Đọc : Giữa gạo và khoai tây
của Tường Lam*
Đây
là tác phẩm thứ hai của Tường Lam, được viết bằng tiếng Việt.
Theo định nghĩa của các cuốn Tự điển Hán-Việt thì: “Tiểu
thuyết là một thể văn xuôi miêu tả nhân vật, sự kiện và mọi
hiện tượng trong xã hội, thường là truyện đặt ra.” Như
thế cuốn truyện nầy đều có đầy đủ các yếu tố trên, duy có điều
là tác giả muốn trình bày theo một chiều hướng khác. Lấy sự
trung thực làm mục tiêu chính để diễn tả, nên tác phẩm không
những chỉ để giải trí, mà còn có thể rút tỉa một vài kinh
nghiệm cho đời sống hiên tại.
Thường thì các nhà văn viết tiểu thuyết hay theo một thể thức
chung với nội dung một nửa sự thật, còn nửa kia là hư cấu, nhờ
vậy mà hấp dẫn người đọc. Nhưng đối với tác giả Tường Lam thì
lại muốn đi riêng một con đường, trong đó từ đầu truyện đến cuối
đều tả chân và hiện thực. Lối viết nầy có thể không đáp ứng thị
hiếu của một số người. Bởi vì tâm lý chung ai cũng muốn truyện
có những tình tiết hấp dẫn, có một chút phiêu lưu, một chút mâu
thuẩn, khó hiểu để đánh lừa những người hay suy tư và tưởng
tượng. Vì vậy mà lối tiểu thuyết tả chân, tả thực khi đọc trang
đầu, có thể phỏng đoán được trang hai. Nhưng nếu đọc tiếp thì sẽ
nhận ra đây là một cuốn sách có thể đem lại lợi ích cho cộng
đồng người Việt đang sinh sống tại đây. Có thể rút tỉa được ít
nhiều kinh nghiệm cho cuộc sống hàng ngày như vấn đề hôn nhân
hay hội nhập vào xã hội mới. Theo chiều hướng hội nhập nhưng vẫn
còn gìn giữ những nét văn hóa cội nguồn, điều nầy rất cần thiết
đối với kẻ ly hương, nhất là cho các thế hệ trẻ.
Có lẽ vì thế mà tác giả đã mạo hiểm, đi tiên phong làm cuộc thí
nghiệm, và cũng là một đóng góp cho những người đang sống giữa
hai nền văn hóa và tôn giáo khác biệt. Vẫn có thể điều hòa đời
sống lứa đôi, kiến tạo hạnh phúc gia đình để góp phần xây dựng
xã hội. Tháo gỡ được những dị biệt, để đi đến sự hài hòa bằng
hiểu biết và cảm thông. Khi chúng ta đến sinh sống nơi xứ người,
việc quan trọng trước tiên là hội nhập vào xã hội nơi mình định
cư. Với cuộc sống mới nầy, rất có thể thế hệ tương lai sẽ gặp
những trường hợp hôn nhân dị chủng, dị giáo và tinh thần kỳ thị
vẫn luôn ám ảnh các dân tộc vốn đã có một lịch sử khủng hoảng,
phong kiến, bị chèn ép. Nếu không hiểu biết để yêu thương, trân
trọng lẫn nhau, không chuẩn bị tinh thần trước, thì rất dễ đưa
đến tan vỡ.
Trong tinh thần đó tác giả đã khai triển những yếu tố sau đây:
Thứ nhất, với tựa đề sách : “Giữa Gạo và Khoai Tây” có thể khiến
cho độc giả nghĩ rằng đây là một cuốn sách phân tích về kinh tế,
hay bàn về phương pháp dinh dưỡng. Nhưng nội dung thì hoàn toàn
trái ngược. Nghĩa là vẫn giữ tiêu chuẩn tiểu thuyết, miêu tá:
“nhân vật, sự kiện và mọi hiện tượng trong xã hội…”. Thế nên
tựa đề có thể là một ẩn dụ để so sánh giữa hai nền văn hóa
Đông-Tây một cách rốt ráo, hiện thực vấn đề. (người Việt chúng
ta thì món ăn chính là gạo, người Đức có món ăn chính là khoai
tây).
Thứ hai, có lẽ nhờ vào tấm lòng của tác giả quan tâm đến đời
sống tinh thần, tâm tình của giới trẻ. Lâu nay họ bị lạc lỏng
trong không gian gia đình, với những phụ huynh vốn có quan niệm
cứng ngắt về phong tục, tập quán mà có thể có nhiều điều không
phù hợp với đời sống hiện tại. Nên giới trẻ đã tự nhiên hội nhập
vào xã hội nầy bằng cách trực chỉ, nên không thể hiểu và thông
cảm lẫn nhau, khiến cho bóng dáng cội nguồn dần dần phai mờ. Do
đó mà từ thế hệ phụ huynh đến con em trở thành hai quan niệm,
hai thế giới nhân sinh quan khác nhau. Vấn đề nầy đã xẩy ra rất
lâu trong nền văn hóa Việt, vì quan niệm cổ hủ của người xưa. Ví
dụ như câu tục ngữ: “Thương con thì cho roi cho vọt, ghét con
thì cho ngọt cho bùi”. Nhưng họ đâu chịu khó để tìm hiểu tâm
trạng, phản ứng của một em bé khi bị đánh đòn? Cho nên giữa cha
mẹ và con cái muôn đời vẫn xa cách, thế hệ đi trước muốn dừng
lại, còn thế hệ thứ hai thì vẫn tiến bước để theo kịp văn minh
của nhân loại. Trong khi trên thực tế đời sống của con người
phải cùng nhau khởi hành để đi về phía trước. Mà tương lai thì
có nhiều điều khác biệt với quá khứ và hiện tại, không hoàn toàn
phù hợp với quy định của một lề thói, với những ai không muốn
tham dự vào cuộc hành trình.
Thứ ba, là nhân duyên đưa đến sự hội nhập. Không phải tất cả
những người đến tị nạn tại nước Đức, một sớm một chiều gặp được
cuộc sống hài hòa đối với người bản xứ, nếu không gặp những điều
may mắn nào. Cũng như mấy ai được suông sẻ trong việc xây dựng
hôn nhân với người bản xứ mà không cảm thấy một cái gì đó không
thể diễn tả được, nhưng nó luôn hiện diện trong tâm thức của hai
người, như một bức tường vô hình ngăn cản. Có thể tác giả đã
sinh sống tại nước nầy từ rất lâu, đã gặp nhiều chuyện của nhiều
người, nên bây giờ tác giả diễn tả lại một cách trung thực, rất
sâu sắc.
Như đoạn tiêu biểu của hai người con gái Việt Nam đều cùng một
hoàn cảnh, một lứa tuổi và trình độ không khác nhau mấy. Thủy
Tiên vốn con nhà vọng tộc, con của một Sĩ quan thuộc chế độ miền
Nam, nhưng khi đến xứ người thì phải chịu cảnh cô thân, nên cô
đành chấp nhận học một cái nghề bình thường đi làm để trước hết
nuôi thân. Còn Thu Mai thì may mắn hơn có mẹ bên cạnh, nên cô đã
có nhiều cơ hội học lên Đại học. Cũng như cuộc hôn nhân của Thu
Mai may mắn nên đã lập gia đình với một người đổ đạt, có cuộc
sống hạnh phúc.
Trong tình tương lân mẹ của cô Thu Mai cũng đã che chở, đùm bọc
cho Thủy Tiên như con mình vậy. Thế mới biết tình mẹ là chổ dựa
rất bảo đảm cho đời sống của con trẻ. Tuy Thủy Tiên không được
may mắn học lên cao, nhưng cô không mặc cảm nên vẫn có một cuộc
sống đàng hoàng, một nghề nghiệp vững chắc, nhờ vậy được nhiều
người quý trọng.
Chuyện tình của Thủy Tiên cũng ba chìm bảy nổi! Chẳng những
không có cơ hội học lên cao, mà còn gặp nhiều điều ngang trái.
Nhưng nàng biết an phận thủ thường, thỏa mãn với những gì mình
đang có. Nên không cảm thấy thất vọng khi vấp ngã, đau buồn
trước chia ly. Thoạt đầu, Thủy Tiên gặp một du sinh người Việt,
cô ngỡ tưởng người cùng chủng tộc và ít nhất cũng có một trình
độ khả dĩ để xây dựng gia đình. Nên Thủy Tiên chọn Tân để gá
nghĩa, không ngờ chàng đã không chịu khó học hành, còn sống cuộc
đời bê tha, nên tuy đã có với nhau một đứa con nhưng cuối cùng
phải đành chia tay. Từ ấy Thủy Tiên sống với bé An là nguồn an
ủi duy nhất của đời nàng. Do đó mà khi quen biết với Andreas,
Thủy Tiên rất mặc cảm. Muốn chạy trốn tất cả, vì đã một lần vấp
ngã nên luôn có cảm tưởng chuyện đời không bao giờ bằng phẳng
như thế. Trong khi đó Andreas học Y khoa tại Hamburg sau khi ra
trường được làm việc tại đây và kết hôn với Sophie nhưng sau năm
năm chung sống hai người cũng ly dị. Cùng chung một hoàn cảnh,
nên Andreas không phân biệt giai cấp; cũng như mặc cảm của Thủy
Tiên là chất men quyến rũ, khiến cho Andreas theo đuổi đến tận
cùng.
Cơ hội tạo nên sự cảm thông: Thủy Tiên nhận được thư mẹ nhắc nhỡ
đến ngày Giổ Ba. Thế là Thủy Tiên chuẩn bị làm mâm cơm để cúng
Ba, đồng thời mời những người bạn làm chung sở đến dùng bửa cơm
thân mật. Không ngờ đây cũng là cơ hội để giới thiệu nền văn hóa
Việt Nam đến với các bạn người Đức. Chẳng những tạo nên sự ngạc
nhiên lúc ấy, mà còn khiến cho những người trong “nhóm” lại tiếp
tục tìm hiểu thêm văn hóa Việt khi có cơ hội. Và hình như cũng
thêm một nhân duyên khác, khi Thủy Tiên nhận thư mẹ cho biết
ngày đám cưới của em mình. Thủy Tiên sắp xếp nghỉ một tháng về
Việt Nam trước là để dự đám cưới của em, sau để thăm mẹ già và
các em. Cùng thời điểm ấy, Andreas cũng có chương trình đi tham
dự Đại Hội Y Giới tại Thái Lan, sau khi xong việc chàng lấy máy
bay qua Việt Nam, nhận dịp ngoạn cảnh và ghé thăm Thủy Tiên. Dịp
nầy Andreas có cơ hội tiếp xúc với “nguồn gốc” của Thủy Tiên,
sau khi nhờ nàng làm hướng đạo để tìm hiểu thêm quê hương nếp
sống của người Việt. Thủy Tiên muốn chọn một thành phố tiêu
biểu, có những nét đặc thù để giới thiệu cho Andreas đó là thành
phố Huế. Một địa danh chẳng những phong cảnh đẹp, mà còn mang
nét văn hóa cung đình, một kiến trúc cổ kính tạo sức hấp dẫn cho
du khách.
Cuối cùng hai vấn đề quan trọng hơn hết là việc đề cập đến hôn
nhân dị chủng và dị giáo. Hai vấn đề nầy hết sức tế nhị, nhưng
cũng đã tạo nên không biết bao nhiêu điều phiền toái cho cuộc
sống lứa đôi!
Quan niệm về hôn nhân dị chủng: Sự kỳ thị chủng tộc, có lẽ dân
tộc nào cũng có. Nhưng đối với người Đức chắc chắn mảnh liệt
hơn. Tác giả đã tiếp xúc với mọi tầng lớp, nên đã diễn tả tinh
thần ấy một cách trung thực của sự việc. Như trường hợp ông
Mueller, bố của Andreas bạn của Thủy Tiên (đối với người Đức,
bạn gái hay trai tức là người yêu). Khi biết con mình có bạn gái
khác chủng tộc, thì ông đã không có cảm tình rồi, còn bày tỏ
thái độ một cách lộ liễu nữa:
- Bố có nghe mẹ nói lại bửa cơm con mời bố mẹ sẽ có cô bạn
của con. Hôm qua bố không biết cô ấy là bạn, hay vợ sắp cưới của
con, nên bố không biết đối xử như thế nào cho đúng lễ chứ không
phải bố lạnh nhạt (giọng nói của ông có vẻ mỉa mai và gay gắt).
- Nếu cô bạn con là vợ tương lai của con thì bố đối xử như
thế nào với cô ấy?
Ông Mueller nổi trận lôi đình, không còn đè nén được nữa, nhìn
thẳng vào mặt Andreas và trả lời:
- “Từ đời cha ông ta cho đến nay chưa có một người ngoại quốc
nào lọt vào trong gia đình, bất luận đến từ nước nào, thì làm
sao bố vui vẻ chấp nhận một cô dâu ngoại quốc, lại đến từ Á
Đông, từ màu da, màu tóc…cho đến tôn giáo, phong tục, tập quán,
tiếng nói tất cả đều xa lạ! Tương lai có thể mang lại những đứa
cháu có hai giòng máu, không giống ai cả! Bố rất kính trọng sự
lựa chọn và quyết định của con, nhưng bố cũng xin con kính trọng
sự từ khước của bố.”
(trích trang 218-219)
Cuộc hôn nhân giữa Andreas và Thủy Tiên có đem đến hạnh phúc hay
không? Nếu có thì bằng cách nào để hóa giải những xung khắc giữa
hai thế hệ, mà quan niệm về chủng tộc là một vấn đề vô cùng khó
đi đến sự cảm thông để hòa đồng. Muốn biết rõ vấn đề, xin độc
giả hảy theo dõi phần cuối truyện mới hiểu ý nghĩa trọn vẹn của
“quê hương, cội nguồn và dân tộc”.
Tiếp theo một vấn đề nan giải khác, đó là hôn nhân dị giáo. Như
những thao thức của Thủy Tiên:
- Chúng mình lớn lên với hai tôn giáo khác biệt, mang theo nền
văn hóa dị biệt. Tiên nghĩ chúng mình không nên tranh chấp và áp
đặt con phải theo ý của mình khi chúng còn bé. Nếu cho con chịu
phép Thánh Tẩy như truyền thống gia đình Andreas, thì Tiên đâu
có biết giáo luật Tin Lành như thế nào để dẫn dắt con. Nếu cho
con quy y theo Phật Giáo thì quá xa lạ đối với gia đình Andreas,
mà ở đây cũng không có môi trường để con có phương tiện tìm hiểu
giáo lý Phật Giáo.
(trích trang 331)
- Sao con không tổ chức cho cháu chịu phép Thánh Tẩy cùng một
lần, như thế có tiện hơn không?
- Chúng con chờ cháu khôn lớn sẽ tổ chức cho cháu, tuy nhiên
tương lai chúng con sẽ cho cháu theo học lớp giáo lý tại trường
và tham gia các sinh hoạt của giáo xứ St.Markus cạnh nhà để cháu
có thể tìm hiểu thêm giáo lý. Chúng con nghĩ niềm tin không thể
áp đặt mà phải tìm hiểu đúng đắn mới xác tín để giúp cháu giữ
đúng giáo luật.
Ông bà Mueller im lặng lắng nghe, có vẻ không hào hứng lắm nhưng
tôn trọng sự quyết định của Andreas.
(trích trang 334).
Quan niệm về tôn giáo được tác giả nhận thức một cách sâu sắc và
chính xác. Tuy nhiên chắc chắn sẽ không làm vừa lòng một số
người của các tôn giáo. Vì ai cũng cho rằng tôn giáo của mình là
nhất, xác tín của mình là đúng, trong khi chưa hiểu gì nhiều về
tôn giáo mình cả. Vì thế mà quan niệm của Thủy Tiên rằng:
“không nên tranh chấp và áp đặt con phải theo ý của mình khi
chúng còn bé.” Là nhận định sáng suốt, là tư tưởng tiến bộ,
là ý kiến tuyệt vời để dẫn dắt con trẻ qua khỏi mê lầm. Là
phương tiện để cùng nhau làm cuộc hành trình tìm đến Chân,
Thiện, Mỹ.
Với tư cách là một độc giả, chúng tôi có vài cảm nhận về tác
phẩm: “Giữa Gạo và Khoai Tây” như một chia sẻ với độc giả, đồng
thời xin hân hạnh giới thiệu một tấm lòng đã và đang ưu tư đến
đời sống của cộng đồng người Việt tại hải ngoại. Đã ghi lại
những thao thức, những trăn trở cho việc hội nhập cũng như tìm
cách tháo gỡ những xung đột giữa hai quan niệm, đối với những
người đang sống giữa hai nền văn hóa và tôn giáo khác nhau. Với
ước mong tìm kiếm cho cuộc đời có được những tháng ngày an vui
hạnh phúc…
Muốn mua tác phẩm:
“Giữa Gạo và Khoai Tây” xin liên lạc với:
Cuvillier Verlag Göttingen
Nonnenstieg 8, 37075 Göttingen
ISBN 978-3-86727-626-9
Hay đặt mua tại các tiệm sách Đức
với tựa sách và ISBN như trên.
(*) Tường Lam là bút hiệu của Công Tằng Tôn Nữ Tiếu Diện, một
hậu duệ của Hoàng Tộc, sinh trưởng tại Huế. Chị là một du học
sinh tại Cộng hoà Liên Bang Đức. Học ngành Sư Phạm. Hiện sinh
sống với gia đình tại thành phố Offenbach/a.Main. Đức.
|