Ông Võ Văn Ái đã sử dụng thủ thuật chính trị và thế tục hóa Phật
Pháp như thế nào trong sinh hoạt của GHPGVNTN?
*Ý thức rằng
mục đích và bản chất của một đoàn thể tu học là sự thực hiện tuệ
giác và từ bi, con nguyện không bao giờ lợi dụng đạo Bụt và các
đoàn thể giáo hội vào mục tiêu quyền bính, không biến các giáo
đoàn thành những tổ chức hoạt động chính trị. Tuy nhiên, con
nhận thức rằng các đoàn thể tu học phải có ý thức và thái độ rõ
rệt về những tình trạng áp bức và bất công xã hội và có thể sử
dụng ảnh hưởng mình để chuyển đổi các tình trạng ấy mà không cần
và không nên dấn thân vào những cuộc tranh chấp phe phái.
(Giới thứ 10
trong 14 giới của dòng tu Tiếp Hiện).
Suốt
mấy tháng qua, biến cố Giáo Chỉ số 9 của Viện Tăng Thống, Thông
Bạch hướng dẫn thi hành Giáo chỉ số 9 của Viện Hóa Đạo và Bản
Phúc trình Phật sự của Hòa Thượng Chánh Thư Ký Viện Tăng Thống
GHPGVNTN đã gây hoang mang, nghi ngờ, phân hóa và đổ nát cho
GHPGVNTN nói riêng và cộng đồng Phật Giáo Việt Nam hải ngoại nói
chung! Nhiều người, dù là những Phật tử thuần thành, nhưng vì
không thường xuyên hoặc không hề tham gia sinh hoạt trong các tổ
chức Phật Giáo đã không nắm vững tình hình, không hiểu rõ các
việc nội bộ, do đó chỉ nhìn và nhận định vụ việc xảy ra trong
Phật Giáo bằng nhận thức không toàn diện mà chỉ đứng ở vị thế
của người bàng quan. Đứng ở vị thế bàng quan, người nhìn có thể
quan sát sự việc một cách khách quan và bao quát, nhưng cũng có
thể vì vậy đã không hiểu được tường tận, chi tiết và sâu xa từ
ngọn nguồn vấn đề. Trong ý hướng góp phần soi sáng vấn đề, bài
viết này sẽ nêu ra một số sự kiện cụ thể dựa trên những thông
tin trung thực và khả tín.
Điều hiển nhiên mà mọi người đều chứng thực đó là sau khi Giáo
Chỉ số 9 của Viện Tăng Thống và Thông Bạch hướng dẫn thi hành
Giáo Chỉ số 9 của Viện Hóa Đạo công bố vào giữa và cuối tháng 9
năm 2007 đã tạo ra tình trạng khủng hoảng, phân hóa và tan rã
trong đại khối Phật Giáo Việt Nam và các GHPGVNTNHN tại các châu
lục ở hải ngoại. Vì vậy, câu hỏi mà mọi người đều quan tâm muốn
biết là tại sao lại xảy ra thảm trạng như thế đối với GHPGVNTN?
Câu trả lời cũng đã được nhiều chư tôn đức giáo phẩm trong
GHPGVNTNHN tại Hoa Kỳ và một số cư sĩ Phật tử hải ngoại trình
bày trong nhiều văn thư và bài viết suốt mấy tháng qua. Qua đó,
cho thấy nguyên do chính là vì một vài cá nhân tăng sĩ và cư sĩ
đã sử dụng thủ thuật chính trị để “thanh trừng” những thành phần
Tăng, Ni và cư sĩ trong GHPGVNTNHN tại Hoa Kỳ, Âu Châu, Úc Châu
và Canada không tín nhiệm ho, vì những hành vi làm hoen ố và
thao túng GH. Để thực hiện âm mưu nhằm củng cố địa vị và quyền
lực của họ, những vị này đã dựa vào hai yếu tố để điều hướng
công luận, đó là tinh thần chống cộng của người Việt tỵ nạn và
niềm tin của quần chúng Phật tử đối với nhị vị đại lão Hòa
Thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ.
Thứ nhất,
về mặt tinh thần chống cộng, họ biết cộng đồng người Việt tỵ nạn
ở hải ngoại là một tập thể chống cộng rất quyết liệt. Vì vậy,
một vài vị có âm mưu thao túng GH đã mở chiến dịch xuyên tạc, vu
khống, chụp mũ cộng sản cho nhiều Tăng, Ni và cư sĩ Phật tử đã
và đang sinh hoạt trong các GHPGVNTN trong và ngoài nước. Mục
đích của chiến dịch trên là nhằm tung hỏa mù để gây hoang mang,
ngờ vực và bôi đỏ chư tôn đức Tăng, Ni và cư sĩ không tín nhiệm
họ. Hành động ác tâm và đen tối trên là để làm cho quần chúng
trong cộng đồng người Việt tỵ nạn nhất thời ngộ nhận lập trường
và tâm nguyện trước sau như một của chư tôn đức Tăng, Ni và cư
sĩ đối với công cuộc vận động cho tự do, dân chủ, nhân quyền và
phục hoạt GHPGVNTN. Họ còn lợi dụng tác động phá hoại cộng đồng
người Việt tỵ nạn của nghị quyết 36 của chính quyền cộng sản
Việt Nam để lạc dẫn dư luận hướng đến việc buộc tội chư tôn đức
Tăng, Ni và cư sĩ Phật tử không tín nhiệm họ, rằng đây là thành
phần đầu hàng, hòa hợp hòa giải, tiếp tay với cộng sản để nhuộm
đỏ Phật Giáo và triệt tiêu GHPGVNTN trong và ngoài nước!
Thứ hai,
về mặt niềm tin, họ lấy nhị vị Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền
Quang và Thích Quảng Độ làm chỗ dựa cho niềm tin của quần chúng
Phật tử đối với những gì họ làm. Qua đó, những gì được nhị vị
Đại lão Hòa Thượng lãnh đạo GHTN đồng thuận thì đương nhiên là
khả tín và chính nghĩa. Dựa vào yếu tố niềm tin trên, Giáo Chỉ
số 9 và Thông Bạch hướng dẫn thi hành Giáo Chỉ số 9 vì được ấn
ký bởi nhị vị đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang và Thích
Quảng Độ cho nên, không thể sai. Cũng vì vậy, những ai không
“khâm tuân” theo hai văn bản đó đều bị kết tội là thành phần
chống đối, ly khai, âm mưu tiêu diệt GHPGVNTN, có ý đồ hòa hợp
hòa giải với cộng sản, v.v…!
Nhìn từ bên ngoài, người ta khó có thể không tin vào hai yếu tố
mà họ đã dựa vào. Đây chính là vấn đề cần viện dẫn đến sự hiểu
biết tường tận đối với nội tình sinh hoạt của GHPGVNTN trong và
ngoài nước. Và vì là vấn đề nội tình sinh hoạt trong GHTN mà
hầu hết Tăng, Ni và Phật tử có tham gia trực tiếp trong các GHTN
tại hải ngoại đã không thể công khai hóa mọi việc để quần chúng
Phật tử bên ngoài có thể hiểu rõ. Cho nên, vẫn còn có những ngộ
nhận, hoang mang và một số người chủ tâm sử dụng thủ thuật chính
trị và phi chánh pháp đã có thể tiếp tục xuyên tạc sự thật, vu
khống và chụp mũ. Tuy nhiên, nếu bình tâm và khách quan quán
chiếu, người ta vẫn có thể nhìn thấy rằng hai yếu tố mà một số
người mưu đồ đen tối sử dụng đã không hoàn toàn đúng như vậy.
Tại sao?
Về mặt tinh thần chống cộng của cộng đồng người Việt tỵ nạn hải
ngoại, điều này là một sự thật không ai phủ nhận, nhưng cộng
đồng người Việt tỵ nạn ở hải ngoại vốn có đủ nhận thức để thấy
rằng, cộng sản dù gian xảo đến cách mấy cũng không thể nào cùng
lúc lũng đoạn, mua chuộc, và làm “biến tướng” cả một tập thể
Tăng, Ni và Phật tử trong các GHPGVNTN tại hải ngoại với số
lượng hàng mấy trăm vị mà từ mấy thập niên qua vẫn một lòng một
dạ giữ vững lập trường đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền
và phục hoạt GHPGVNTN trong nước. Đừng bao giờ thần thánh hóa
thủ đoạn của cộng sản mà chà đạp lên kiến thức, lập trường và
tâm nguyện của bao nhiêu Tăng, Ni và Phật tử vốn đã từng kinh
lịch gian truân dưới chế độ cộng sản rồi bỏ nước ra đi tìm tự do
suốt trên ba chục năm qua như thế!
Về mặt niềm tin, cần phân biệt rõ hai sự kiện khác nhau đó là sự
tín nhiệm và tôn kính không thay đổi của tập thể Tăng, Ni và
Phật tử hải ngoại đối với lý tưởng phụng sự đạo pháp và dân tộc
của GHPGVNTN và đối với nhị vị đại lão Hòa Thượng lãnh đạo GHTN
trong nước, với việc không tán đồng đối với Giáo Chỉ và Thông
Bạch vì hệ quả tai hại nghiêm trọng của hai văn bản đó. Nhị vị
đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ vì bị
quản chế tại Tu Viện Nguyên Thiều ở Bình Định và tại Thanh Minh
Thiền Viện ở Sài Gòn, thật khó có thể hiểu hết được tất cả những
vấn đề sinh hoạt của GHPGVNTNHN tại các châu lục cũng như những
vấn đề của từng cá nhân chư tôn đức Tăng, Ni và Phật tử trong
các GH ấy. Nhị vị đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang và
Thích Quảng Độ làm sao có thể biết được rõ con người của Hòa
Thượng Chánh Lạc để mời vào Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương và Phó
Viện Trưởng Viện Hóa Đạo; nhị vị đại lão Hòa Thượng cũng làm sao
biết được Hòa Thượng Trí Minh ở Na Uy, Thượng Tọa Thiện Tâm ở
Canada là như thế nào để mời vào chức Tổng Ủy Viên liên lạc
trong Văn Phòng II mới; nhị vị đại lão Hòa Thượng là sao biết
được tất cả chư tôn đức Tăng, Ni và Phật tử đã và đang sinh hoạt
trong GHPGVNTNHN tại các châu lục mà buộc tội là “phần tử cơ
hội, tiếp tay gây phân hóa, tạo ly gián, biến tướng chủ trương,
đường hướng sinh hoạt của GHPGVNTN Hải ngoại, âm mưu dập tắt
tiếng nói của Giáo Hội trên địa bàn quốc tế”?
Vậy thì vấn đề là, ai là người thường xuyên liên lạc với nhị vị
đại lão Hòa Thượng lãnh đạo GHPGVNTN trong nước để tường trình
các sự kiện liên quan đến nhân sự và tổ chức của các GHTN tại
hải ngoại, cũng như đạo đạt ý chỉ của nhị vị đại lão Hòa Thượng
lãnh đạo GHTN trong nước cho các GHTN tại hải ngoại?
Đối với chư tôn đức Tăng, Ni và Phật tử sinh hoạt trong các GHTN
hải ngoại, thì người đó không ai khác hơn là ông Võ Văn Ái, Phát
Ngôn Nhân Viện Hóa Đạo kiêm Giám Đốc Phòng Thông Tin Phật Giáo
Quốc Tế có trụ sở tại Paris, Pháp Quốc. Chính vì lý do đó, khi
hiểu được con người của ông VVA thì hiểu được những gì ông đã
thưa trình với nhị vị đại lão Hòa Thượng lãnh đạo GHTN trong
nước về tình hình và nhân sự tại hải ngoại, cũng như những gì
ông muốn nhị vị đại lão Hòa Thượng làm cho tổ chức và nhân sự
của các GHPGVNTNHN tại các châu lục ở hải ngoại, mà Giáo Chỉ số
9 và Thông Bạch hướng dẫn thi hành Giáo Chỉ số 9 là những biểu
hiện cụ thể.
Tại sao ông VVA lại được chư Tôn Đức Giáo Phẩm GHTN, đặc biệt
đại lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ tin tưởng đến như vậy?
Câu trả lời là vì ông VVA đã có công trong việc vận động các
quốc hội Âu châu, Hoa Kỳ, các chính phủ tự do trên thế giới, các
tổ chức nhân quyền, các chính khách để hậu thuẫn cho GHPGVNTN.
Ông VVA cũng là người đã có công vận động cho đại lão Hòa Thượng
Thích Quảng Độ nhận lãnh giải RAFTO của Na Uy trong năm 2006.
Và ông VVA cũng là người đã và đang vận động để đề cử đại lão
Hòa Thượng Thích Quảng Độ cho giải Nobel Hòa Bình.
Nhưng, đối với công cuộc vận động phục hoạt GHPGVNTN thì những
vận động quốc tế bên ngoài đó chỉ là trợ duyên mà không phải là
chánh nhân. Chánh nhân chính là nội lực, là sức mạnh tự thân
của GHTN thông qua sự thanh tịnh hòa hợp và đoàn kết của đại
khối Tăng, Ni và Phật tử trong và ngoài nước đối với công cuộc
vận động này. Ở phần xây dựng chánh nhân đó, ông VVA là người
đi ngược lại, hay nói cụ thể là người phá hoại!
Tại sao ông VVA là người phá hoại chính nhân của công cuộc vận
động phục hoạt GHPGVNTN? Tại sao ông VVA là người phá hoại sức
mạnh hòa hợp của Tăng, Ni và Phật tử cho công cuộc vận động phục
hoạt GHPGVNTN?
Muốn có câu trả lời minh bạch về vấn nạn đó, chúng ta cần tìm
hiều ông VVA thật sự là người thế nào khi ông hành xử trong vai
trò và trách nhiệm của một Phát Ngôn Nhân Viện Hóa Đạo, Giám Đốc
Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế (PTTPGQT), Tổng Ủy Viên Ngoại
Vụ Văn Phòng II VHĐ, Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Ngoại Vụ
GHPGVNTNHN-HK.
Năm 1976, ông VVA đã cho ra đời tạp chí Quê Mẹ tại Paris, trong
số báo đầu tiên này, ông VVA đã đăng nhiều bài ca tụng nền hòa
bình và thống nhất mà cộng sản vừa thiết lập tại Việt Nam. Điều
này đã được nhà phê bình văn học Thụy Khuê đề cập đến như sau:
“Báo Quê Mẹ ở Paris, số đầu, bài vở chuyên về văn học nghệ thuật
trong chiều hướng chào mừng hòa bình và thống nhất đất nước.”
(Thụy Khuê, Thử Tìm Một Lối Tiếp Cận Văn Sử Học Về Hai Mươi Nhăm
Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại 1975-2000. Tạp chí Hợp Lưu, số
88, tháng 4 & 5 năm 2006.)
Điều đó không lạ, bởi vì trước năm 1975, tại hải ngoại, ông VVA
là một trong những tri thức Phật Giáo tích cực vận động cho hòa
bình Việt Nam, mà một số người hay gọi một cách không thiện cảm
là phản chiến. Nhưng điều lạ là, ít nhất hơn nửa năm sau khi
cộng sản xâm chiếm miền Nam và chế độ này đã áp dụng chính sách
thù nghịch đối với dân tộc, đặc biệt nhân dân miền Nam. Vậy mà
ông VVA cũng còn tán tụng nền hòa bình và thống nhất do cộng sản
thiết đặt trên xương máu và khổ đau của biết bao nhiêu người!
Trong Đại Hội Bất Thường của GHPGVNTNHN-HK tổ chức tại Chùa Diệu
Pháp vào ngày 16 tháng 3 năm 2006, ông VVA đã từng tuyên bố và
kết tội một số tập thể, trong đó có Tăng Ni Hải Ngoại, rằng họ
“đã giết chết sự nghiệp chính trị” của ông.
Trong bài “Phật Giáo Thời Cộng Sản và Những Liên Hệ Gây Động
Loạn và Mâu Thuẫn” đăng trên
www.queme.net, ông VVA đã
mượn lời Kinh để phát biểu cho lập trường dấn thân chính trị của
ông như sau: “Câu thứ ba là, ‘Bồ tát thấy dân kêu ca, liền gạt
lệ xông vào nơi chính trường hà khắc để cứu dân khỏi nạn lầm
than.’ Đây là dấn thân chính trị của người Phật tử.”
Trong bài: “Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin trả lời chung
về một số thắc mắc sau khi Giáo chỉ số 9 của Đức Đệ tứ Tăng
thống Thích Huyền Quang ban hành - Bản Phúc trình Phật sự của
Hòa thượng Thích Thiện Hạnh gửi từ Huế nói về nhóm Thân hữu Già
Lam, ngày 11 tháng 02 năm 2007”, Ông VVA đã phát biểu trong
cung cách của nhà chính trị sắt máu như sau:
“Mặt khác, Giáo chỉ trong một tôn giáo tương đương với một Đạo
luật, Sắc luật trong một quốc gia. Khi đạo luật ban ra, người
công dân phải tuân thủ. Như đạo luật thiết quân luật trong thời
chiến, dù người dân không ưa cũng phải tuân hành. Không tuân
hành quân đội sẽ bắn chết.”
Trong bài thuyết trình (có tiêu đề: Giáo Chỉ số 9, từ hợp pháp
đến khế cơ) tại Đại Hội Bất Thường của GHPGVNTNHN-HK tổ chức tại
Chùa Bửu Môn, thành phố Port Arthur, Texas, ngày 10 tháng 11 năm
2007, ông VVA đã dùng thủ thuật sách động quần chúng của một nhà
chính trị để hướng dẫn đại biểu đi theo luận điểm không hợp lý
như sau:
“Để minh bạch vấn đề, cho phép tôi hỏi quý Đại biểu : GHPGVNTN
có là Giáo hội lịch sử và dân lập không ? Xin quý Đại biểu hoan
hỉ trả lời. (toàn thể đại hội đã đồng thanh đáp lớn : Có !)”
“GHPGVNTN có là Giáo hội hợp pháp và hợp hiến không ? Xin quý
Đại biểu hoan hỉ trả lời. (toàn thể đại hội đã đồng thanh đáp
lớn : Có !)”
“Quý Đại biểu đã trả lời CÓ một cách đoan quyết. Vậy thì tôi
tuyên bố Giáo chỉ số 9 của Đức Tăng thống Thích Huyền Quang và
Thông bạch hướng dẫn thi hành Giáo chỉ của Hòa thượng Thích
Quảng Độ ban hành ngày 8.9 và 25.9 vừa qua là hợp pháp và hợp
Hiến chương.”
Chuyện “GHPGVNTN có là Giáo hội lịch sử và dân lập” hay
“GHPGVNTN có là Giáo hội hợp pháp và hợp hiến” có liên quan gì
với việc Giáo Chỉ và Thông Bạch là hợp pháp và hợp Hiến chương?
Có ai là thành viên của GHPGVNTN trong và ngoài nước mà không
công nhận GHPGVNTN là Giáo hội lịch sử, dân lập, hợp pháp và hợp
hiến? Các thành viên của GHPGVNTN hải ngoại không đặt vấn đề
của GHTN, họ chỉ đặt vấn đề với Giáo Chỉ số 9 và Thông Bạch
hướng dẫn thi hành Giáo Chỉ số 9 mà thôi, vì hai văn bản đó sau
khi công bố đã tạo ra cơn khủng hoảng sâu nặng đối với cộng đồng
Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại.
Như vậy, ông VVA không phải là một cư sĩ Phật tử đã và đang thực
hành Phật sự trong GHTN, mà ông đang làm chính trị, ông đã và
đang hành xử trong cung cách của môt người làm chính trị trong
sinh hoạt của GHPGVNTN.
Ông VVA nếu muốn làm chính trị thì hãy ở ngoài thế gian mà làm,
vì không ai cấm cản người Phật tử làm chính trị để góp phần xây
dựng và phát triển đất nước và xã hội. Không những thế, chư
Tăng, Ni và quần chúng Phật tử còn khuyếtn khích, cổ động và ủng
hộ cho những cư sĩ Phật tử phát nguyện lăn xả vào thế gian, gánh
vác trọng trách ở xã hội để cứu giúp người dân. Nhưng, ông VVA
tuyệt đối không thể lợi dụng vị thế và uy tín của GHTN cho con
đường và sự nghiệp chính trị của ông. Ông không thể sử dụng các
thủ thuật chính trị trong sinh hoạt Phật Giáo nói chung và
GHPGVNTN nói riêng. |
|
Điều này đã được quý Hòa Thượng nói đến trong bài viết “Giáo
Chỉ, Thông Bạch và Cơn Khủng Hoảng của Phật Giáo Việt Nam tại
Hải Ngoại” của 8 vị Hòa Thượng. Trong đó quý Hòa Thượng có nói
rằng ông VVA đã nhận tiền của tổ chức NED (National Endowment
for Democracy,
http://www.ned.org ). NED
bề ngoài là một tổ chức phi chính phủ, được Quốc Hội Hoa Kỳ tài
trợ để hỗ trợ tiến trình dân chủ hóa khắp nơi trên thế giới,
nhưng thực chất là thực hiện những công tác tình báo và chính
trị vì quyền lợi của Hoa Kỳ. Ông VVA nhận tiền của tổ chức NED
thì tất nhiên ông phải làm việc theo đường hướng của họ, vì họ
là chủ và ông là người làm. Có điều cần phải quan tâm đặc biệt
là ông VVA đã đảm nhận mấy chức vụ trọng yếu của GHTN trong và
ngoài nước, nhưng đồng thời ông cũng lại nhận tiền từ một tổ
chức chính trị của Mỹ thì đó là điều không thể chấp nhận được.
Một bên là tổ chức chính trị thế gian, một bên là tổ chức Phật
Giáo không chủ trương làm chính trị. Ông VVA đứng ở đâu trong
những lúc cần xác định vai trò và chức năng của ông? Trước
quyền lợi của NED và quyền lợi của đạo Pháp và dân tộc, ông VVA
phục vụ cho quyền lợi nào và NED có để cho ông VVA tự do chọn
lựa quyền lợi không?
Xin nêu ra thêm một vài sự kiện để cho thấy chủ tâm sử dụng thủ
thuật chính trị trong sinh hoạt GHTN của ông VVA. Trong Đại Hội
Khoáng Đại kỳ II của GHPGVNTNHN-HK, năm 2000, tổ chức tại Chùa
Cổ Lâm, thành phố Seattle, bang Washington, ông VVA là người đưa
ra Giáo Chỉ của GHTN trong nước lưu nhiệm toàn bộ nhân sự trong
GHTNHN-HK, mà trước đó chư tôn đức Tăng, Ni và Phật tử tham dự
trong Đại Hội đều không ai hay biết gì. Trong Đại Hội Khoáng
Đại kỳ III của GHPGVNTNHN-HK, năm 2004, tổ chức tại Chùa Diệu
Pháp, thành phố San Gabriel, bang California, ông VVA cũng là
người đưa ra Giáo Chỉ của GHTN trong nước lưu nhiệm toàn bộ nhân
sự của GHTNHN-HK lần nữa. Suốt trong mấy ngày Đại Hội Khoáng
Đại từ thứ Năm, thứ Sáu cho đến sáng thứ Bảy, trong lễ Khai mạc
Đại Hội mới công bố Giáo Chỉ lưu nhiệm, tất cả chư tôn đức Tăng,
Ni đều không ai nghe nói, hay được hỏi ý kiến gì về Giáo Chỉ lưu
nhiệm cả. Vậy mà trong lễ Khai mạc thì Giáo Chỉ lưu nhiệm đã
được công bố. Toàn thể Tăng, Ni và Phật tử tham dự Đại Hội
Khoáng Đại đều hoang mang, ngơ ngát, không hiểu vì đâu lại có
Giáo Chỉ! Không lẽ nhị vị đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang
và Thích Quảng Độ cứ mỗi lần có Đại Hội Khoáng Đại của GHTNHN-HK
thì đều tự động viết và ban hành Giáo Chỉ lưu nhiệm, bất chấp
đến suy nghĩ của Tăng, Ni và Phật tử trong GHTN ở Hoa Kỳ? Điều
ấy chắc chắn là không! Thực tế trong nội tình của GHPGVNTNHN-HK
cũng không một vị Tăng, Ni và cư sĩ nào thấy là cần phải có Giáo
Chỉ lưu nhiệm. Trước khi có Giáo Chỉ chấn chỉnh và bổ sung nhân
sự của Viện Hóa Đạo GHPGVNTN trong nước vào tháng 11 năm 2005,
tại hải ngoại đã có những tuyên truyền, công bố (trên báo Văn
Hóa tại Nam California) vu khống và chụp mũ Thượng Tọa Thích Tuệ
Sỹ và một số Thượng Tọa trong Viện Hóa Đạo là thay đổi lập
trường, muốn thỏa hiệp với cộng sản để lập GHTN không Huyền
Quang, không Quảng Độ, kể cả việc bôi nhọ đời tư của chư vị
Thượng Tọa nói trên nữa. Cũng giống như vậy, trước khi có Giáo
Chỉ số 9 giải tán Văn Phòng II cũ để thành lập Văn Phòng II mới
(gồm 14 vị cho cả hải ngoại), và Thông Bạch hướng dẫn thi hành
Giáo Chỉ số 9 tuyên bố giải tán các GHPGVNTNHN tại Hoa Kỳ, Úc
Châu, Âu Châu và Canada, thì đã có những bài viết đăng trên
trang web Tinparis mở chiến dịch vu khống, chụp mũ, mạ lị và
buộc tội không bằng chứng nhiều chư tôn đức Tăng, Ni và một số
cư sĩ Phật tử đã hoặc đang sinh hoạt trong các GHPGVNTN trong và
ngoài nước. Cho đến khi Giáo Chỉ số 9 và Thông Bạch hướng dẫn
thi hành Giáo Chỉ số 9 được công bố, tất cả chư tôn đức giáo
phẩm trong các Hội Đồng của GHTN ở hải ngoại đều không ai hay
biết gì!
Trong các Thông Cáo Báo Chí của ông VVA gọi đó là việc “thanh
trừng” nội bộ. Việc làm như vậy nếu không phải là thủ thuật
chính trị thế tục thì còn là gì? Tại sao lại đem những thủ
thuật chính trị thế gian vào thực hiện trong GHTN, trong sinh
hoạt Phật Giáo vốn nhắm đến mục tiêu thực nghiệm và hoằng dương
Chánh pháp để giải khổ cho mình và người? Đem việc chính trị
vào trong sinh hoạt Phật Giáo là thế tục hóa, là tạo mầm móng
bất an, là “biến tướng” con đường cao rộng mà đức Phật và chư tổ
đã dày công truyền thừa!
Ông VVA nếu muốn làm chính trị thì hãy ở ngoài thế gian mà làm,
vì không ai cấm cản người Phật tử làm chính trị để góp phần xây
dựng và phát triển đất nước và xã hội. Không những thế, chư
Tăng, Ni và quần chúng Phật tử còn khuyếtn khích, cổ động và ủng
hộ cho những cư sĩ Phật tử phát nguyện lăn xả vào thế gian, gánh
vác trọng trách ở xã hội để cứu giúp người dân. Nhưng, ông VVA
tuyệt đối không thể lợi dụng vị thế và uy tín của GHTN cho con
đường và sự nghiệp chính trị của ông. Ông không thể sử dụng các
thủ thuật chính trị trong sinh hoạt Phật Giáo nói chung và
GHPGVNTN nói riêng.
Nếu là một cư sĩ Phật tử biết kính trọng Tam Bảo, biết sống và
thực nghiệm chánh pháp, ông VVA đã không dùng lời lẽ thô tục để
phỉ báng chư Tăng. Chứng cứ ở đâu để nói như vậy? Tôi xin
trích ra đây email của ông VVA đã được phổ biến rộng rãi vào
ngày 26 tháng 01 năm 2008 vừa rồi, mà một người bạn của tôi đã
gửi cho tôi đọc. Nội dung email đó như sau:
From: "IBIB" <ubcv.ibib@buddhist.com>
To: "IBIB" <ubcv.ibib@buddhist.com>
Subject: Fw: ngao ngan cho cho nhung nguoi viet bai bao nay
Date: Sat, 26 Jan 2008 11:27:55 +0100
Kinh xin bao dong den quy Thay : Bao ve Chanh Phap la dia chi Uc
cua hai ngai Thich Nguyen Tang va Thich Giac Tin. Khong thay cac
vi nay chuyen tai cac bai viet benh vuc GHPGVNTN trong nhung
ngay bi cac phe phai phi dan toc tan cong. Ma chi thay dang tai
nhung bai vo thuong vo phat ngoai doi, hoac cac bai cua Nhom Ve
Nguon Mac-Le-Ho. Va hom nay, 26.1.2008, lai dua len Internet mot
bai cua Bao Cong An viet ngay 27.8.2007 de phi bang va ma ly Dai
lao Hoa thuong Thioch Quang Do. Mot cach "an com moi noi chuyen
cu" rat tham doc va xo? la' !
Nhu vay la co y gi ? - Hoi tuc da tra loi.
PTTPGQT”
Hai ngày sau, tức ngày 28 tháng 01 năm 2008, Đại Đức Thích
Nguyên Tạng đã lên tiếng về sự chụp mũ và mạ lị này trong một
email như sau:
“Kinh bac Ngo Trong Anh va
PTTPGQT,
Toi xin minh dinh voi hai
vi chung toi chi phu trach trang nha
www.quangduc.com
ma thoi, con dien dan BAO VE CHANH PHAP cua ai thanh lap va pho
bien tai lieu gi, chung toi khong he biet, ai phu trach dien dan
BAO VE CHANH PHAP, xin hay len tieng de dien dan duoc ro & tranh
bi chup mu lan nhau nua. Lan sau, xin quy vi can than kiem tra
lai truoc khi dua tin sai nhu the.
Kinh,
Ven. Thich Nguyen Tang
Quang Duc Buddhist Monastery
105 Lynch Road
Fawkner, VIC 3060. Australia”
Trong email trên của PTTPGQT, ông VVA đã sử dụng mấy từ ngữ
“Nhóm Về Nguồn Mac-Le-Ho”, “Một cách ‘ăn cơm mới nói chuyện cũ’
rất thâm độc và xỏ lá!” Trong bài “Phật Giáo Thời Cộng Sản và
Những Liên Hệ Gây Động Loạn và Mâu Thuẫn” đăng trên trang web:
www.queme.net, ông VVA đã
dùng những từ ngữ, những câu như sau để mạ lị chư Tăng: “Các
nhà sư và cư sĩ rối nước”, “hành tích đi đêm ăn vụng”, “gian
hàng biến thành chùa viện”, “bọn này”, “bầy lâu la”, “đểu cáng”,
v.v…
Một cư sĩ mà dùng chữ nghĩa như trên để nói về chư Tăng! Một cư
sĩ mà gọi cộng đồng Tăng Ni gồm 96 vị trong Ngày Về Nguồn là
“Mac-Le-Ho”! Trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam, chỉ trừ những
người mượn danh Phật tử để mưu quyền đoạt lợi, còn những Phật tử
chân chánh có tín tâm với Tam Bảo, thì chưa bao giờ có ai dùng
chữ nghĩa sặc mùi thế tục như vậy để nói về chư Tăng! Ông VVA
là Phát Ngôn Nhân của Viện Hóa Đạo, là Giám Đốc Phòng Thông Tin
Phật Giáo Quốc Tế, là người thay mặt chư tôn túc trưởng lão Hòa
Thượng lãnh đạo GHTN trong nước để phát ngôn. Vậy mà ông VVA đã
phát ngôn như thế! Làm như vậy là tạo uy tín cho GHTN, là thắp
sáng oai đức của quý đại lão Hòa Thượng lãnh đạo GHTN hay sao?
Trên thế gian này, những người con Phật biết suy nghĩ, tự trọng
và tôn quý Tam Bảo thì chắc chắn không ai làm vậy cả!
Cũng trong bài “Phật Giáo Thời Cộng Sản và Những Liên Hệ Gây
Động Loạn và Mâu Thuẫn”, ông VVA đã định nghĩa Tăng và tục như
sau:
“Cần phân rõ hai phạm trù Tăng và Tục này. Đồng lõa với Cộng
sản để hủy diệt Phật Giáo, Tăng trở thành tục. Bảo vệ giáo lý
cứu khổ và giác ngộ, tục trở thành Tăng.”
Suốt quá trình lịch sử tồn tại của đạo Phật trên hai mươi lăm
thế kỷ nay và trong ba tạng Kinh-Luật-Luận, từ bao giờ đã có
định nghĩa Tăng và Tục như vậy? Như thế thì cần gì phải cắt ái
từ thân, phát tâm xuất gia (xuất thế tục, xuất phiền não, xuất
tam giới), cần gì phải chế ra quy tắc thọ trì Sa di, Sa di ni,
Thức xoa ma na, Tỳ kheo và Tỳ kheo ni giới cho những vị xuất
gia, bởi vì chỉ cần làm theo định nghĩa của ông VVA ở trên là đủ
tiêu chuẩn để trở thành vị Tăng rồi! Như vậy thì những phẩm
tính thanh tịnh, phạm hạnh, giới đức, từ bi và trí tuệ của vị
Tăng để đâu? “Đồng lõa với Cộng sản để hủy diệt Phật Giáo” là
một điều không thể chấp nhận và đáng lên án. Cũng như “Bảo vệ
giáo lý cứu khổ và giác ngộ” là đều đáng tán dương và cần phải
làm. Nhưng, bảo rằng lấy đó để “phân rõ hai phạm trù Tăng và
tục” là một điều sai giới luật, sai chánh pháp! Thật đúng như
tựa đề của bài đăng trên trang nhà Quê Mẹ: “Phật Giáo thời cộng
sản và liên hệ động loạn và mâu thuẫn.” Định nghĩa Tăng và tục
như ông VVA không phải là “động loạn” hay sao?
Cũng trong bài “Phật Giáo Thời Cộng Sản và Những Liên Hệ Gây
Động Loạn và Mâu Thuẫn”, ông VVA đã viết: “Đạo Phật quan niệm
thế giới là một màng lưới tương quan tương sinh.” Dựa vào giáo
lý tương quan tương sinh này, ông VVA đã đưa ra 4 mối liên hệ:
Liên hệ chính trị (của chư Hòa Thượng Trí Thủ, Minh Châu, Trí
Tịnh, Thiện Siêu), liên hệ giáo phái (của sư ông Nhất Hạnh),
liên hệ học thuật (của giáo sư Lê Mạnh Thát và Thượng Tọa Tuệ
Sỹ) và liên hệ chúng sinh (của nhị vị Hòa Thượng Thích Huyền
Quang và Thích Quảng Độ). Ba mối liên hệ đầu, ông VVA gọi đó là
những “mối liên với Đảng Cộng Sản”, cho nên là “phản động lịch
sử đưa tới động loạn và mâu thuẫn.” Còn mối liên hệ thứ tư, ông
VVA gọi là “tiến trình lịch sử đưa con người vào qũy đạo thăng
hoa.”
Ông VVA chỉ trích dẫn giáo pháp “tương quan tương sinh” của đạo
Phật như một cái máy hay như cái nhìn một chiều của nhà chính
trị mà không thâm nhập được vào nội dung thâm thúy của giáo pháp
ấy. Ông biết nói rằng “thế giới là một màng lưới tương quan
tương sinh”, nhưng tại sao ông chỉ phân ranh và đóng khung mối
liên hệ của Phật Giáo Việt Nam trong 4 phạm trù liên hệ đóng kín
như vậy? Đã là “tương quan tương sinh”, trong ý nghĩa duyên
khởi hay duyên sinh, thì tất cả mọi pháp trong vũ trụ pháp giới,
chứ không phải chỉ giới hạn trong thế giới này hay trong một số
phạm trù tĩnh chết nào đó, đều tương quan, tương duyên, tương
tức, tương nhập, tương sinh, tương diệt chặt chẽ với nhau. Mối
tương quan tương duyên ấy phổ biến khắp tất cả pháp mà không có
ngoại lệ nào, không thể bị đóng khung trong phạm trù hạn cục của
thời gian hay không gian, không thể cắn xén mối tương quan tương
sinh toàn diện của vạn pháp ra thành từng mảnh vụn, rồi định
danh và diễn dịch theo tư kiến, thiên kiến, chủ kiến của cá
nhân.
Như vậy, không thể dựa vào ý nghĩa tương quan tương duyên toàn
diện để lý luận cục bộ rằng, chỉ có mối liên hệ của cái này với
cái kia duy nhất mà không có liên hệ với những cái khác. Điều
ấy có nghĩa là không thể nói, như ông VVA, rằng quý Hòa Thượng
Trí Thủ, Minh Châu, Trí Tịnh và Thiện Siêu chỉ có mối liên hệ
duy nhất với Đảng Cộng Sản về chính trị, cũng vậy, không thể nói
rằng mối liên hệ của thiền sư Nhất Hạnh với Đảng Cộng Sản chỉ
duy nhất là mối liên hệ giáo phái; không thể nói rằng mối liên
hệ của giáo sư Lê Mạnh Thát và Thượng Tọa Tuệ Sỹ với Đảng Cộng
Sản chỉ duy nhất là mối liên hệ học thuật. Cái nhìn như vậy,
của ông VVA, là cái nhìn một chiều, cục bộ, khép kín và bị đóng
khung trong lăng kính giới hạn của một người đời làm chính trị,
mà không phải là quan kiến có trí tuệ của một cư sĩ Phật tử có
thực học và thực tu trong giáo pháp vi diệu của đạo Phật.
Chính ông VVA đã định danh và thiết lập theo chủ tâm của ông các
mối liên hệ đó. Đó là cách định danh cưỡng ép và cách thiết lập
các mối liên hệ đầy ác ý của ông để chụp mũ và xuyên tạc hành
trạng của một số Tôn Đức trong nước.
Ông VVA định danh mối liên hệ thứ tư là “liên hệ chúng sinh.”
Ông đã diễn dịch rằng: “Đây là mối liên hệ vượt thời gian, vượt
không gian của đạo Phật. Bao lâu chúng sinh còn đau khổ, bao lâu
chúng sinh còn bị áp bức, bao lâu chúng sinh còn sống trong vô
minh, thì Nhị vị Hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ
còn liên hệ với họ để cứu họ. Đây chính là yếu tính của Bồ tát
đạo, mà cũng là yếu tính của Phật giáo Việt Nam.”
Ông VVA định danh mối liên hệ như trên thật là khiên cưỡng và
sai chánh pháp! Bởi vì, thứ nhất, đó đúng ra là mối liên hệ
giữa Bồ tát và chúng sinh, chứ không phải giữa chúng sinh với
nhau. Thứ hai, đã gọi là “mối liên hệ” tức là còn nằm trong
vòng tương đối, tương đãi, tức còn có giới hạn, thì làm sao gọi
là “vượt thời gian, vượt không gian”? Thứ ba, vì chúng sinh là
loài hữu tình, là pháp hữu lậu, hữu vi cho nên không có khởi đầu
(vô thỉ), nhưng có chấm dứt (hữu chung). Không có khởi đầu vì
từ vô thỉ vô minh, nhưng có chấm dứt khi thành tựu đại giác ngộ
và đại giải thoát. “Vượt thời gian, vượt không gian” là pháp vô
vi, là tuyệt đối, thì không còn nằm trong các mối liên hệ tương
quan tương sinh nữa. Vì vậy, đức Phật dạy giáo nghĩa duyên
khởi, tương quan tương duyên, để khai thị bản chất không thật,
pháp tính không của tất cả pháp, để chúng sinh thâm nhập vào ý
nghĩa thâm tế của trung đạo đệ nhất nghĩa đế, của tịch tịnh niết
bàn. Giáo pháp duyên khởi vì vậy không phải là loại lý luận
thuần lý đem ra để hý luận, mà để thực nghiệm và thoát khổ, trừ
mê. Thứ tư, không lẽ chỉ có nhị vị Hòa Thượng Huyền Quang và
Hòa Thượng Quảng Độ là có tâm nguyện cứu khổ độ sinh của bồ tát
ư? Tất cả chư tôn đức Tăng, Ni của Phật Giáo Việt Nam đều không
có lấy một tấm lòng từ bi và trí tuệ nào hay sao? Lấy tiêu
chuẩn nào để quyết đoán như vậy? Ông VVA dùng cặp mắt nào để
chiếu soi rõ mà xác quyết như vậy, là nhục nhãn, thiên nhãn, huệ
nhãn, pháp nhãn hay Phật nhãn? Tôi nghĩ nhị vị Hòa Thượng Thích
Huyền Quang và Thích Quảng Độ nếu nghe ông VVA ca tụng quý ngài
một cách thô thiển như vậy, chắc không lấy gì làm hoan hỷ đâu!
Trong ý nghĩa của giáo pháp “tương quan tương sinh” khắp vũ trụ
pháp giới của duyên khởi, ông VVA có biết rằng chính ông cũng có
những mối liên hệ trong tương quan tương duyên với đảng cộng sản
Việt Nam không? Tôi xin góp vài gợi ý để ông VVA thấy được rõ
hơn điều tôi vừa nói trên. Đó là, trong giáo nghĩa duyên sinh,
đức Phật đã dạy: “Cái này có, cho nên cái kia có; cái này
không cho nên, cái kia không” (Thử hữu cố bỉ hữu; thử vô cố bỉ
vô). Trong ý nghĩa đó, vì có sự đàn áp GHPGTN và chà đạp nhân
quyền của đảng cộng sản Việt Nam, cho nên, có sự vận động cho
nhân quyền và phục hoạt GHPGVNTN mà ông VVA đã và đang đóng
góp. Ngược lại, ngày nào, đảng cộng sản Việt Nam không còn đàn
áp GHPGTN, không còn chà đạp nhân quyền, thì lúc đó ông VVA cũng
sẽ không còn vận động cho nhân quyền Việt Nam và phục hoạt
GHPGVNTN nữa. Qua mối tương quan tương sinh ấy, giữa ông VVA và
đảng cộng sản Việt Nam, còn có một chiều tương quan tương sinh
khác, đó là nhờ công cuộc vận động nhân quyền và phục hoạt
GHPGVNTN của ông VVA mà đảng cộng sản Việt Nam đã có một số
nhượng bộ đối với vấn đề nhân quyền, đối với các tôn giáo nói
chung và Phật Giáo nói riêng, và cũng vì vậy, đảng cộng sản Việt
Nam đã có thể tiếp tục sống còn. Đưa một tỉ dụ để cho thấy rằng
đấy chỉ là cách cắt xén mối tương quan tương duyên toàn diện để
đặt vào trong cái khung giới hạn rồi nhìn theo lăng kính hạn cục
của con người, giống như ông VVA đã làm đối với chư Hòa Thượng,
Thượng Tọa và Giáo sư đã nói ở trên. Cái nhìn đó, thực sự không
phải là cái nhìn toàn diện đối với các pháp, các sự kiện. Sự
thật là ông VVA không phải chỉ có mối tương quan tương sinh với
đảng cộng sản Việt Nam mà là tương quan tương duyên với toàn xã
hội, với cả thế giới và vũ trụ qua tất cả mọi lãnh vực sinh hoạt
của đời sống.
Cho nên, chư Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Thích Trí Tịnh, Thích
Minh Châu, Thích Thiện Siêu, Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh, Thượng
Tọa Thích Tuệ Sỹ và Giáo sư Trí Siêu Lê Mạnh Thát không phải chỉ
có mối liên hệ duy nhất mà ông VVA gọi là “liên hệ chính trị,
liên hệ giáo phái và liên hệ học thuật” đối với Đảng Cộng Sản,
chư vị Hòa Thượng, Thượng Tọa và Giáo sư ấy còn có mối liên hệ
trong tương quan tương duyên toàn diện với dân tôc, với nhân
loại và vũ trụ pháp giới trên tất cả mọi khía cạnh của đời sống
Đạo và đời sống bình thường của một con người. Cũng như vậy,
nhị vị Hòa Thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ không phải
chỉ có một mối liên hệ duy nhất mà ông VVA gọi là “liên hệ chúng
sinh”, nhưng trong ý nghĩa pháp giới trùng trùng duyên khởi, nhị
vị Hòa Thượng còn có những mối liên hệ toàn diện với dân tộc,
với nhân loại và vũ trụ pháp giới. Nhìn như vậy mới đúng với
nhãn quan của giáo nghĩa tương quan tương duyên của duyên khởi
hay rộng hơn của pháp giới trùng trùng duyên khởi.
Trong buổi họp báo của Văn Phòng II Viện Hóa Đạo (mới) tổ chức
tại Civic Center của thành phố Westminster, bang California, Hoa
Kỳ, vào trưa ngày 13 tháng 10 năm 2007, ông VVA đã giải thích
xuyên tạc giáo lý Tứ Diệu Đế khi ông nói rằng “Đảng Cộng Sản
Việt Nam là Tập đế, là nguyên nhân gây ra đau khổ cho dân tộc.”
Ông VVA có hiểu gì về Tứ Diệu Đế không mà sao phát biểu như
vậy? Ông VVA có biết chữ “Đế” trong Tứ Đế có nghĩa là gì? Chữ
“Đế” trong Tứ Diệu Đế là sự thật, là chân lý, mà sự thật hay
chân lý luôn luôn có tính phổ quát, phổ quát về không gian và
thời gian. Về không gian, phổ quát tính có nghĩa là sự thật ấy
không phải chỉ được thừa nhận ở chỗ này, ở quốc độ này mà bị phủ
nhận tại chỗ kia, quốc độ kia. Về thời gian, phổ quát tính có
nghĩa là sự thật ấy không phải chỉ được thừa nhận ở thời đại này
mà bị phủ nhận ở thời đại khác. Trong ý nghĩa đó, Tập Đế là
nguyên nhân gây đau khổ mang tính phổ quát ở mọi thời và mọi
nơi. Chính vì vậy, đức Thế Tôn đã không gọi sự phân biệt giai
cấp của xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ là Tập Đế, mặc dù nó tạo ra bao
nhiêu khổ lụy cho dân tộc Ấn. Sự phân biệt giai cấp chỉ có ở Ấn
mà chưa chắc đã có ở những nơi khác, cũng như nó có ở thời đức
Phật mà chưa chắc đã có ở các thời đại sau. Đảng Cộng Sản Việt
Nam có gây ra khổ nạn cho dân tộc, nhưng đó chưa phải là Tập Đế,
mà chính tham, sân, si, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, tà
kiến trong con người của đảng viên cộng sản Việt Nam mới gây đau
khổ cho dân tộc. Đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ có mặt một thời
gian nào đó trong vận hành lịch sử của Việt Nam, rồi cũng bị
diệt vong, làm sao nó có thể là Tập Đế?
Sự hiểu biết của ông VVA đối với Phật Pháp quá non nớt hay là
ông cố tình giải thích sai chánh pháp để phục vụ cho mưu đồ
chính trị của ông? Nhưng, làm sao ông VVA lại không hiểu biết
được ý nghĩa căn bản của Tứ Diệu Đế như vậy, cho nên, ông thật
sự cố tình giải thích xuyên tạc Chánh pháp trong thủ thuật chính
trị, mà trong trường hợp này là Tập Đế, để khích động lòng thù
hận của Tăng, Ni và quần chúng Phật tử trong mục tiêu tận diệt
cộng sản giống như tận trừ Tập Đế. Là một nhà chính trị, một tổ
chức đảng phái chính trị đấu tranh có thể làm việc đó, nhưng
GHPGVNTN nói riêng và Phật Giáo nói chung thì không thể khích
động lòng thù hận nhắm đến tiêu diệt bất cứ ai, bất cứ chế độ
nào! Công cuộc vận động của GHPGVNTN nhắm đến hai mục tiêu:
Một, để phục hồi sinh hoạt bình thường của GHTN; hai, để chuyển
hóa cái xấu ác trong từng cá nhân con người, đặc biệt con người
cộng sản, hầu xây dựng đạo đức tâm linh và cải thiện xã hội,
mang lại tự do, dân chủ, nhân quyền và thịnh vượng cho dân tộc.
Còn một điều kỳ lạ nữa là trong lúc ông VVA phát biểu xuyên tạc
Chánh pháp của đức Phật như vậy, mà chư vị Hòa Thượng, Thượng
Tọa và Pháp Sư ngồi chứng minh ở đó đã không có vị nào lên tiếng
giải thích lại cho đúng để tránh làm tổn hại nghiêm trọng đối
với Chánh pháp và chánh kiến của quần chúng Phật tử! Tại sao?
Không lẽ chư tôn đức ấy đều cho sự giải thích của ông VVA đối
với giáo lý Tứ Đế như vậy là đúng?
Trong Thông Cáo Báo Chí của PTTPGQT phổ biến ngày 28 tháng 01
năm 2008, ông VVA cũng đã nhiều lần dựng chuyện để xuyên tạc, vu
khống và chụp mũ chư Tôn Đức và quý Phật tử. Xin trích vài đoạn
để người đọc thấy rõ điều ấy:
“…có vài vị Tăng sĩ trong Giáo hội muốn tái hồi sự biến năm
1981, thỏa hiệp với Nhà nước Cộng sản nhằm phụ tay thanh toán
Giáo hội Phật giáo Phật giáo Việt Nam Thống nhất…”
Nhị vị Đại lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ
lãnh đạo GHTN còn đó với trí tuệ và oai đức sáng rỡ, ai có đủ uy
đức để có thể “tái hồi sự biến năm 1981”? Đây là chuyện bịa đặt
và xuyên tạc, hoàn toàn không đúng với thực tế của GHTN trong
nước. Trong tình hình Phật Giáo Việt Nam gần đây làm sao có thể
thực hiện cái gọi là “tái hồi sự biến năm 1981”? “Sự biến năm
1981” là việc chính quyền cộng sản vì muốn: một mặt dựng lên một
GH dưới sự kiếm soát của nhà nước, mặt khác nhằm vô hiệu hóa
GHPGVNTN. Cho nên mới thành lập GHPGVN vào năm 1981. Hiện nay
chính quyền đã có một GH nhà nước rồi, họ cần gì lập thêm một GH
nữa. Còn GHTN, sau khi đã được tái bổ sung thành phần nhân sự
của Lưỡng Viện trong Đại Hội Bất Thường ở Nguyên Thiều, Bình
Định vào tháng 10 năm 2003, đã có cơ chế và nhân sự làm việc thì
mọi quyết định lớn lao ảnh hưởng đến vận mệnh của GHTN đều phải
được sự đồng thuận của Hội Đồng Lưỡng Viện, ai có thể tự ý
khuynh loát và thay đổi chính sách của GHTN? Cho nên, cái gọi
là “tái hồi sự biến năm 1981” thực chất chỉ là một thứ luận điệu
tuyên truyền của nhóm ông VVA muốn mượn tay cộng sản để “thanh
trừng” nội bộ, loại bỏ chư Tôn Đức không tín nhiệm họ. Vì vậy,
sau đó vào cuối năm 2005 mới có Giáo chỉ số 2 chấn chỉnh và bổ
sung nhân sự của Hội Đồng Viện Hóa Đạo để loại trừ quý Thượng
Tọa Thích Tuệ Sỹ, Thích Đức Thắng, Thích Thanh Huyền, Thích
Phước An, Thích Quảng Hạnh, Thích Thái Hòa, Thích Phước Viên.
“Các vị Tăng sĩ này lôi kéo một số Tăng sĩ, Cư sĩ tu xuất ở hải
ngoại, gọi là Nhóm Thân hữu Già Lam, hậu thuẫn cho đường hướng
đầu hàng mới.”
Ông VVA đã nhắm mắt bịt tai để tiếp tục dựng chuyện mà vu khống,
chụp mũ đối với chư Tôn Đức và Phật tử, đặc biệt đối với Hội
Thân Hữu Già Lam (HTHGL). HTHGL đã công bố Tâm Thư vào ngày 10
tháng 10 năm 2007 để trình bày rõ tâm nguyện, đường hướng và
sinh hoạt trước công luận. Vậy mà ông VVA như không hay biết gì
cứ liên tục đánh phá. HTHGL không hề bị ai lôi kéo, mà là do sự
tự nguyện tự phát cùng ngồi lại để khuyến tấn nhau góp phần vào
việc hoằng dương Chánh pháp, trợ lực cho những công trình lợi
lạc lâu dài về văn hóa, giáo dục và từ thiện xã hội trong và
ngoài nước. Đâu là “đường hướng đầu hàng mới”? “Đầu hàng” với
ai? Với cộng sản? Ai là cộng sản mà HTHGL đầu hàng? Việc
HTHGL hỗ trợ cho công trình giáo dục của Giáo sư Trí Siêu Lê
Mạnh Thát là việc làm vì lợi ích lâu dài nhằm giáo dục cho thế
hệ Tăng, Ni trẻ trong nước, tạo điều kiện học hỏi cho Tăng, Ni
trẻ để góp phần vào việc nuôi dưỡng chất xám, nuôi dưỡng tương
lai của Phật Giáo Việt Nam. Việc làm ấy sao gọi là “đầu hàng”?
“Đầu hàng” chính là buông xuôi, là bỏ mặc chuyện giáo dục cho
các thế lực khác, cho chính quyền cộng sản để họ muốn làm gì thì
làm, muốn uốn nắn thế nào thì uốn nắn! “Đầu hàng” chính là phó
thác nhiệm vụ đào tạo Tăng, Ni và Phật tử cho người khác, cho
chính quyền cộng sản, chính là khoanh tay đứng nhìn kẻ khác đưa
đẩy cả thế hệ con em đi vào con đường sai lầm mà mình đã thấy!
“Đặc biệt hơn, vị trụ trì ngôi chùa này, Sư Quảng Thanh không là
thành viên của GHPGVNTN và từ ba năm qua không ngừng lên đài
phát thanh công kích, phỉ báng chư vị lãnh đạo GHPGVNTN.”
Tôi sống tại miền Nam California, Hoa Kỳ. Tôi cũng đã nhiều lần
đến viếng thăm Chùa Bảo Quang của Thượng Tọa Thích Quảng Thanh
vào những dịp lễ lớn của Phật Giáo. Tôi cũng thường theo dõi
truyền hình, truyền thanh và báo chí ở đây. Nhưng từ suốt trên
ba năm nay tôi không hề nghe Thượng Tọa Thích Quảng Thanh “công
kích, phỉ báng chư vị lãnh đạo GHPGVNTN”. Chỉ là gần đây vài
tháng, vì biến cố Giáo Chỉ số 9 và Thông Bạch hướng dẫn Giáo chỉ
số 9 đã làm hoang mang và phân hóa cộng đồng Phật Giáo Việt Nam
hải ngoại, vì vậy, Thượng Tọa Thích Quảng mới có một vài lần lên
đài phát thanh giải thích để trấn an quần chúng Phật tử đang
hoang mang. Cho nên, ông VVA nói “từ ba năm qua không ngừng lên
đài phát thanh công kích, phỉ báng chư vị lãnh đạo GHPGVNTN” là
cách nói cường điệu, là dựng chuyện, là xuyên tạc và vu khống.
Trong Thông Cáo Báo Chí nói trên, ông VVA đã đưa ra hai lý do
tại sao có Giáo Chỉ số 9 ra đời như sau:
“Thứ nhất do có vài vị Tăng sĩ trong Giáo hội muốn tái hồi sự
biến năm 1981, thỏa hiệp với Nhà nước Cộng sản nhằm phụ tay
thanh toán Giáo hội Phật giáo Phật giáo Việt Nam Thống nhất dưới
sự lãnh đạo của Đức Tăng thống Thích Huyền Quang và Đại lão Hòa
thượng Thích Quảng Độ, Viện trưởng Viện Hóa Đạo. Các vị Tăng sĩ
này lôi kéo một số Tăng sĩ, Cư sĩ tu xuất ở hải ngoại, gọi là
Nhóm Thân hữu Già Lam, hậu thuẫn cho đường hướng đầu hàng mới.
Vì vậy mà ngày 7.1.2007 xuất hiện tại miền Nam California Nhóm
Tăng Ni Việt Nam Hải ngoại do Hòa thượng Thích Minh Tâm cầm đầu.
Cuộc họp thành lập chư Tăng các châu này không thông qua hệ
thống tổ chức giáo hội thuộc Văn phòng II Viện Hóa Đạo chiếu
theo Quy chế và Hiến chương Giáo hội quy định. Thành lập xong,
Nhóm Tăng Ni Việt Nam Hải ngoại bước sang bành trướng thế lực
qua cuộc hội họp gọi là Ngày Về Nguồn tại chùa Pháp Vân ở thị
trấn Mississauga, Canada, các ngày 21, 22, 23.9.2007, rồi tiếp
đến cái gọi là Đại hội Bất thường của 8 Hòa thượng và 4 Cư sĩ
tại chùa Bảo Quang hôm 12.1.2008. Đại hội này tự xưng là
GHPGVNTN nhưng lại tụ họp trong một ngôi chùa (Bảo Quang) không
hề có chân trong danh sách các chùa thuộc GHPGVNTN Hải ngoại tại
Hoa Kỳ. Đặc biệt hơn, vị trụ trì ngôi chùa này, Sư Quảng Thanh
không là thành viên của GHPGVNTN và từ ba năm qua không ngừng
lên đài phát thanh công kích, phỉ báng chư vị lãnh đạo
GHPGVNTN.”
“ Thứ hai, trợ thủ cho việc đánh phá GHPGVNTN nói trên, Nhà nước
Cộng sản mở chiến dịch phỉ báng, mạ lỵ, vu khống Đại lão Hòa
thượng Thích Quảng Độ và GHPGVNTN trên các cơ quan truyền thông
đại chúng và qua 600 tờ báo của Đảng trong vòng 2 tháng (giữa
tháng 7, 8 sang tháng 9.2007). Đồng thời hàng giáo phẩm thuộc
Viện Hóa Đạo và một số vị Chánh Đại diện GHPGVNTN tại các tỉnh
bị triệu đến cơ quan Công an hay Ủy ban Nhân dân làm việc, kể cả
Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ.”
“Trước nguy cơ “trong đánh ra ngoài đánh vào” này, Đức Tăng
thống Thích Huyền Quang ban hành Giáo chỉ số 9 nhằm chấn chỉnh
nội bộ và đối phó với tình hình đàn áp mới.”
Viết như vậy, ông VVA đã sử dụng thủ thuật chính trị với cái tâm
vừa gian vừa ác! Gian, vì ông VVA cố tình muốn cho người đọc
hiểu rằng những việc làm của chư tôn đức Tăng, Ni và Phật tử tại
hải ngoại có cùng mục đích như “chiến dịch phỉ báng, mạ lỵ, vu
khống đại lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ và GHPGVNTN trên các cơ
quan truyền thông đại chúng và qua 600 tờ báo của Đảng trong
vòng 2 tháng.” Ác, vì ông VVA cố tình xuyên tạc, vu khống, chụp
mũ chư tôn đức Tăng, Ni và Phật tử hải ngoại để khích động lòng
căm thù đối với chư tôn đức Tăng, Ni và Phật tử này!
Ông VVA đã nói sai sự thật, bởi vì trước khi mở cuộc họp tại
Phật Học Viện Quốc Tế, bang California, vào ngày 7 tháng 01 năm
2007, chư tôn đức Tăng, Ni mà đại diện là Hòa Thượng Thích Minh
Tâm đã có thưa thỉnh và bàn bạc với Hòa Thượng Thích Hộ Giác.
Chính Hòa Thượng Thích Hộ Giác đã hoan hỷ và hứa đến tham dự
trong cuộc họp này. Nhưng, cuối cùng Hòa Thượng đã không đến.
Ông VVA đúng ra phải biết rằng tại hải ngoại, ngoài
GHPGVNTNHN-HK và Văn Phòng II VHĐ ra còn có nhiều Giáo Hội khác
đã và đang sinh hoạt, như Tổng Hội PGVN tại Hoa Kỳ, Giáo Hội
PGVN Trên Thế Giới, Giáo Hội Liên Tông PGVN tại Hoa Kỳ, Giáo Hội
Linh Sơn Trên Thế Giới, Giáo Hội Tăng Già Khất Sĩ Thế Giới, v.v…
Những Giáo Hội này không nằm trong hệ thống lãnh đạo của Văn
Phòng II VHĐ. Như vậy, việc chư tôn đức Tăng, Ni trên khắp thế
giới đang sinh hoạt trong nhiều Giáo Hội, Giáo Phái, Hệ Phái
cùng ngồi lại trong Tăng Ni Việt Nam Hài Ngoại và Ngày Về Nguồn
đâu cần phải thông qua sự chấp thuận của Văn Phòng II VHĐ. Sự
ngồi lại của chư Tăng, Ni trong Ngày Về Nguồn là để củng cố đạo
lực thanh tịnh hòa hợp của Tăng già, cùng nhau sách tấn trên con
đường hành đạo, góp phần làm vững mạnh tập thể Tăng già để hậu
thuẫn cho các Giáo Hội và công cuộc vận động phục hoạt
GHPGVNTN. Giống như vậy, chính Hòa Thượng Thích Hộ Giác cũng đã
hoan hỷ tán thán việc tổ chức Ngày Về Nguồn tại Chùa Pháp Vân,
Canada, và hứa đến tham dự, khi Thượng Tọa Thích Tâm Hòa đến
đảnh lễ cung thỉnh ngài quang lâm, nhưng cuối cùng Hòa Thượng
cũng đã không đến.
Trong Thông Cáo Báo Chí nói trên, ông VVA viết:
“Tám vị Hòa thượng : Thích Thắng Hoan, Thích Trí Chơn, Thích
Chơn Thành, Thích Nguyên Lai, Thích Tín Nghĩa, Thích Hạnh Đạo,
Thích Nguyên An, Thích Tín Nghĩa, và Thích Nguyên Trí viết thư
công khai ngày 4.12.2007 loan tải trên Internet vu cáo, phỉ báng
vô bằng Phát ngôn nhân Viện Hóa Đạo, là Cư sĩ Võ Văn Ái. Đây là
hành động thiển cận, vừa vọng ngữ vừa ác ngữ, không xứng với
cương vị tu hành của người Tăng sĩ. Một bức thư như thế đưa ra
pháp luật sẽ là một hành vi tội phạm, vì các luận cứ đưa ra đều
vô bằng. Như người nhìn sợi dây trong đêm mà tưởng là con rắn,
nên hô hoán ầm ỉ.”
Tám vị Hòa Thượng đã danh chánh ngôn thuận đồng ký tên trong bài
viết đó là một hành vi quang minh chính đại, từ lời lẽ đến nội
dung đều nghiêm túc trình bày nội tình của biến cố Giáo Chỉ và
Thông Bạch để cho Tăng, Ni và Phật tử trong và ngoài nước được
biết rõ. Không lẽ ông VVA không biết đến hàng chục bài viết
đăng trên các trang nhà điện tử Tinparis, Take2tango, và phổ
biến khắp thế giới qua các email group, mà lời lẽ thì thô tục,
nội dung thì cạn cợt, nông nổi, chỉ biết xuyên tạc sự thật, vu
khống, chụp mũ, chửi bới như kẻ vũ phu thất học ở đầu đường xó
chợ! Những bài như vậy đối với ông là đúng, là hay sao? Ông
VVA mới chính là người nhìn con rắn thật mà cho là sợi dây. Ông
VVA còn lên giọng hù dọa quý Hòa Thượng. Quý Hòa Thượng nói ông
ăn tiền của tổ chức NED là không đúng hay sao? Khắp cả thiên hạ
đều biết việc này là sự thật mà ông còn chống chế gì nữa! Ông
VVA nói việc quý Hòa Thượng viết trong bài “Giáo Chỉ Thông Bạch
và cơn khủng hoảng của Phật Giáo Việt Nam tại hải ngoại” là
“hành vi tội phạm.” Vậy tôi xin hỏi ông khi ông tuyên bố thẳng
thừng trong các cuộc phỏng vấn và hội luận trên đài, trên hệ
thống paltalk chỉ đích danh quý Hòa Thượng là cộng sản, thì điều
này nếu đưa ra luật pháp có là “hành vi tội phạm” không?
Cũng trong Thông Cáo Báo Chí nói trên, ông VVA viết:
“Thế nhưng 8 Hòa thượng tiếm danh GHPGVNTN kia, nhóm Thân hữu
Già Lam nọ, nhóm Tăng Ni Việt Nam Hải ngoại này vẫn cứ “thuần
túy tu học”, “thuần túy Về Nguồn”, “thuần túy Đại hội”.”
Tôi thách thức ông VVA trưng ra bằng chứng thật sự để chứng minh
rằng Hội Thân Hữu Già Lam, Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại đã từng
tuyên bố hay viết rằng “thuần túy tu học”, “thuần túy Về Nguồn”,
“thuần túy Đại Hội”, hay mấy cái “thuần túy” mà ông luôn luôn
đặt vào miệng hay ngòi bút người khác! Nếu ông VVA không đưa ra
được bằng chứng thật sự về mấy khẩu hiệu trên, thì ông VVA là
người bịa đặt, xuyên tạc sự thật, vu khống và chụp mũ Hội Thân
Hữu Già Lam, Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại.
Tôi biết ông không tài nào có thể tìm ra được bằng chứng thật sự
là Hội Thân Hữu Già Lam và Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại đã từng
nói hay viết mấy cái khẩu hiệu đó, bởi vì nó chỉ là sản phẩm trí
tuệ của ông, là thủ đoạn chính trị ông dùng để vu khống người
khác.
Nhưng tôi thì xin đưa ra đây bằng chứng cụ thể là ông VVA đã
từng tuyên bố và viết như vậy. Trong Giáo Chỉ số 9, phần nhận
định thứ 6, viết:
“Các cuộc cứu trợ thuần túy từ thiện xã hội của Giáo Hội đã được
thực hiện công khai ngày 13.7 và 17.7 tại Saigon và ngày 23.8
tại Hà Nội.”
Điều kỳ lạ là, trong Thông Cáo Báo Chí của PTTPGQT phổ biến ngày
26 tháng 9 năm 2007, ông VVA đã kịch liệt phản bác chính luận
điểm “thuần túy” trong Giáo Chỉ số 9, như sau:
“Luận điểm tuyên truyền của họ là: “Nên làm văn hóa thuần túy,
nên lo giáo dục thuần túy, nên tu học thuần túy”. Đây là thứ lý
luận đuổi chim để thủ tiêu tranh đấu.”
Ông VVA ơi là ông VVA!!! Sao ông lại có cái gan bằng trời như
vậy? Ông hô hào chư tôn đức Tăng, Ni và Phật tử phải khâm tuân
Giáo Chỉ, ai không khâm tuân thì bắn bỏ! Vậy mà chính ông đã
cực lực phản đối tinh thần “thuần túy” của Giáo Chỉ đó. Như vậy
là thế nào? GHPGVNTN đi làm “cứu trợ thuần túy từ thiện xã hội”
có phải là hành động “đuổi chim để thủ tiêu tranh đấu”?
Bài viết này được viết ra vì nỗi đau cho Phật Giáo Việt Nam đối
với hai sự kiện:
Thứ nhất, tôi không thể nhìn thấy Phật pháp bị tổn hại nghiêm
trọng để di họa lâu dài về sau bởi một người như ông VVA, vì
tham vọng chính trị đã bất chấp hậu quả dám giải thích xuyên tạc
nội dung của Chánh pháp, theo tư kiến tư dục của mình, mà đức
Phật và lịch đại tổ sư đã dày công giáo hóa và truyền thừa cho
đến hôm nay.
Thứ hai, tôi không thể đứng nhìn tình trạng sinh hoạt của
GHPGVNTN nói riêng và Phật Giáo Việt Nam nói chung đã bị ông VVA
cố tình lèo lái đi theo con đường của những tổ chức đảng phái
chính trị bá đạo thế gian với đầy đủ những thủ đoạn, gian ác, vu
khống, chụp mũ, cực đoan, thù hận, thanh trừng và tàn hại lẫn
nhau!
Sau cùng, để chấm dứt bài viết này, tôi xin thành kính nêu ra
một vấn nạn liên hệ đến trách nhiệm tinh thần đối với tất cả chư
tôn đức Tăng, Ni và đồng bào Phật tử trong và ngoài nước rằng,
với một người vì tham vọng chính trị cá nhân như ông VVA đã bất
chấp tất cả dù đó là việc làm tổn hại nghiêm trọng đến Phật
Pháp, thì còn có đủ tư cách để đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng
trong cơ cấu tổ chức GHPGVNTN hay không?
Thành tâm tri ân chư tôn đức Tăng, Ni và quý Phật tử.
Như Thuyết
--------------------------------------------
*Tòa
soạn trích dẫn. |