Giải thoát thơ
Trong sinh hoạt
hàng ngày của đời sống con người, không chỉ làm việc để tạo
nên của cải vật chất cung ứng cho đời sống. Cũng chưa phải ăn
uống nghỉ ngơi và giải trí để giúp cho cơ thể được thoải mái,
tinh thần được vui tươi mới gọi là hạnh phúc. Vì có nhiều
người giàu sang tột đỉnh, quyền uy cao ngất mà họ vẫn thấy
đang thiếu thốn một thứ gì không thể xác định được. Vẫn có
những điều khiến cho họ cảm thấy đang thiếu vắng bóng dáng
hạnh phúc. Cho nên muốn có một cuộc sống an vui, cần phải giải
tỏa những nghi vấn, san bằng nghịch cảnh, dung hòa những định
kiến, thì cuộc đời mới có thể dung thông. Nếu không thì cuộc
sống sẽ bất an và tương lai vẫn trong vòng lẫn quẩn của tư duy
mâu thuẩn không cùng. Nỗi thao thức ấy, chẳng thể đem đến cho
chúng ta một nguồn sống hài hòa, vì biết tìm đâu ra suối nguồn
diệu giác để tắm gội thân tâm, rửa sạch tấm thân vốn đã bị bụi
hồng trần lấm lem nhơ nhuốc.
Những điều thấy biết của con người vẫn còn giới hạn, chưa thể
nào có thể giải đáp được những ưu tư, nghi vấn mà mỗi lúc cứ
chập chùng ẩn hiện như những đợt sống trên biển cả mênh mông,
muôn trùng bờ bến. Khó lấp, khó hàn gắn những ray rứt khôn nguôi
trong lòng nhân thế.
Vì vậy mà con người muốn tìm về nẽo đạo, để tạo cho mình một
cuộc sống an lạc. Tìm một món ăn tinh thần để cho cuộc đời đuợc
thanh lương, thoải mái. Tinh thần là chức năng dẫn đường cho
cuộc đi, mong ước một chốn đến không bị ngăn ngại bởi chướng
duyên. Món ăn tinh thần nầy, ngoài đạo giải thoát còn có văn thơ
là một giá trị không kém đạo giáo. Vì nền văn hóa là phương tiện
để hướng dẫn chúng ta bước vào nẽo đạo, đi đến mục đích mà con
người muốn đạt đến.
Sự tương quan giữa văn học và tôn giáo là một điều tự nhiên, như
là phương tiện để giúp cho những kẻ lữ hành trên con đường vạn
dặm. Như trong một tài liệu về lịch sử Phật giáo, một đoạn sách
diễn tả lại rằng: “Sở dĩ mà Phật giáo du nhập vào Việt Nam một
cách thuận lợi, và nhanh chóng có rất nhiều ngưòi yêu thích, là
vì tinh thần Phật pháp có nhiều điểm trùng hợp với tình tự văn
học dân gian. Ví dụ như trong đạo Phật có ngày lễ Vu lan báo
hiếu, thì ngoài dân gian cũng có: … Một lòng thờ mẹ kính cha.
Cho trọn chữ hiếu mới là đạo con. Hay Phật giáo có lòng từ
bi, tính hỷ xã thì ngoài dân gian cũng có: … Bầu ơi thương
lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.” …
Hay những nghi vấn mà được giải đáp thỏa đáng, đúng với những
trình độ khác nhau, nhưng cùng đồng hiểu như nhau đều là những
đáp ứng thực tiển. Như một câu hỏi mà xưa nay vẫn làm theo thức
của nhiều thức giả:
- Chúng ta sinh ra và sẽ đi về đâu ?
Và cũng may mắn thay câu hỏi nầy cũng đã được một vị thiền sư
khai thị:- “Nếu biết rằng trong hiện tại chúng ta đang đi
đâu, thì sẽ biết tương lai chúng ta sẽ về đâu” ? Lời khai
thị thật thâm thúy và thực tế biết bao. Vì đường đời thì trăm
hướng, nếu bây giờ chúng ta chọn hướng nào, thì mai sau sẽ đi
theo hướng ấy. Như người Phật tử bây giờ siêng năng đi chùa,
tinh tấn tu hành, sẵn sàng dấn thân vào việc từ thiện, thì tương
lai sẽ đưa chúng ta đi theo con đường thiện lành và sẽ dẫn đến
bến bờ hạnh phúc. Còn ngược lại nếu bây giờ giải đải, không chọn
cho mình một hướng đi, thì dĩ nhiên sẽ nằm lì hay đi về một
hướng khác, mà hướng ấy như thế nào cũng còn tùy nhân duyên của
từng người. Chứ còn cứ ngồi đây mà hỏi chúng ta sẽ đi về đâu thì
đố ai mà biết được ?
Trong sinh hoạt dân gian, thơ văn cũng đóng góp một vai trò rất
quan trọng, được thể hiện qua ca dao, tục ngữ là con thuyền chở
đời qua sông. Vì bên nầy là thực tại lối mòn, mà bên kia là chân
trời mơ uớc. Như lời một bài hát nào đó: … Bên kia sông có
ánh mặt trời. Bên kia đồi cỏ hoa chen lối. Bên kia suối suối reo
lạnh lùng. Bên kia núi núi mơ chập chùng. Là bài thơ toàn chữ hư
vô.
Văn học của Tôn giáo , thơ văn cũng đóng một vai trò rất quan
trọng để chuyên chở muôn lòng trở về nhất quán. Nơi ấy chúng ta
không còn mong ước sẽ đi về đâu nữa, vì là chốn tột cùng mơ ước
của con người. Nơi ấy là nơi “ngã tướng bất sanh” thì còn chổ
nào để cho ước mơ của chúng sinh về đậu ?
***
Nhớ một lần tu học, nghe một vị thầy kể một giai thoại văn thơ
thật tuyệt vời. Giai thoại nầy đã đưa thơ ra khỏi những đối đã
thị phi, không còn một ngăn cách giữa thiện ác, không còn những
hoài nghi sai khác, không còn những chấp ngã đời thường. Trái
lại thơ đã thăng hoa lên trăng sao vằng vặc, cho muôn đời ánh
sáng mầu nhiệm kia chiếu rọi vào vô minh, xóa tan ngã chấp, giải
tỏa những nghi vấn trùng trùng. Vì thơ đã cất cánh, thơ đã tung
bay như muôn vàn hoa đốm hư không kết tụ. Thơ muôn đời được kết
hương hoa dâng tặng. Thơ dâng tặng cho đời để làm hành trang,
dùng phương tiện nầy trong việc tìm hướng đi cho cuộc đời. Là
bức thông điệp truyền đi để báo hiệu cho biết một điều vô cùng
huyền nhiệm. Khuyến cáo cho đời đừng đối đãi thị phi để thong
dong cùng nhau bước đi về miền chân cảnh.
Chuyện kể:- Ngày xưa có hai thầy kết thành huynh đệ, cùng nhau
tu tập rất tinh cần. Người sư huynh có một cuộc sống ung dung tự
tại nhờ kinh kệ đã nhuần, tương chao đã thấm cho nếp sống thanh
cao có cơ phát triển cả thể xác lẫn tinh thần. Chốn tu hành cũng
được thanh tịnh trang nghiêm, nên thiên nhiên đã dung thông, tâm
tình đã thuần nhất một sắc màu giải thoát. Cuộc sống thong dong
tự tại của vị thầy nầy đã toát ra một vẻ đẹp tinh khiết, qua một
trí tuệ uyên thâm Phật pháp nhiệm mầu. Vị thầy ấy vốn đã có đầy
đủ những hành trạng cần thiết, để du hóa cứu độ chúng sinh,
không còn vướng mắc một mảy may nào hệ lụy. Vì chí nguyện tu
hành đã thành đạt (tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn) không
còn hoài nghi, nên nhìn thế sự chẳng mảy may vướng bận. Lòng
thanh thoát, ý chí kiên cường và cuộc đời vô ngã vô úy ấy đã thể
hiện trên bước hoằng hóa của Người mong muốn cho chúng sinh được
thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như biển.
Nhờ thâm nhập kinh tạng nên đã tạo cho Người một tâm hồn thơ rất
phong phú. Nhờ kinh điển được chuyển dịch qua các thể văn vần,
lối văn rất dễ dàng huân nhập vào lòng người. Như sương ngàn gió
núi tưới tẩm cho cỏ cây hoa lá, cho bông hoa tô thắm thêm hương
sắc.
Thỉnh thoảng thầy cũng có làm thơ, tuy ý thơ thì thanh thoát,
nhưng luật thơ còn ảnh hưởng vào thuật ngữ của kinh kệ công phu.
Nên đều bị các huynh đệ chê thơ chỉ in như những bài kệ, những
bài sám. Do đó mà thơ chưa thoát ra khỏi những khuôn môn. Để thơ
được bay bổng với trăng sao, thơ được thăng hoa với niềm rung
cảm của thế nhân một cách tự nhiên mà không cần đến lý luận.
Loại thơ nầy thì thú thực thầy chưa từng làm. Tuy nhiên nếu gặp
một khung cảnh nào thuận thuận duyên để cho thơ tung bay, thì
lúc ấy thơ sẽ hiển hiện như bóng trăng vằng vặc. Như giọt sương
long lanh đang phản chiếu. Sẽ soi đến muôn trùng, tìm thấy chân
nguyên.
Nhiều lần người sư đệ thách thức sư huynh làm được một bài thơ
cho nên thơ. Phải thơ mộng và quyến rũ như tình tự của thế nhân,
như giấc mộng hoang đường, để làm cho nhiều người mê đắm, phải
là thơ và rất thơ.
Một hôm nhân dịp ngày lễ hội nguyên tiêu, tại chùa có rất nhiều
thiện nam tín nữ đến viếng cảnh. Thật là cảnh dập dìu tài tử
giai nhân, đang chập chờn như hư ảnh khiến cho cảnh chùa thanh
vắng chợt lung linh một cảnh tượng lạ lùng, dưới bóng trăng như
ảnh hiện lên cảnh tiên giới.
Vị thầy liền ứng khẩu đọc:
Long lanh như ánh trăng vàng
Như Lai, Điều Ngự trên làn tóc em.
Thật tuyệt vời làm sao vì chợt dưng mà thấy được bóng Như Lai,
Điệu Ngự. Vì tinh thể của thơ đã được xuyên suốt qua một tâm hồn
mênh mông và cái cảnh huyền diệu kia được cơ may dung hoá, để
ngẩu nhiên mà ngự, vô tình mà hiện.
Long lanh
Như ánh
Trăng vàng
Thử đọc một cách chậm rãi, ngắt quảng và xuống hàng như trên, để
được nhìn lâu nhìn thấu suốt cái tính chất long lanh của hiện
tượng. Một hiện tượng thật có thật không trong sự chuyển hóa của
muôn trùng. Cho đầy đủ mọi yếu tố của bao la vũ trụ bát ngát hư
không, trong một cuộc hội ngộ đầy nỗi hân hoan. Cho cuộc tương
phùng được niêm hoa vi tiếu để lại cho đời những chuổi ngọc muôn
màu ảo diệu. Một cảnh giới huy hoàng tráng lệ, mà đời thường khó
bề thấu suốt, ít khi thấy được. Và đọc chậm rãi để như thấy bước
thiền hành của hành giả đang cảm nhận từng nguồn an lạc, đang
thấm nhuần trong từng bước tỉnh thức.
Nhưng tiếc thay vừa mới nghe qua người sư đệ nầy đã thẳng thừng
phản đối:
- Sao huynh lại làm thơ tình? diễn tả thế giới đời thường tục
lụy? Như Lai, Điệu Ngự là những bậc để cho người đời cung kính,
lễ bái sao lại ở trên làn tóc em ? Thiếu nghiêm túc, không chính
xác, thật không xứng đáng cho sư đệ tôn kính ! Tuy sở học của đệ
chưa bằng huynh, chưa thấu đạt được lẽ sắc không, lý vô thường,
nhưng khi đọc bài thơ trên của huynh chắc chắn nếu ai phân tích
bài thơ, cũng sẽ tìm ra cái tinh thần thiếu trung thực, đã xem
thường chư Phật của sư huynh.
Vị sư huynh ôn tồn trả lời:
- Trên làn tóc em ? nơi ấy là chốn giải thoát trên sự giải
thoát, vì như Đức Phật cũng có dạy: Con người có khả năng thành
Phật, tức là có khả năng giải thoát, và như vậy có phải là Như
Lai đã giải thoát trên sự giải thoát rồi chăng ? Như hoa sen, từ
trong bùn nhơ nước đọng, được vươn lên khỏi tầm ô uế ấy, nên
người đời đã dùng hoa sen để tượng trưng cho sự giải thoát. Đức
Phật và chư vị Bồ tát được ngồi trên hoa sen là biểu tượng cho
sự giải thoát.
Phàm nghi người ta dùng con mắt thường để thấy, thì cái thấy ấy
vẫn còn lẫn quẩn trong nhị nguyên đối đãi, và sự ấy cũng luân
chuyển trong vòng sinh tử luân hồi, không bao giờ thoát ra khỏi.
Muốn thoát thì phải học hỏi những phương pháp để có cái nhìn,
suy nghĩ, lời nói cũng như việc làm đều chân chánh. Như trong
Bát Chánh Đạo mà Đức Thế Tôn đã dạy, được như vậy mới có thể đạt
đến định và tuệ.
Và ở đời việc gì cũng có lý sự viên dung. Có trong có ngoài,
trong thì phải thanh tịnh tâm ý, để nhìn bên ngoài không bị hoàn
cảnh cuốn hút theo. Như chùa chiền ngày xưa thì phong cảnh u
nhã, thanh vắng nhờ vậy mà giữ được cho đạo tràng thanh tịnh.
Nên đã giúp cho thiền sinh nhiều điều kiện thuận lợi để tu hành.
Mặc dù thỉnh thoảng cũng có khách thập phương đến viếng chùa
ngoạn cảnh, cúng dường cũng là việc thường tình. Nhưng không vì
thế mà có thể cho rằng khách thập phương đến sẽ làm cho cảnh
chùa mất đi vẻ trang nghiêm, hay làm vơi bớt lòng thanh tịnh của
những vị tu hành đã đạt đạo.
Cảnh thanh tịnh của đạo tràng, lòng thanh lương của vị thầy
xuyên qua những tâm hồn thành tín của khách hành hương, với
những tấm lòng trong trắng, đang dâng lên Tam Bảo những lời
nguyện thiết tha, như những đài hoa cúng dường. Chợt sư huynh
thấy long lanh bóng Như Lai đang ngự trên tất cả và nở hào quang
chiếu rọi, như áng trăng vàng soi khắp thế gian. Sự hiện hữu nầy
rồi có thường hay không, hay cũng chỉ là hình ảnh của Thiền sư
Hương Hải đã diễn tả:
Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy…
Còn lưu lại hay chỉ thoáng qua? Như bóng trăng vàng, làn mây
xám, mọi thứ đều chuyển hoá khôn lường, bến dịch khôn tả.
Hay như cảm nhận của cố thi sĩ Vũ Hoàng Chương, khi trẩy hội
chùa Hương:
Suối biếc chuyển lời kinh vọng khắp
Bụi hồng theo ngọn gió tung hê
Bổng dưng tìm thấy con người thật
Của chính mình xưa trót lạc đề
Ngoại giới thanh tịnh giúp cho nội giới sáng suốt để chợt bừng
lên cái thấy, cái biết chân thật cũng là một duyên lành vậy.
Long lanh, cái ngữ nầy cũng vô cùng ảo hóa, sự biến thiên của
hiện tượng đối với con mắt trần tục làm sao mà thấy? Một giọt
sương đọng trên ngọn cỏ, lung linh qua ánh trăng vàng, ngời lên
muôn màu là vẻ đẹp tuyệt vời, và còn diễn tả được tính sắc
không, trong dòng kinh Bát nhã. Vì vẻ đẹp ấy sẽ không thường
tại, không trường tồn theo triết lý duyên khởi.
Nhưng qua ánh sáng lấp lánh còn đọng lại, vẫn thấy như những
chứng tích của sự hiện hữu bóng trăng cũng diễn tả được tính bất
nhị (không bất dị sắc) vì cái thấy biết của chúng ta là xuất
phát từ ngủ uẩn, mà ngủ uẩn thì lại giai không. Cho nên muôn sự
chỉ trùng trùng, khi cái nhận biết của con người trần tục vẫn
nằm trong sự đối đãi phân biệt của nhị tướng. Và ánh trăng vàng
muôn thuở vẫn còn đó hay không, hay cũng chỉ là biến thiên của
tạo hoá, có rồi không? Như ánh trăng vàng hay là không như…?
Và câu kế cũng hảy đọc tiếp một cách chậm rãi như trên:
Như Lai, Điệu Ngự…
Trên làn
Tóc em.
Trong sự cảm xúc của tâm bình đẳng, đã bừng lên trí tuệ siêu
việt để được thấy bóng Như Lai, cũng là điều bất khả tư nghị.
Thì đâu thể đem ra phân tích với lý trí tầm thường. Vì hiện
tượng chúng ta thấy cũng vẫn chỉ là hiện tượng của trần gian
muôn trùng. Dĩ nhiên mắt thường khó bề nhìn thấy. Quan niệm cao
thấp, nhơ sạch có lẽ không dính dấp chi với cái “tâm vô trụ xứ”.
Hay nói như Zarathustra: “Phải là đại hải thì mới có thể đổ
vào lòng mình một dòng sống nhơ bẩn mà mình không đến nỗi phải
chịu phận nhơ theo”. Thật thế, lòng bao dung, tính độ lượng
mới có thể dung chứa tất cả, chứ như vị kỷ hẹp hòi thì chứa đựng
được những gì?
Hiện tượng Như Lai đứng trên tòa sen, tượng trưng cho sự giải
thoát. Thì Như lai trên làn tóc em, lại không thể gọi sự giải
thoát trên sự giải thoát được hay sao? Không thể gọi đó là con
đường đáo bĩ ngạn để cho tín nữ thiết lập hạnh nguyện giải thoát
của đấng Như Lai?
Vì như Ngài Quán Tự Tại, khi soi thấy năm uẩn đều không có tự
tánh, Ngài liền thoát khỏi mọi tai nạn khổ ách. (Trích Bát Nhã
Tâm Kinh).
Hay lời dạy của Đức Thế Tôn bằng một bài kệ rằng:
Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhơn hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai
(Dùng sắc để thấy Phật, dùng âm thanh để cầu Phật , thì đó là tà
đạo, không bao giờ thấy được Như Lai).
Hay triết lý: Không cầu mà thấy, không mong mà đạt mới là cái
thấy viên dung, vô ngại.
Hai câu thơ:
Chữ bay từng cánh chim ngàn
Mỗi câu là mỗi Niết bàn hóa thân.
Chữ bay hay ý tưởng của thơ bay, hay từng cánh chim ngàn bay, để
nối thành từng câu, xâu thành từng chuổi ngọc cho người đời
trang sức? Và có thể trang sức được hay không, vì thơ đã hóa
thân thành mỗi Niết bàn?
Cũng như chuổi ngọc nầy được xâu bằng những cảnh giới vi diệu,
biến hiện thành hiện thực qua tuệ giác đạt thành. Làm quà tặng
cho nhân gian, làm thắng duyên cho người đời vượt qua, vượt qua
và thẳng tiến đến bến bờ diệu giác.
Long lanh như ánh trăng vàng
Như Lai, Điều Ngự trân làn tóc em
Cảnh tuyệt vời ấy mấy ai nhìn thấy, mấy ai xuyên suốt được tư
tưởng phi phàm của thiền sư, hay của thi nhân đã ngẫu nhiên phát
hiện. Mà có lẽ không phải là ngẫu nhiên đâu, theo thiển nghĩ. Vì
có đạt được một trí tuệ siêu nhiên mới thấy được cái tự nhiên,
có lên trên cao, mới thấy được toàn thể vũ trụ. Chứ cứ luôn ôm
hoài thành kiến ách ngồi đáy giếng, thì biết đến bao giờ… mới
đến được với cảnh giới “giải thoát thơ” ?!.
Trần Đan Hà |