Bóng mây
Tôi đến thăm giáo sư Hưng, trong buổi đàm đạo, gs không ngớt ca ngợi dĩa
VCD Bóng Mây của chùa Hoằng Pháp sản xuất, bài giảng nhân mùa Vu Lan,
khoá tu mùa Hè cho các em Thanh thiếu niên, do giảng sư trẻ Thích Thiện
Thuận, Bà rịa Vũng Tàu thuyết.
Các tỉnh miền Trung và phía Bắc tôi không biết đã có dĩa giảng nầy chưa,
nhưng các tỉnh miền Tây và TP HCM hầu như đi đến đâu, tôi đều nghe họ ca
ngợi. Nhóm Thiện Nguyện khiếm thị TP đặt cơ sở tại Hốc Môn, vợ chồng
Tài
-Trâm đã sang giúp hàng ngàn dĩa Bóng Mây nầy cho các nơi yêu cầu, kể cả
gửi đi nước ngoài, nghĩa là ngoài nhóm Thiện Nguyện nầy, còn rất nhiều
nơi họ tự động sang, copy để chuyền cho nhau nghe.
Đã rất lâu, và có lẽ trước 1975 nữa, chưa hề có những khoá tu mùa Hè cho
các em Thanh thiếu niên. Nhưng 4 năm trước, chùa Phật Quang núi Dinh đã
có sáng kiến tổ chức, chương trình tại đây còn có dạy kỷ năng, sinh
ngữ, toán và giải trí… năm đầu chỉ có 60 em, năm thứ hai một trăm hai
chục em, năm thứ ba được 220 cháu và năm nay gần ba trăm cháu tham dự,
có cả các trẻ từ nước ngoài về và các em sắc tộc miền cao. Tu viện Bát
Nhã năm nay cũng có khoá tu đầu tiên cho lớp trẻ trên 700 cháu, cũng có
cả người sắc tộc, Bát Nhã chuyên tu, không có chương trình đào tạo như
Phật Quang,
phương hướng giáo dục của Bát Nhã là Thiền hành, pháp đàm, sinh hoạt
chia nhóm với danh nghĩa là gia đình, giúp nhau trình bày và mổ xẻ những
vướng mắc trong cuộc sống để các em thẩm thấu một đời sống thanh thản an
lạc trong hiện tại, dĩ nhiên nuôi dưỡng tín tâm kiên cố.
Tại
TP Hồ Chí Minh, chùa Hoằng Pháp lần đầu tiên có lớp dành riêng trẻ em,
bé nhất là 7 tuổi, lớn nhất là 17 tuổi, lượng số 1675 em. Cũng như Bát
Nhã, Hoằng Pháp không có các bộ môn ngoài đời, chỉ chuyên tu và nghe các
thầy luân phiên giảng dạy. Ngoài pháp môn niệm Phật còn trang bị đức
hiếu, lòng từ, niềm tin và xả kỷ mà Tín-Hạnh-Nguyện của người tu Tịnh Độ
cần phải có. nếu chỉ lo niệm Phật mà bỏ Hạnh-Nguyện, sẽ biến hành giả
thành kẻ van xin cầu khẩn nơi tha lực, đánh mất tính tự chủ của Đạo
Phật, và PG như thế sẽ thành ngoại đạo Thần giáo! Ba cơ sở trên đây có
ba cách tổ chức giáo dục khác nhau, nhưng điểm chung là hướng tuổi trẻ
vào con đường đạo đức! Đây là việc làm hữu ích và đầy sáng tạo.
Khi mà xã hội thoái hóa về đạo đức cá nhân, cũng đem đến loạn lạc không
kém chinh chiến. Đạo đức xã hội VN hiện nay trong tình trạng báo động
đỏ, từ nhân cách cán bộ, đời sống dân thường đến trẻ em trụy lạc phạm
pháp, từ tu sĩ đến giáo chức sư phạm… Cán bộ thiếu đạo đức, chỉ nghĩ đến
quyền lợi cá nhân, thâm lạm công quỷ hàng tỷ tỷ đồng, cướp của nhân dân
nên đưa đến phản kháng của quần chúng. Cộng đồng dân cư vì quyền lợi
riêng tư, ruột thịt xâu xé nhau, lừa đảo, cướp bóc của nhau… Trẻ em
thiếu giáo dục đã sớm sa vào trụy lạc, trộm cắp, giết người, giới chức
thiếu đạo đức đã bán rẽ lương tri, gạ gái trinh tiết… Tu sĩ không được
giáo dục từ trường lớp và thầy tổ, tông môn ( người nầy không gọi là tu
sĩ mặc dù hình thức tu sĩ ) không thật sự tu tập nên phạm trai phá giời.
Các công trường xây dựng liên tục xẩy ra tai nạn lao động chết người do
vô trách nhiệm và rút ruột công trình. VN hiện nay mọi ngành nghề đều
luôn được báo động về chất lượng, vệ sinh thực phẩm, môi trường… do
thiếu đạo đức nghề nghiệp. Ngay cả ngành y được mệnh danh lương y như
từ mẫu, thế mà báo chí vẫn phản ảnh những tắc trách của Bác sĩ, y
tá, đã làm thương tổn, mất mát bao sinh mạng bà mẹ và trẻ thơ! Ngành
công an thường xẩy ra những cán bộ đánh chết người, hà hiếp dân do thiếu
đạo đức nghiệp vụ, lạm quyền và mang tính hiếu sát! nghĩa là mọi người
đánh mất niềm tin lẫn nhau, nguyên nhân chính vẫn là giáo dục và định
hướng giáo dục tổng thể, kể cả đơn vị gia đình! Khi mà cán bộ hoạch định
giáo dục không chú trọng cái gốc, dĩ nhiên phần ngọn sẽ bị sâu thối.
Suốt thời kỳ nội chiến, 25 năm xây dựng XHCN miền Bắc, tập chú cho chiến
tranh, xem nhẹ vấn đề giáo dục, và ngay cả 30 năm thống nhất đất nước,
chính sách giáo dục đã xem nhẹ vai trò đạo dức tôn giáo trong xã hội và
trong học đường, nên đã tạo một lỗ hổng to lớn cho dân tộc, trong khi
đó, một số nước tiến bộ, họ có những tuyên uý trong lao xá, hoặc tu sĩ
vào thuyết giảng trong trại tù, cảm hoá một số không nhỏ trong các phạm
nhân ngoài các bộ môn hướng nghiệp. Sai lầm nghiêm trọng của luật pháp
đã xem lao tù là nơi trừng phạt hơn là giáo dục, học tập cải tạo chỉ là
mỹ không có nội dung từ khi mà các tội phạm hình sự thời gian thụ án
cũng là thời gian bồi dưỡng nghiệp vụ do đàn anh trao truyền kinh
nghiệm giựt dọc trộm cướp hoặc kỷ xảo hai ngón. Thay vì cán bộ
trại dùng đạo đức huấn trị, ngược lại, phạm nhân khi ra khỏi tù càng
mang hận thù vì bị ngược đải, tuy nhiên có vài cán bộ (rất ít) tạo ấn
tượng tốt cho tù nhân suốt thời gian họ bị giam hãm qua nhân cách đạo
đức và trí thức của số ít cán bộ đó!
Nếu chi phí cho hàng trăm trại tù từ Bắc chí
Nam
được đầu tư cho giáo dục đạo đức nhân thân và đạo đức xã hội thì tội
phạm hình sự sẽ giảm đáng kể. Hiện nay, một vài trại cải tạo cũng dược
rao giảng đạo đức, dĩ nhiên ít nhiều phạm nhân cũng ảnh hưởng Đạo Đức
tôn giáo, đặc biệt Đạo đức PG mang tính đạo đức xã hội.
Trong những tiêu chuẩn trở thành một người tốt, được chư tăng giảng dạy
rời rạc trong các thời giảng, như thầy Chân Quang đã sớm kết tập những
tiêu chuẩn Đạo Đức đó qua 30 đề mục để tập thành cuốn Tâm Lý Đạo Đức,
tuy nội dung không có gì mới mẻ nhưng cái mới là đã trình bày dưới một
nhãn quan tâm lý xã hội cũng như hầu hết các bài thuyết giảng Phật Giáo
đều mang thông điệp luân lý đạo đức xã hội và ngôn ngữ của đời sống xã
hội bình dị. Thầy Chơn Quang mở đầu những hoạt động Phật giáo đầy sáng
tạo, sau đó không lâu, người cùng tuổi với thầy, cũng một tu sĩ trẻ có
nhân cách, chuyên tu, đã sáng lập những phương cách Hoằng pháp mới
chuyên hướng về tu tập hơn là xã hội, đó là thấy Chơn Tính, chùa Hoằng
Pháp, thầy tổ chức thường xuyên về ánh sáng Phật Pháp Nhiệm Mầu để những
thành phần đặc biệt trong đời thường nói lên nguyên nhân hướng về Phật
Pháp, tạo niềm tin không nhỏ cho quần chúng. Khoa giảng diễn của thầy
Chân Quang thuyết phục phần lớn quần chúng bình dân thì lối hoằng pháp
của thầy Chân Tính mời các giảng sư trẻ luân phiên thuyết giảng và Phật
tử trình bày tâm nguyện, sở đắc, cũng giúp cho người đến với đạo không
nhỏ. Qua 47 khoá tu Phật thất, mỗi khoá đã dung nạp trên bảy ngàn người.
Phần lớn quần chúng Phật tử căn cơ thấp đã xem Tịnh Độ là cái phao cứu
vớt tâm hồn của họ giữa cuộc sống thiếu niềm tin hiện nay!
Mùa Vu Lan vừa qua, khóa tu cho Thanh thiếu niên, mục đích giáo dục trẻ
con biết hiếu kính mẹ cha, thầy Thiện Thuận đã đến với các em qua chủ đề
Bóng Mây, tuy bình dị, âm điệu trầm lắng, truyền cảm, thầy đưa các cháu
đi từ nguyên nhân tưởng chừng tình cờ, vào sâu với duyên đạo. Thầy kể về
những tánh hửng hờ của trẻ con đối với mẹ cha, để lúc nào đó sự việc xẩy
ra ngoài ý muốn, các em lại ân hận suốt đời. Cũng có em hiếu thảo với mẹ
giữa gia cảnh nghèo đói. Những tấm gương đó đã làm cho các em trong khoá
tu, những ai xem qua Bóng Mây, đều không ngăn được những giòng lệ vô
tình. Cô em gái tôi mở đĩa Bóng Mây, bắt hai cháu phải xem, chúng bảo:
Con không thích xem các sư! mẹ cháu dụ dỗ, khi xem xong, đứa bé trai
8 tuổi chạy trốn vào toilet lau nước mắt, cháu mắc cở, dúi đầu vào lòng
mẹ, hỏi: con trai khóc có xầu hổ không hở mẹ? mẹ đáp - chuyện đó bình
thường thôi con ạ! - Mẹ ơi! vậy khi nào sinh nhật mẹ con sẽ mua cho mẹ
củ khoai lang như đứa bé nhà nghèo xin khoai lang về cho mẹ nó mà ông sư
đã giảng đó hở mẹ!
Những đứa bé trong xóm xúm nhau xem xong, đứa nào cũng sụt sùi, một
người hỏi: Chúng mầy xem phim gì mà khóc hết cả vậy?
Thằng bé nhà tôi 15 tuổi, tính ngổ nghịch, xem xong dĩa Bóng Mây, tánh
tình nó đối với mẹ cha thay đổi rõ rệt!
Bài giảng Bóng Mây không chỉ mang tính đạo đức tôn giáo mà còn giáo dục
trẻ em ý thức việc hiếu thảo mẹ cha, chuyển hoá ý thức của các em trong
đời sống gia đình. Sự thành công của Bóng Mây, không chỉ là sự thành
công của giảng sư Thích Thiện Thuận mà là điềm đáng mừng cho những giảng
sư trẻ hiện nay, khác với lối giảng cổ truyền thuần tuý thuật ngữ Phật
giáo đến độ người nghe không nuốt nổi, quý thầy trẻ đã đem Phật Pháp vào
lòng người thông qua tâm lý xã hội thành công đến không ngờ như thầy
Chân Quang, thầy Thiện Thuận, thầy Viên Trí, thầy Phước Tiến, cô Như
Thủy… không những thế, nơi phong cách, âm điệu của quý thầy cũng toát
hiện nét chân thật, đạo đức, khiêm tốn, đã vớt vát được một số niềm tin
của quần chúng bị đánh mất bởi vài vị mặc áo tu thiếu nhân cách.
Hiện nay, tuy xã hội Việt Nam có quá nhiều báo động về Đạo Đức. Nội bộ
tu sĩ PGVN cũng bị phần lớn quần chúng lạnh lùng, mất niềm tin, nhưng
không vì thế mà vắng bóng các bậc chân tu và những tu sĩ tài năng, đạo
hạnh. Đây là hiện tượng: Cùng tắc biến, khi một hiện tượng xuống
tận đáy bi thảm, báo hiệu sẽ có chiều hướng vực dậy, đi lên và hoán
chuyển!
Tuy cán bộ nhà nước bê tha, nhưng đại bộ phận cố trao dồi kiến thức để
có một nhân cách tốt hơn, báo hiệu một xã hội trong sáng hơn, vì ngu dốt
luôn là tai họa nếu mất luôn cả đạo đức nhân thân.
Đạo đức Cách Mạng: Cần kiệm - Liêm chính - Chí công – Vô tư chưa đủ để
giúp một cán bộ đối với dân bằng Tình người mà đó chỉ là bổn phận một
cách máy móc. Lãnh đạo đối với nhân dân hay người dân đối với cán bộ,
ngoài chấp hành luật pháp còn phải cần đến đạo đức nhân bản, trong đó
tình người sẽ hoá giải những mắc mứu tưởng chừng khó khăn! Xã hội VN
đang loạn vì thiếu bản chất Đạo đức như thế!
Cái thoáng hiện nay trong xã hội đã giúp các giảng sư tài năng lao vào
lãnh vực giáo dục quần chúng, giữa vũng lầy bê tha của tu sĩ, đã trổi
dậy nhiều điểm chuyên tu. Có những nơi không có trụ trì, Phật tử vẫn tự
động giúp nhau tinh tấn như chùa Từ Đức, Khánh Hoà và chùa Liên Trì ở
Daklak. Hình như cư sĩ hiện nay hướng về đạo đã thực sự chơn chánh hơn,
tu hành nghiêm túc hơn. Một vài nơi, cư sĩ vẫn bị một số sư có quyền
hành, gây khó khăn khi họ tự tu tập thể ở nhà riêng, vì họ không muốn
đến chùa khi thấy một tu sĩ cầm điếu thuốc, uống lon bia và đi đứng
thiếu nghiêm túc như số Phật tử ở Bình Đức Tiền Giang.
Điều lạ là cư sĩ làm ra tiền, tự nuôi sống bản thân mà không hề lạm
dụng, bê tha, sa đoạ, còn biết dành dụm đồng tiền ít ỏi để bố thí. Nhóm
Thiện Nguyện khiếm thị Hốc Môn trên 60 vị sống bằng nghề lao động nhẹ,
thu nhập rất ít, thế mà hàng tháng vẫn đóng góp để cứu trợ thiên tai
hoặc giúp người hoạn nạn và sang băng dĩa giáo lý để truyền bá cho những
ai muốn học Phật. Vợ chồng thương binh khiếm thị, anh Tài chị Trâm, mỗi
tháng lãnh 30 ký gạo, nhưng vẫn dành 10 ký để giúp kẻ đói nghèo, và còn
vô số Phật tử tâm đạo âm thầm thể hiện đạo đức nhân thân để chia xẻ với
những hoàn cảnh thiếu may mắn. Nhưng buồn thay, một số tu sĩ PG, dám từ
bỏ cha mẹ, vợ con, tài sản… để xuất gia cầu đạo giải thoát mà vẫn chưa
giải thoát được những cám dỗ tầm thường của vị giác, thính giác, khứu
giác… vì thế hàng ngày đốt tiền qua khói thuốc và xử dụng đồng tiền
thiếu cân nhắc khi mà chính mình không đổ mồ hôi để có những đồng tiền
đó!
Các điểm chuyên tu giúp cho một số tu sĩ thoát khỏi những cám dỗ tầm
thường và giúp cho tín đồ có nơi gửi gấm niềm tin. Các giảng sư trẻ là
cầu nối để đưa quần chúng đến với đạo, không phải mục đích lôi kéo tín
đồ tạo thành lực lượng phi pháp mà giúp cho xã hội có thêm những con dân
biết đạo đức hầu vơi bớt gánh nặng cho xã hội và cho luật pháp, như vậy,
đạo đức Phật giáo cũng là đạo đức xã hội, cần được yểm trợ và nhân rộng.
Các giảng sư giúp cho quần chúng học đạo đức thì quần chúng có bổn phận
giúp cho Phất giáo hoán cải những thành phần thiếu hoàn chỉnh trong giới
tu sĩ, để biến xã hội thành một cỏi Tịnh Độ hiện thực.
Mỗi giảng sư là một bóng Mây cho quần chúng, cũng như mỗi người mẹ người
cha là bóng mây cho con cái, quý thầy hãy vận dụng tối đa tài năng để
giúp cho xã hội và Phật giáo hoàn hảo hơn. Mỗi người, mỗi tông phái có
mỗi nhiệm vụ và tiện ích riêng, không chướng ngại cho nhau, không đố kỵ
nhau, vì tất cả đều là phương tiện giúp con người thăng hoa, đã là
phương tiện thì không xem môn phái nào là cứu cánh, vì thế không chê
giáo pháp nào là tà đạo.
Chư
tổ từng nói: Chánh nhơn hành tà Pháp, tà Pháp thị chánh pháp, tà nhơn
hành chánh pháp, chánh pháp thị tà pháp. Chúng ta đang hướng về nẻo
chánh để thăng hoa xã hội thì mọi phương tiện đều là chính đáng. Ngoại
trừ ai đó dùng Phật pháp để mưu lợi cá nhân, bè phái!
Mỗi người hãy là một bóng mây cá thể, kết hợp thành một trời mây che mát
và thanh tịnh hoá môi trường sống Việt Nam, để dân tộc ta sớm thoát khỏi
cơn nhiệt nghiệt ngã của ảo giác đói khác và ham muốn vật dục, đưa tới
khổ đau cho nhau như đã và đang xẩy ra trên quê hương nầy.
MINH MẪN
01/11/07
|
BBC NÓI VỀ
THIỀN SƯ THÍCH NHẤT HẠNH |
Thích Nhất
Hạnh là một thiền sư nổi danh trên thế giới, là một văn nhân, một thi
nhân, một học giả, mà cũng là một người đấu tranh cho hòa bình. Bên
cạnh đức Đạt Lai Lạt Ma thì Thầy là bậc đạo sư nổi tiếng nhất trên thế
giới hiện nay. Ngoài ra Thầy còn là tác giả của trên một trăm cuốn
sách, trong đó gồm có những
"xếp
hạng bán chạy nhất“ (bestsellers) như những cuốn Hòa Bình Từng
Bước Chân (Peace is Every Step), Phép lạ của sự Tỉnh thức
(The Miracle of Mindulness), Chúa
ngàn đời, Bụt ngàn đời (Living Buddha Living Christ) và
Giận (Anger)
Thầy
Nhất Hạnh sanh năm 1926, Thầy xuất gia năm 16 tuổi. Chỉ 8 năm sau
Thầy dựng lên Trung tâm Phật giáo Ấn quang (An Quang Buddhist
Institute) tại Sài Gòn. Năm 1961 Thích Nhất Hạnh
-người
được những môn đồ gọi là Thầy-
đã xuất ngoại du học tại Hoa Kỳ và giảng dạy môn Tôn giáo đối chiếu
tại các đại học Columbia và Princeton. Hai năm sau Thầy quay trở về
quê hương để góp phần hướng dẫn nỗ lực hòa bình của Phật giáo.
Rằm tháng hai năm 1964 Thầy thành lập
Dòng tu Tiếp hiện (the Order of Interbeing), vào đúng giai đoạn chiến
tranh leo thang khốc liệt tại Việt Nam, lúc mà giáo lý của Đức Thế
Tôn cần thiết vô cùng để đối đầu lại với hận thù, bạo động và chia rẽ
đang bao phủ khắp quê nhà. Vào giai đoạn này.
Dòng tu bao gồm một số nhỏ những thành viên chí nguyện dấn thân vào
những công tác xã hội và hành trì theo lý tưởng của Đạo Phật Đi Vào
Cuộc Đời. Dòng tu được xây dựng trên căn bản của 14 giới Tiếp
Hiện, cũng còn được gọi là những phương pháp thực tập chánh nhiệm.
Cũng trong năm ấy với một nhóm những giảng sư và sinh viên đại học tại
Việt nam ngài thành lập nên Trường
Thanh
Niên
Phụng Sự
Xã Hội
đào tạo những nhóm tác viên trẻ tuổi dấn thân vào những làng mạc xa
xôi giúp xây cất những trường học, những bệnh xá và gầy dựng lại
những thôn xóm đã bị hủy diêt vì đạn bom.
[ Tháng 2 năm 1964 Thầy thành lập Viện Cao Đẳng Phật Học tại Sài Gòn,
và chỉ non 14 tháng sau nó được Thầy nâng lên thành Viện đại học Vạn
Hạnh (bổ túc của Phù Sa) ].
Hai năm
sau, vào năm 1966, Thầy rời Việt nam ra xứ ngoài để vận động kêu gọi
hòa bình. Nhà cầm quyền đương thời vì thế cấm cửa không cho phép
Thầy hồi hương. Năm 1967 khi đề nghị Hội đồng Nobel trao giải Nobel
Hòa bình cho Thầy, ông Martin Luther King đã phát biểu:
"Ông
thầy tu mãnh khảnh xuất thân từ Việt nam này, ngài là một học giả uyên
thâm. Những phát kiến cho hòa bình của ngài, nếu áp dụng được, sẽ dựng
nên một tượng đài cho tinh thần hòa đồng, tình huynh đệ và nhân bản".
Năm 1969
Thầy hướng dẫn Phái đoàn Hòa bình Phật giáo tham dự Hội nghị Hòa bình
Paris và thành lập Unified Buddhist Church (UBC) tại Pháp quốc. Lúc
khởi đầu Giáo hội đặt cơ sở tại Thiền Đường Sweet Potatoes năm 1975.
Pháp Từ của Thầy được truyền bá mỗi lúc một rộng rãi và tăng đoàn phát
triển mạnh mẽ. Năm 1982 Làng Mai (Plum Village) được thành lập. Tọa
lạc tại miền nam nước Pháp, Làng Mai là một Trung tâm Thiền tập và là
cơ sở của Dòng tu Tiếp hiện. Mỗi năm hàng ngàn người khắp nơi trên thế
giới từ những truyền thống tâm linh khác nhau khắp nơi đổ về Làng Mai
để nghe pháp thoại và tu tập. Đây là trú xứ thường xuyên của Tăng đoàn
(đoàn thể của những người tu tập) gồm khoảng 150 các thầy, các
sư cô cùng các cư sĩ thường trú
(Số thiền sinh gia tăng theo thời gian, tính đến nay thì đã vượt xa
con số 150 / PS bổ túc).
Điểm nổi
bật của pháp môn thầy Nhất Hạnh trao truyến là việc nhấn mạnh đến yếu
tố hạnh phúc, hạnh nguyện dấn thân vào đời và áp dụng được phương
pháp thực tập chánh niệm vào đời sống hàng ngày. Chánh niệm là có mặt
trong phút giây hiện tại
để có thể có thể nhận diện được những gì đang xẩy ra trong thân, trong
tâm ta và cả trong thế giới chung quanh ta. Pháp môn Thầy dạy chú
trọng đến thực tập hơi thở và tỉnh thức đầy chánh niệm từng hơi thở
một. Thầy vẫn thường nhắc nhở đệ tử, bất cứ một việc gì xẩy ra đều có
thể là cơ hội ngàn vàng để ta có thể tiếp xúc được với thực tại nhiệm
mầu, cả đến như chuyện rửa bát hay lái xe. Thầy dạy chúng ta cần nên
chấm dứt cuộc nội chiến trong tâm mình, lắng dịu lại cái bung xung
trong tâm mình và trở về với giây phút hiện tại. Khi ta được an lành,
khi ta hạnh phúc thì ta có thể mỉm nụ cười và ai ai trong gia đình,
trong toàn thể xã hội quanh ta đều được hưởng lợi lạc từ niềm an lành
của ta. Nhờ
thế
ta có
thể thực chứng ý nghĩa câu
"Không
có con đường đẫn tới hạnh phúc –
Hạnh
phúc là Con đường".
thichnhathanh.shtml
|