảo tôi nuôi heo
để tới mùa bán heo trả tiền phân, để lúa lại ăn. Chồng tôi ra
huyện nhận phân, mấy ông ngoài huyện cũng nói vậy nên ảnh mới
về phổ biến lại cho bà con, mấy ổng nói rồi mấy ổng chối. Hôm
rồi bắt anh Có đi mấy ngày để quay phim rồi đem lên chiếu, nói
ngược trở lại cho bà con người ta oán ghét … Đối với gia đình
tôi, anh Có đã nói như vậy mà ảnh lại là tập đoàn trưởng nên
ảnh phải ký nợ để làm gương. Tôi cũng tưởng đâu ký rồi để đó,
trả dần trong ba năm vì năm nay thất mùa, gia đình tôi nuôi ba
miệng ăn mà giờ này còn không được bốn mươi giạ lúa. Tôi ký nợ
xong mấy ổng bắt phải vét bồ để trả.Năm ấy cũng vì tưởng mấy
ổng bán phân bằng tiền nên gia đình tôi mua sáu bảy trăm ký,
giờ quy ra lúa, tôi phải nợ trên hai tấn lúa, lấy gì trả. Tôi
năn nỉ mấy ổng cho trả năm trăm ký lúa, còn lại ký nợ sang năm
sau. Mấy ổng không chịu, kèn cựa qua lại cuối cùng mấy ổng bắt
phải trả bảy trăm ký. Tôi chở năm trăm ký ra nhập kho, còn lại
hai trăm ký tôi năn nỉ mấy ổng cho tôi nợ qua tết, đến ngày
thu hoạch rẫy, tôi nhổ hành bán, mua lúa trả thêm vì hiện giờ
nhà tôi chỉ còn đủ lúa ăn đến Tết, mấy ổng không chịu. Ông Hai
Nhành, Chủ tịch Hội nông dân huyện đến hăm dọa tôi:
- Đúng bốn giờ chiều nay, chị không chở thêm hai trăm ký lúa ra
nhập kho cho đủ bảy trăm ký thì chị đừng trách!
Tức quá không kềm được, tôi nói :
- Mấy ông làm quá chắc tôi tự vận chết chớ sống gì nổi.
Tưởng nói thế ổng động lòng, ai ngờ ổng thách :
- Chị chết đị, chết mười mạng như chị tôi cũng không tiếc, miễn
sao chị trả đủ lúa cho nhà nước thì thôi.
Nói đến đây, dường như uất ức đến tột cùng, chị Cúc khóc nấc
lên:
- Mấy chú nghĩ coi, vậy là mấy ổng cần lúa chớ đâu cần dân. Nói
thật, tôi chỉ sợ mình chết rồi không ai nuôi con, nếu không
nghĩ thế thì tôi đã uống thuốc rầy ngay trước mặt mấy ổng hôm
ấy cho thấu trời thấu đất.
Anh Trần Ngọc Quang, tổ trưởng tổ đoàn kết số 1, rầu rĩ than
với chúng tôi:
- Ông sáu Kiên bắt tôi đi quay phim tố cáo cánh ông Bảy Liên
Xô. Ông hứa với tôi là ổng quay vậy chớ ổng không chiếu, cuối
cùng ổng chiếu, làm cho dòng họ ông Bảy Liên Xô thù ghét, hăm
doạ tôi. Bây giờ tôi không dám đi đâu hết !
Vợ
anh Quang vừa khóc vừa nói:
- Khổ lắm mấy chú ơi ! Hễ được lòng dân thì mất lòng Đảng. Còn
làm cho vừa lòng Đảng thì mất lòng dân. Riết rồi không biết
làm sao mà sống, chắc tôi phải dỡ nhà đi nơi khác!
Chiến dịch đôn thu được tiến hành bằng nhiều biện pháp và mỗi
biện pháp được áp dụng cho từng đối tượng khác nhau sau khi đã
điều tra, phân loại.
Nếu là cán bộ, Đảng viên, họ sẽ bị
cách chức hoặc khai trừ Đảng nếu không chịu trả nợ phân bằng
lúa. Một số Đảng viên lúc đầu chống lại quyết liệt, kêu gọi
quần chúng đấu tranh đến cùng. Nay họ vẫn âm thầm chịu đựng,
có người quay lưng lại với quần chúng để lập công, cũng có
người muốn tiếp tục đấu tranh nhưng không dám ra mặt. Họ tâm
sự với quần chúng :
- Tôi kẹt là Đảng viên nên không tranh đấu được, bà con cố gắng
tranh đấu, trong đó cũng có quyền lợi của tôi !
Đối tượng thứ hai là những người có thân nhân là
cán bộ, Đảng viên thì những cán bộ Đảng viên ấy phải có trách
nhiệm vận động thân nhân mình trả nợ. Nếu họ không hoàn thành
nhiệm vụ sẽ bị xử lý.
Chị Trần Thị Chính ở tập đoàn 4 kể:
- Lúc đầu tôi cũng đấu tranh quyết liệt như
bao nhiêu người khác. Nhưng sau khi đoàn cán bộ của ông Sáu
Kiên về đây, hai thằng em bà con của tôi công tác ngoài huyện
cũng về. Cả hai đứa nó đều là thường vụ huyện uỷ, một đứa làm
trưởng ban kiểm tra Đảng, một đứa làm trưởng phòng Công an.
Tụi nó năn nỉ tôi :’’- Chị cứ phản đối hoài thì kẹt cho tụi em
lắm. Bây giờ chị ký nợ đi rồi trả từ từ trong thời gian ba
năm. Đâu phải bắt chị trả một lần mà chị sợ’’. Vì thương em
út, sợ kên với mấy ổng thì ảnh hưởng đến công tác của tụi nó.
Tôi ký nợ và chỡ đi trả bảy trăm ký lúa. Còn lại hơn một tấn,
hẹn lại năm sau. Ai dè hai thằng em tôi về huyện mấy ngày thì
Bí thư và Chủ tịch xã mời tôi lên nạt hùm nạt tướng, bảo tôi
phải trả dứt nợ cho nhà nước. Tôi nói lúa tôi hiện giờ chỉ còn
đủ ăn tới tháng sáu, trả hết rồi vợ chồng con cái tôi nhịn đói
hay sao. Bí thư xã quát :
- Chị không còn lúa nhưng chị có trâu, có
ghe, có tài sản. Chị bán tài sản mua lúa trả !
Giận quá tôi nói :
- Bây giờ ghe tôi đó, trâu tôi đó, nếu bán
được mấy ông kiếm mối bán dùm đi
Chủ tịch xã dọa tôi :
- Chị thiếu nợ nhà nước mà chị còn ăn nói
kiểu đó phải không? Bây giờ tôi nói dứt khoát, nếu chị chịu
trả thì ký tên vào biên bản, bằng không tôi nhốt chị ở đây !
Tôi không chịu trả, họ cho người dẫn tôi
qua cơ quan công an và bảo tôi nhắn người nhà mang mùng mền,
quần áo lên ở đó, khi nào đồng ý trả hết lúa mới được về.Tôi
ngồi ở đó đến trưa thấy không có ai canh giữ, tôi lọi về nhà.
Mấy ngày sau, chủ tịch xã gửi giấy mời tôi nữa.
Nhưng tôi không lên xã mà đi ra huyện tìm hai thằng em và kể
lại sự việc cho nó nghe. Tụi nó suy nghĩ một hồi rồi nói ;
“-Chị cứ về đi, tụi em sẽ can thiệp, không sao đâu”. Từ đó đến
nay, mấy ông xã không mời tôi nữa.
Đối tượng thứ ba là những người có ghe đánh
cá. Anh Tám Bé, chủ tịch xã kể với chúng tôi:
- Ông Sáu Kiên ra lệnh cho tôi : những người có ghe
đi biển mà không chịu trả nợ phân bằng lúa cho lực lượng du
kích đến kéo ghe họ lên bờ.Tôi đề nghị ông phải ra lệnh bằng
văn bản và ký tên chịu trách nhiệm tôi mới dám làm, để sau
này khỏi đổ tội cho nhau, phải ký đúng cái tên Nguyễn Trung
Kiên của ông đang làm Giám đốc Sở văn hóa tôi mới chịu. Cuối
cùng ổng chịu viết lệnh bằng văn bản. Thú thật, lúc ấy cầm tờ
lệnh trên tay, tôi hơi bần thần vì thấy biện pháp này táo bạo
quá, tôi dần dừ mãi không dám thi hành. Ổng quy kết tôi có hùn
hạp làm ăn với mấy chủ ghe, sợ mất quyền lợi nên không dám ra
tay. Cuối cùng để hoàn thành nhiệm vụ mà khỏi bị dân óan ghét,
tôi nhờ ông trưởng đồn biên phòng lên can thiệp.
Ông Sáu Tố ở tập đoàn 6 tâm sự với chúng
tôi :
- Tôi chở bảy chục giạ lúa đi trả mà tôi ray
rức, khổ tâm đến rơi nước mắt. Không phải tôi tiếc của mà vì
tôi trả trong lúc chưa được giải oan, trong lúc mọi vấn đề
chưa được làm sáng tỏ. Hôm ấy tôi bị mời lên Ủy ban xã, chủ
tịch xã và trưởng đồn biên phòng dẫn tôi ra căn chòi nhỏ phía
sau vườn. Anh trưởng đồn biên phòng nói :
- Một trong những tiêu chuẩn để được hành nghề đánh
cá là người ngư dân phải chấp hành tốt các chủ trương, chính
sách của Nhà nước. Theo báo cáo của ủy ban xã thì ở đây còn
nhiều ngư dân chưa thanh toán dứt điểm nợ phân năm 1986 với
Nhà nước, trong đó có ông. Hôm nay chúng tôi mời ông lên đây
để báo cho ông biết rằng, nếu ông không chịu chở lúa đi trả
thì tôi, trưởng đồn công an biên phòng ở vùng này sẽ thu hồi
sổ đề ba, không cho ông ra biển.
Tôi thanh minh :
- Việc tôi nợ phân năm 86 là vì huyện bán
cho chúng tôi bằng tiền nhưng cuối mùa đòi lúa và xảy ra cuộc
tranh chấp đến nay chưa giải quyết chớ phải tôi không chấp
hành chủ trương của Nhà nước đâu. Chúng tôi đang khiếu nại và
chờ cấp trên xuống đây phân xử.
Chủ tịch xã hằn học cướp lời tôi :
- Tôi bảo cho anh biết, bè lũ côn đồ của tên
Bảy Liên Xô sắp bị tiêu diệt hết rồi, anh đừng dựa vào chúng
mà đợi chờ, hy vọng gì nữa. Một ký phân ba ký lúa, anh trả đi!
Trả để được ra biển làm ăn.
Gương mặt ông Sáu Tố toát lên một vẻ gì như
vừa đắng cay, vừa mai mỉa :
- Thật lạ lùng và kỳ dị- ông nói- tôi không
hiểu “ bè lũ của tên Bảy Liên Xô” là gì và tại sao họ gọi như
vậy. Chúng tôi, những người nông dân đồng hội đồng thuyền,
đồng cam cộng khổ. Đảng đã từng dạy chúng tôi phải biết thương
yêu, đoàn kết để đấu tranh, chống sự áp bức bất công. Thế mà
bây giờ …
Bà Liễu Thị Mai, bảy mươi tuổi, đầu cạo
trọc, mặc áo cà sa lặn lội đi tìm chúng tôi trên con đê biển
dài hơn 5 cây số dưới cơn nắng cháy da để “ kể cho bớt những
điều oan ức trong lòng”. Bà nói như vậy và kể : Đảng nói lấy
dân làm gốc tôi chưa thấy, chỉ thấy số phận mình như cái gốc
mắm ngoài ven biển, mặc cho gió đẩy sóng xô. Mấy ông bán phân
bằng tiền giờ lại đi đòi lúa, dân không chịu trả, mấy ổng đổ
thừa tại ông Nguyễn Văn Linh nói lấy dân làm gốc nên giờ mới
sinh ra rắc rối.
Hôm rồi ông Tư Tâm đến nhà bảo tôi ký
nợ,tôi không chịu ký,tôi nói nếu đòi tiền thì tôi trả, còn đòi
lúa thì tôi không trả, ổng mắng vào mặt tôi:
-Bà giựt của nhà nước phải không? Nếu bà
không chịu trả, tôi mắc loa phóng thanh trước cửa nhà bà tôi
bêu xấu,tôi nói bà ăn giựt.
Tôi nói với ông:
Chú đừng nói như vậy. Sở dĩ tôi chưa chịu
trả là vì tôi thấy trong vụ này có nhiều chuyện bất công chớ
ai lại đi ăn giựt cho xấu hổ. Hồi kháng chiến tôi hiến cho nhà
nước mấy chục giạ lúa, tôi có câu nệ gì đâu.
Ổng lại quát vào mặt tôi:
- Cuộc kháng chiến thành công không phải có
một mình bà đóng góp, bà đừng kể lể.
Rồi ổng bảo hai ngưòi kia lập biên bản,nhưng biên bản lại ghi
tên con tôi. Tôi phản đối:
Các ông lập biên bản thì cứ lập, tôi sẵn
sáng ký, nhưng phải ghi tên tôi vì tôi là chủ hộ, tôi mua phân
nhà nưóc chớ không phải con tôi.
Ông Tư Tâm lại nói :
- Bà già cả rồi, bà có biết gì mà ghi tên
bà.
Chắc mấy ổng nghĩ tôi già cả,tu hành,khó
bắt bớ nên ghi tên con tôi để bắt nó cho dễ hơn.
Anh phóng viên đài phát thanh nót một câu
như để thử lòng bà cụ :
-Nếu như trước đây huyện có chủ trương bán
phân bằng tiền và chủ trương ấy sai lầm.Bây giờ họ nhận thiếu
sót thì bà chịu trả bằng lúa không?
- Không!
- Sao vậy, người ta lỡ làm sai, bây giờ
ngưòi ta sửa, chẳng lẽ bà không tha thứ sao?
- Không phải hẹp hòi gì mà không tha
thứ.Nhưng trước không thảo,sau thảo,bà lão không cần!
Tôi giật mình trước câu trả lời của bà
cụ.Và tôi đã nghiệm ra. Phải chăng mọi vấn đề của Long Điền
Đông A nằm quẩn quanh trong câu nói ấy.Một câu tục ngữ đầy
nghĩa nhân và đạo lý.Trước không thảo,sau thảo,bà lão không
cần!
Ở đây, trước đã không thảo, sau lại càng không thảo
nên Long Điền Đông A mới sa lầy vào hang cùng không lối thoát.
Phải chăng vì cái tâm pháp bị thay bằng luật pháp và tinh thần
cảnh giác cách mạng được áp dụng cao độ đến chi phối hết những
điều thuộc về đạo lý, nghĩa nhân.
Biện pháp thứ tư là điều tra lý lịch, thổi phồng
tội trạng của những người dính dáng với chế độ cũ trong chiến
tranh, đem ra phóng thanh, bêu xấu họ khắp xóm làng để họ
hoảng sợ mà không dám đấu tranh. Long Điền Đông A bị chìm
trong không khí nặng nề, căng thẳng bởi tiếng loa phóng thanh
hằng đêm ngân dài trong thôn xóm, bêu xấu người này,hăm dọa
truy tố người kia, bươi móc quá khứ ngưòi nọ. Những con người
ấy dẫu có bịt tay cũng không chạy trốn được tiếng loa đau lòng
nhức óc, khơi dậy những vết thương mà họ đã cố hàn gắn mười
mấy năm qua, dồn họ vào tận chân tường không lối thoát. Họ là
ai?
Anh Huỳnh Sũn tâm sự với chúng tôi,giọng
nghẹn ngào như muốn khóc:
- Hồi trước tôi bị bắt đi phòng vệ dân sự
hai mươi mốt ngày, sau đó chúng đưa tôi đi học khóa Liên toán
trưởng ở Chi Lăng, tôi bán hai trăm giạ lúa lấy tiền lo lót để
được ở lại và khỏi phải đi phòng vệ. Sau giải phóng, tôi làm
ấp đội trưởng, bắt được mấy trận vượt biên, nộp cho nhà nước
không biết bao nhiêu vàng bạc. Vậy mà bây giờ xã báo cáo về
huyện nói tôi là tình báo CIA. Thú thật, hồi đó mặc dù tôi là
phòng vệ, nhưng ban ngày đi cuốc rẫy, làm ruộng gặp cán bộ nằm
vùng của mình, tôi vẫn tâm tình, thân mật như anh em. Còn bây
giờ,kể từ ngày chị Nguyệt Anh bị bắt cóc đến nay, tôi phải
trốn, ban đêm ra đồng ngủ bờ ngủ bụi.
Ông Hai Tế kể :
- Hồi đó tôi bị tình nghi là Việt Cộng,
chúng bắt tôi ra quận, tôi phải bán hai trăm giạ lúa để lo
lót. Nhưng có một người quen làm việc ngoài quận bảo tôi :
“Ông đút tiền cho thằng này thì mai mốt thằng khác cũng bắt
ông, thay vì ông đưa số tiền ấy cho tôi, tôi lo cho ông cái
giấy chứng nhận mật thám, có gì ông trình ra,bảo đảm hơn”. Tôi
về bàn bạc với cơ sở trong này, mấy ổng đồng ý, tôi mang tiền
đi lo, khi lấy được cái giấy, tôi cũng mang về trình cho mấy
ổng. Vậy mà bây giờ mấy ổng quy kết tôi là mật thám ngụy, lại
bươi móc cả chuyện ông già tôi hồi trước làm tay sai cho
Pháp. Chỉ có cái chuyện tôi không chịu trả nợ phân bằng lúa mà
sinh sự ra như vậy. Vợ tôi là hội trưởng phụ nữ ấp, cũng bị
bắt lên xã nhốt một đêm, đến khi bà con kéo lên đấu tranh mấy
ổng mới thả về.
Một thanh niên ngoài hai mươi tuổi, cầm
chiếc loa tay đi đọc đài trong xóm để bêu xấu người già với
những lời văn cẩu thả và thô thiển : “ Mời đồng bào nghe chúng
tôi thông báo về hành động của hai tên Nguyễn Thị Bảy ( tức vợ
Bảy Vớt ) và Nguyễn Thị Tư ( tức Sáu Nhành): hai tên này trước
đây là gia đình ngụy quân, theo Mỹ, nay tiếp tục chống đối chủ
trương Nhà nước, không chịu trả nợ phân bằng lúa, cương quyết
đòi trả phân bằng tiền, lại lén lút vận động người khác chống
đối. Nếu như hai bà không chịu thanh toán dứt điểm nơ vật tư
năm 1986 và tiếp tục lén lút, vận động người khác chống đối
chủ trương, sẽ bị đem ra xét xử theo pháp luật hiện hình của
nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam!”
Trong những cuốn băng ghi âm của anh Sáu
Kiên mà chúng tôi còn giữ lại cũng có một bài phóng thanh
tương tự như the, nghĩa là bà Sáu Nhành và bà Bảy Vót bị trấn
áp bằng cả loa phóng thanh lẫn với loa tay.
Sự trấn áp bằng máy phóng thanh không chỉ
dành riêng cho những gia đình “ ngụy quân,theo Mỹ” mà cả những
gia đình cách mạng chí cốt tiêu biểu nhất trong cái làng này.
Anh Hồ Duyên Hải, trung úy quân đội nhân dân, thương binh loại
2/4 được giải ngũ về làm tập đoàn trưởng tập đoàn tám ấp Bửu
Đông, cha anh là Trung tá tỉnh đội phó tỉnh Minh hải đã từ
trần sau giải phóng. Cũng như bao nhiêu người khác,anh đại
diện cho tập đoàn đi mua mười một tấn phân, lúc ấy công ty vật
tư nông nghiệp huyện cũng nói với anh phân này bán bằng
tiền,anh về chia cho bà con và cũng phổ biến như vậy, nay
huyện đòi trả bằng lúa,không ai chịu trả trong lúc anh đang
khiếu nại chưa được giải quyết thì công ty vật tư nông nghiệp
huyện lại phát đơn đề nghị khởi tố anh ra tòa. Suốt mấy đêm
liền, loa phóng thanh phát vang trong xóm, đọc đơn đề nghị
khởi tố và mời anh Hải ra huyện thanh toán nợ vật tư. Bài
phóng thanh ấy chúng tôi vẫn còn giữ lại.
Kính gởi: Ủy Ban nhân dân tỉnh Minh Hải, Tòa án nhân dân tỉnh
Minh Hải, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Minh Hải, Sở Tư pháp
Minh Hải, Công an tỉnh Minh Hải, Hội đồng trọng tài kinh tế
tỉnh Minh Hải, Ủy Ban nhân dân huyện Giá Rai, Tòa án nhân dân
huyện Giá Rai,Viện kiểm sát nhân dân huyện Giá Rai, phòng Tư
pháp huyện Giá Rai, Công an huyện Giá Rai và hội đồng trọng
tài kinh tế huyện Giá Rai.
Nay công ty vật tư nông nghiệp huyện Giá Rai đề nghị khởi tố
về việc như sau :
Tháng1 năm 1986, ông Hồ Duyên Hải là tập đoàn trưởng tập đoàn
8 ấp Bửu Đông, xã Long Điền Đông A, đại diện cho tập đoàn làm
hợp đồng với công ty vật tư nông nghiệp huyện, tạm ứng 11.500
kg phân urê, quy ra bằng 34.500 kg lúa. Đến nay ông Hải vẫn
chưa trả lúa cho nhà nước mà đòi trả bằng tiền mỗi ký năm
đồng.
Nay chúng tôi làm đơn này đề nghị các cơ quan pháp chế nhà
nước đưa ông Hồ Duyên Hải ra xét xử trước Tòa án nhân dân.
Anh Hải buồn rầu than vãn với chúng tôi:
- Cũng cái chuyện lúa phân này mà gia đình
tôi điêu đứng.Tôi thì nhức óc đau lòng với cái loa phóng thanh
của ông Sáu Kiên, má tôi cũng bị ổng lôi ra bêu riếu rằng bà
bây giờ hư hỏng, tối ngày lo bán đất, đánh bài, không trả nợ
phân. Thử hỏi má tôi già cả rồi, những lúc nhàn rỗi đi đánh
bài tứ sắc với mấy bà già để giải trí thì tội tình gì. Còn ba
tôi, chết rồi cũng không yên, cũng bị mấy ổng lôi ra nói xấu
rằng hồi còn sống ông ngoại tình với bà này bà nọ.
Lúa, phân, tiền. Sự kiện ấy bây giờ chỉ còn
là cái cớ để xô đẩy con người vào vòng xáo trộn với bao nhiêu
sự phiền toái, trong lúc họ đang cần chén cơm, manh áo và
những nhu cầu tối thiểu của đời sống tinh thần.
|