Trái dâu tiên
Trong
làng tôi, chị Dậu là một thôn nữ hiền thục và giỏi dang, nhưng
lại kém may mắn. Chị sinh ra trong một gia đình nghèo, cha mẹ
lại mất sớm. May nhờ ông bà Hương Lãm mang về nuôi dưỡng, nên
chị cũng còn có một mái ấm gia đình. Chị đón nhận việc chăm
sóc của ông bà Hương Lãm như công ơn mẹ cha đã sinh thành
dưỡng dục. Chị cảm thấy đây là bóng mát của một cây cổ thụ,
che nắng che mưa cho cuộc đời của chị. Chị thường nghĩ, ở hiền
thì gặp lành, như người xưa đã nói, để an ủi! Ngược lại, ông
bà Hương lãm là một gia đình khá giả, có ruộng vườn hương hỏa
của ông cha để lại, nhưng không có con cái để thừa hưởng, nên
ông bà xem chị Dậu như con ruột, như một vật quý báu mà Trời
đã ban cho. Ngày trước, dưới thời Pháp thuộc, ông Hương Lãm có
giúp việc trong làng xã, nên dân làng gọi ông là ông Hương.
Mặc dầu ông là người có chức sắc, nhưng vốn xuất thân trong
hàng dân dã, lại có chút ít kiến thức về đạo làm người quân
tử. Chút vốn liếng ấy do ông bà truyền lại, nên ông đối xử với
dân làng rất bình đẳng, xem mọi người như anh em trong một gia
đinh. Vì thế mà không ai ngạc nhiên khi thấy ông bà Hương Lãm
đối đãi với chị Dậu tốt như vậy. Vã lại, thấy chị Dậu là một
thiếu nữ đảm đang, lại là người biết đến ân nghĩa, nên ông bà
cảm thấy sự hiện diện của chị Dậu trong gia đình mình như một
niềm vui, một nguồn an ủi cho ông bà, khi tuổi về già đỡ bớt
quạnh hiu !
Vào đầu thập niên năm mươi, quê tôi đang nằm trong giai đoạn
chiến tranh giữa Pháp-Việt chưa kết thúc. Mọi trai tráng trong
làng xã phải đi bộ đội Việt minh. Nếu không đi thì sẽ mang tội
phản quốc, không biết trốn tránh vào đâu, cha mẹ họ hàng cũng
chịu vạ lây. Như gạo trên sàng, chỉ có tấm cám nhỏ nhoi mới may
lọt xuống dưới. Vì thế mà tất cả thanh niên trong làng khi đến
tuổi trưởng thành, đều phải đi theo tiếng gọi non sông! Mặc dầu
tiếng gọi ấy không biết có tạo thành một lý tưởng nào hay không?
Cho dù có nghe theo lời tuyên truyền của cán bộ Việt minh, nào
là giặc Tây chúng nó ác lắm, chúng nó bắt dân ta phải chịu sưu
cao thuế nặng, nào là chúng nó hãm hiếp đàn bà, giết hại con
nít. Như một bài hát được phổ biến đến hang cùng ngõ hẻm: Nhớ
những ngày giặc lên Tây Bắc. Nó bòn từng dần khoai mớ thóc. Nó
bắt vợ chặt tay con. Anh căm hờn bền gan du kích ... Nghe
thì vậy, như một mối thù làm sùng sục tim gan. Thế nhưng thực tế
lại khác, vì trai tráng trong làng họ như kiến trong miệng chén,
nghĩa là họ cũng không biết có giặc Tây hay không, và giặc Tây
như thế nào? Mặt thằng Tây đen hay đỏ ra sao, họ cũng chưa từng
trông thấy! Nhưng rồi họ cũng phải lên đường, để lại sau lưng
những mộng ước chưa thành, những tình duyên dang dở và một tương
lai của mơ ước muôn đời!
Ra đi là biền biệt, nhưng trong tình cảnh ấy thì biết làm sao
hơn? Làm trai trong thời ly loạn, phải chấp nhận đã đành, nhưng
phận gái thuyền quyên cũng phải chịu cảnh bẽ bàng vì thế cuộc,
nghĩ cũng xót thương! Chị Dậu là một trong những thôn nữ hẩm hiu
ấy. Năm nay chị đã hai mươi lăm tuổi rồi mà vẫn phòng không gối
chiếc, đi về một thân!
Rồi một biến chuyển rất quan trọng đã đến, khoảng đầu năm 54 mọi
người hay tin đã ký kết hiệp định Rơ-neo-vơ, đến ngày 20 tháng 7
năm nầy, nước Việt Nam phải chia đôi, lấy vĩ tuyến 17 là con
sông Bến Hải làm giới tuyến. Sau hai năm sẽ đi đến tổng tuyển cử
để thống nhất hai miền Nam, Bắc. Tất cả những cán bộ và bộ đội
của Việt minh chuẩn bị để tập kết ra Bắc. Trước đó khoảng nửa
năm, họ đưa cán bộ và bộ đội người địa phương trở về làng xã,
rồi kêu gọi dân chúng đón nhận họ như những con em chiến sĩ. Mỗi
gia đình nuôi hai người bộ đội và có nhiệm vụ giới thiệu hôn
nhân để lập gia đình cho họ.
Gia đình ông Hương Lãm cũng nhận hai người con chiến sĩ, đó là
anh Dậu và anh Thìn. Hai anh cũng là người trong xã, đi bộ đội
hơn vài năm, nay trở về được người trong xã nhà chiếu cố, thương
yêu giúp đỡ như thế nầy thì còn gì vinh hạnh cho bằng. Dù chỉ
đợi chờ một thời gian rồi phải tập kết ra Bắc. Nhưng họ vẫn tin
tưởng vào những lời tuyên truyền của cán bộ, sau hai năm, thì
nước nhà sẽ thống nhất và có tổng tuyển cử. Lúc đó chúng ta sẽ
được trở về làng xã để làm ăn sinh sống. Quan niệm của họ cũng
chỉ đơn thuần như vậy, cho nên họ thấy rất an tâm trong thời
gian chờ đợi để đi tập kết. Quảng thời gian tuy biết là ngắn
ngủi, nhưng đã đem lại cho họ nhiều tin yêu và hy vọng. Hy vọng
sau hai năm, khi trở về thì đời sống của họ sẽ có nhiều thay đổi
và khả quan hơn. Ít nhất là không còn thấy cảnh bom đạn tàn phá
quê hương như trước, không thấy cảnh chết chốc, cha xa con mẹ
mất chồng. Rồi đây, xóm làng sẽ là nơi đùm bộc cho đời sống của
họ, gia đình sẽ đầm ấm có con có cháu đầy đàn, ruộng vườn hoang
vu sẽ mọc lên từng nhánh lúa để dưỡng nuôi sức sống. Để cùng dìu
nhau đi về tương lai bằng những mơ ước.
Những tháng ngày sống dưới mái ấm của gia đình ông Hương Lãm, là
chuỗi ngày thần tiên nhất của anh Dậu và anh Thìn. Ban ngày hai
anh đi làm giúp việc đồng áng cho gia đình ông Hương Lãm. Ban
đêm họ đến sinh hoạt với đơn vị dưới hình thức lửa trại, nghe
những chỉ thị của cấp trên, hay ca hát để giúp vui cho dân chúng
tại địa phương. Vì mỗi lần sinh hoạt của họ đều được mời gia
đình mẹ chiến sĩ đến tham dự. Không bao lâu thì cô con gái của
ông bà Hương Lãm phải lòng anh Dậu. Gia đình cũng có ý thuận
theo, vì thấy anh Dậu là một chàng trai hiền lành chất phác,
cũng là người cùng một xã với nhau. Hai gia đình đã biết nhau từ
lâu, thêm nữa ông bà Hương Lãm đã làm tròn bổn phận của một gia
đình “Bà Mẹ Chiến sĩ” đối với đất nước.
Tháng sau là đến ngày tổ chức đám cưới tập thể cho những “đứa
con chiến sĩ”, mà gia đình đỡ đầu cho họ có bổn phận phải lo
liệu. Ngày đám cưới cũng chỉ đơn giản, được tổ chức trong khuôn
viên sân trước của Uỷ ban Nhân dân xã. Có sự hiện diện của toàn
đơn vị bộ đội cùng gia đình những bà mẹ chiến sĩ. Dưới sự chủ
trì của ông chủ tịch xã cùng toàn thể nhân viên hành chánh. Mở
đầu là tất cả các cô dâu chú rễ tiến vào sân, trên tay các cô
dâu đều cầm một bó hoa như nhau. Tiếp đến là gia đình các bà mẹ
chiến sĩ, đơn vị bộ đội sắp hai hàng hai bên. Sau khi ông chủ
tịch xã đọc diễn văn chào mừng, và nói ý nghĩa của buổi lễ đám
cưới tập thể ngày hôm nay. Tiếp đến lời phát biểu cảm tưởng của
các vị đại diện phụ huynh, sau cùng là lời cảm ơn của đơn vị
trưởng bộ đội.
Tổ chức đám cưới xong, ông bà Hương Lãm lại phải chuẩn bị cất
cho vợ chồng anh chị Dậu một túp lều tranh nho nhỏ. Căn nhà được
dựng lên trên vườn nhà cũ của cha mẹ chị Dậu để lại. Với sự giúp
sức của anh em bộ đội trong đơn vị anh Dậu. Mảnh đất ấy, nơi
ngày xưa chị Dậu được sinh ra, cũng dưới túp lều tranh nho nhỏ
nhưng đã bị bom đạn của giặc thiêu rụi. Vườn tược bỏ hoang từ
khi chị về chung sống với ông bà Hương Lãm. Hôm nay đứng trước
cảnh cũ, lòng chị không sao tránh khỏi những bùi ngùi thương
cảm. Thương cho cha mẹ chị vì chiến tranh mà phải lìa đời;
thương cho thân phận chị với một ngày vui đầu đời, mà không có
sự hiện diện của người thân! Chạnh nghĩ đến một ngày gần đây,
chồng chị sẽ lên đường tập kết ra Bắc, chị lại phải cô đơn vò
võ! Nghĩ đến hiện tại như một tâm cảnh vừa hạnh phúc, vừa khổ
đau đang trộn lẫn, đang dằng xé khiến cho lòng chị quặn thắt,
muốn ứa nước mắt !
Sống chung với nhau chưa đầy ba tháng, mảnh vườn hoang phế ngày
xưa do bàn tay chị Dậu cùng với sự giúp sức của chồng mình, đã
vươn lên những bông cải, nụ cà, trên giàn đã leo những giây bầu
giây bí mơn mỡn. Nhưng chuyện phải đến đã đến, anh Dậu vừa nhận
được lệnh ngày mai sẽ lên đường tập kết ra Bắc! Đêm nay, hai vợ
chồng tâm sự đến khuya, anh Dậu cứ luôn mồm với một câu nói đã
củ: Anh đi, hai năm anh sẽ trở về, em ở nhà nhớ giữ gìn sức
khỏe. Chị cũng không quên làm cơm bới cơm đùm cho chồng. Ngày
chị đưa tiễn chồng đến nơi tập trung của đơn vị, để cùng lên
đường đi tập kết, lòng chị không buồn cũng không vui, vì đã biết
trước sau gì cũng phải đến. Nhưng đứng trước cảnh chia ly, mà
đang lúc tình chưa nồng, nghĩa chưa mặn thì làm sao lòng chị vui
cho được?
Nơi mảnh vườn đã cho những hoa trái, túp lều tranh đã ngã màu
mưa nắng, và không biết thời gian đang trôi nhanh hay dừng lại,
đến hôm nay chị Dậu cũng đã quen với nỗi cô đơn, như chị đang
quen với ruộng vườn nương rẫy! Những buổi chiều rảnh rỗi, chị
thường lên cồn Kè thọ để coi tụi thằng Mẹo chơi đồng roi; nghe
trâu bò vừa ăn cỏ, vừa khua mỏ lắc cắc cũng vui tai. Nhất là
những lúc thấy mấy đứa nhỏ, chụm đầu lại để khấn đồng, một đứa
ngồi xếp bàng tay cầm cây roi, một đứa khác thắp cây hương và
khấn: Đồng roi ơi hỡi đồng roi. Nghe tiếng thầy đòi phải chạy
cho mau... Khi đồng roi đã lên, cây roi múa may quay cuồng,
ai chạy không kịp thì bị quất vào mông đít. Chị Dậu rất thương
hai anh em thằng Mẹo, vì thấy chúng nó nhà nghèo, mà lại hiền
lành tử tế.
Một hôm, chị dẫn hai anh em thằng Mẹo lên xã trên để xem mấy ông
thầy cúng, đang dựng đàn tràng để chiêu hồn nhập mộ cho con trai
ông Cả Hớn. Nguyên trước đây, ông có một đứa con trai, đến tuổi
phải đi bộ đội không may chết trận, hai ông bà ăn không ngon,
ngủ không yên, đêm đêm cứ thấy con mình về kêu than đói khát. Vã
lại gia đình ông cũng còn có cái ăn cái để, sau khi nghe thầy
coi bói nói trúng những điều ông nằm mộng, nên ông quyết định
mời cho được mấy ông thầy cúng danh tiếng ở trên huyện về chiêu
hồn cho con. Hai anh em thằng Mẹo rất say mê theo dõi, lời xướng
khi trầm khi bổng của mấy ông thầy cúng, chốc chốc lại hoa chân
hoa tay, hoà lẫn tiếng kèn tọ tè ti toé nghe thật bi ai não
nùng.
Khi về nhà, thằng Mẹo sai em của nó hái lá chuối quấn lại làm
kèn để thổi. Còn nó thì học mấy ông thầy cúng trên huyện, tập
lên giọng, xuống giọng xướng cho chị Dậu nghe. Thấy thằng Mẹo
mới xem có một lần, mà nó có cái giọng cúng tế y như thiệt, chị
Dậu cũng cảm thấy vui lây với chúng nó.
Thấm thoát thế mà đã hơn một năm, từ khi anh Dậu từ giả vợ để đi
tập kết. Chị ở nhà không nghe tin tức gì của chồng cả, thỉnh
thoảng chị nằm mơ thấy anh Dậu về thăm, tay cầm một chùm dâu
tiên trao cho chị và nói: Em ăn đi, anh cũng nhờ dâu nầy để
sống! Khi tỉnh dậy, chị cho đó là chiêm bao mộng mị mà thôi, nên
chị cũng chẳng quan tâm mấy. Thêm vào đó chị cũng biết là vùng
rừng núi Tân Lâm cách Cam Lộ khoảng mươi cây số, có rất nhiều
loại dâu nầy, loại dâu mà trái nhỏ, đeo từng chùm đưa ngón tay
búng một cái thì vỏ văng ra, chỉ còn lại tựa ăn rất ngọt. Ngoài
ra vùng nầy cũng có nhiều cây ăn trái khác, như bưởi bồng, cam
khế, mít chuối. Nghe đâu ngày xưa có dân chúng sinh sống ở vùng
nầy, nhưng vì chiến tranh loạn lạc thất tán tứ phương, nên để
lại vườn tược với những cây ăn trái. Vùng nầy đi ra hướng Bắc là
đầu nguồn của con sông Bến Hải, đầu sông chỉ là một con suối
cạn, nên qua lại rất dễ dàng, cũng là con đường chính cho bộ đội
Việt minh tập kết ra Bắc.
Rồi một hôm, đêm thật tối và yên ắng, vừa chập chờn giấc ngủ,
chị Dậu chợt nghe tiếng ai gọi đến tên mình. Tiếng gọi nhỏ như
sợ ai nghe đến. Chị ngồi dậy và hỏi lại một lần nữa. Chợt nghe
tiếng trả lời yếu ớt: Tôi là Thìn đây, chị mở cửa cho tôi vào.
Chị hết đổi mừng rỡ khi biết Thìn là bạn cùng chung sống với
chồng mình, nên chị vội vàng ra mở cửa. Cánh cửa vừa mở ra, chị
Dậu thấy anh Thìn đang ngã quỵ trước thềm nhà, chị vội vàng dìu
anh dậy. Khi chạm tay vào người đàn bà, anh Thin cảm thấy như có
một năng lực chuyền qua thân thể mình, cảm giác rất êm đềm làm
tăng thêm sức lực sau những cố gắng. Trong túp lều tranh ấm
cúng, dưới ngọn đèn dầu phụng lung linh qua hình ảnh của chị
Dậu, bất chợt anh Thìn như ngây người trước khung cảnh đang cám
dỗ thú tính bị đè nén lâu ngày. Bây giờ đang trổi dậy như một
trận cuồng phong, cuốn trôi tất cả màn sương mù thâm u đã nhốt
kín nỗi khao khát của con người. Muốn đốt cháy tất cả để được
cảm nhận những gì đã tạo nên sự thèm muốn của giống hữu tình.
Thìn đang lạc vào một thực tại như một giấc mơ hoang đường, mà
trong suốt cuộc đời của chàng chưa bao giờ gặp có thể tưởng
tượng đến.
Thoáng chốc, Thìn có ý nghĩ muốn thoát ly khỏi sự ràng buộc của
tổ chức cộng sản đưa người vào Nam để hoạt động. Vì từ ngày tập
kết đến nay, Thìn đã chịu nhiều gian khổ, đêm ngày chui rúc
trong rừng thiêng nước độc, nhưng vẫn chưa thấy có một chút gì
an ủi cho cuộc đời. Nên hôm nay đây, Thìn được sống trong khung
cảnh ấm cúng nầy, làm sao không có những ước mơ thầm kín. Nhưng
bằng cách nào để thực hiện niềm ước mơ ấy? Vì mặc dù đang làm
một cán bộ, nhưng Thìn vẫn phải chịu sự kiểm soát của các đồng
chí của mình trong đơn vị. Thìn nhớ lại trước đây, những đồng
chí của Thìn chỉ vô ý nói những câu không đúng lập trường, hay
lơ là công tác đã bị thi hành kỷ luật một cách rất nghiêm khắc.
Có người phải làm bản tự kiểm, có người bị tra tấn đến phát
điên. Chưa kể đến những người trầm trọng bị thủ tiêu, hay đày
ải. Nghĩ lại Thìn cảm thấy rùng mình với những cảnh đã trông
thấy, mà không dám nghĩ đến việc thoát ly! Đang lúc nguồn suy tư
tuôn trào như không muốn dứt, bất giác cơn đói trở nên cồn cào
làm Thìn như choáng váng. Hơn một tuần nay, anh chỉ ăn lá cây và
uống nước suối trên đường len lỏi trở lại để làm một cán bộ nằm
vùng. Công việc của Thìn là tìm đến những gia đình địa phương,
móc nối với họ vận động sự ủng hộ lương thực cung cấp cho đồng
đội, như chỉ thị của cấp trên đã giao phó.
Vừa ngồi xuống thì anh Thìn chợt hỏi: Chị có gì ăn không, tôi
đói quá! Chị trả lời chỉ còn mấy củ khoai luộc, rồi chị bưng rá
khoai xuống trao cho Thìn. Chị ngồi nhìn Thìn ăn rất ngon lành.
Ăn xong Thìn ngồi im lặng, nhìn chị Dậu như muốn biết đến những
câu hỏi nào để anh tìm cách trả lời. Vì trả lời những câu hỏi
của chị Dậu bây giờ là một sứ mạng mà bắt buộc Thìn phải... Dưới
ánh sáng chập chờn của cây đèn dầu phụng, ảnh hiện lung linh như
thực như mộng, chị Dậu cũng ngồi im lặng, chờ đợi ...
Đêm đã khuya, những làn gió nhẹ thổi qua khua động cành lá khô
xào xạc, hoà lẫn với tiếng côn trùng rả rít. Hơi nóng hanh hao
của buổi đêm hè như đang đốt cháy sự rạo rực của da thịt, trên
trán lấm tấm mồ hôi. Nhìn anh Thìn như còn bối rối một điều gì,
nên chưa dám tâm sự cùng chị! Chị Dậu đành phải lên tiếng hỏi:
Anh Thìn trở về làng từ bao giờ? Sao anh Dậu không về theo? Anh
ấy có khoẻ không? Thìn vẫn biết trước sau gì rồi cũng phải trình
bày cho chị Dậu rõ, nhưng hiện tại thì phải dấu kín một điều, vì
sứ mạng của anh cần phải hoàn tất. Thìn lựa lời và nhỏ nhẹ: Tôi
được tổ chức điều về công tác tại xã nhà, còn anh Dậu lại phải
đi công tác một tỉnh khác. Thời gian ba tháng sẽ hoán đổi, hy
vọng mai đây anh Dậu sẽ được về lại quê ta, anh ấy vẫn khoẻ!
Công tác của chúng tôi là vận động quần chúng giữ vững lập
trường, hưởng ứng phong trào chờ ngày tổng tuyển cử, để đất nước
chúng ta được sớm đến ngày thống nhất! Tôi mới chân ướt chân ráo
về đây công tác, nên chưa có cơ sở. Vậy xin nhờ chị giúp cho,
sau nầy cách mạng sẽ ghi nhớ đến công của chị.
Vừa nghe anh Thìn trình bày xong, chị Dậu mới cảm thấy yên lòng!
Chị cũng nghĩ vài tháng nữa anh Dậu sẽ trở về công tác tại xã
mình. Lúc ấy chính tay của chị sẽ săn sóc cho chồng mình, để bù
lại những ngày anh Dậu vất vã, thiếu thốn và bỏ những ngày
thương nhớ, chờ mong ...
Thời gian thấm thoát trôi qua, thế mà đã hơn ba tháng, chị Dậu
vẫn tiếp tế cho Thìn đều đặn, khi thì năm ba lon gạo, khi thì
năm bảy củ khoai. Và rồi cũng lại một đêm tối trời, anh Thìn đến
tìm chị Dậu để từ giả. Anh nói sẽ chuyển đến công tác tại một
địa phương khác. Anh cũng không quên cám ơn chị đã giúp đỡ cho
anh trong thời gian công tác tại đây. Việc nầy anh sẽ trình lên
cấp trên để ghi công chị.
Thìn muốn dấu chị Dậu một chuyện, mà đáng lẽ anh phải nói với
chị từ lúc anh mới về. Vì anh ta có hậu ý sau nầy nếu có dịp trở
về đây công tác, anh sẽ còn cơ hội để nhờ vã đến chị. Nhưng anh
thấy chị Dậu là người có tình nghĩa, lại là người thật thà chất
phác nên anh không nở! Vã lại trước sau gì rồi chị Dậu cũng
biết, nên anh ôn tồn nói: Chị Dậu à, tôi muốn nói với chị một
chuyện, mà đáng lẽ đã nói từ lâu, nhưng tôi ngại chị sẽ buồn nên
tôi lại dấu đi. Bây giờ tôi sắp từ giã chị, nên cũng cho chị
biết luôn thể. Việc là, kể từ khi anh em chúng tôi lên đường đi
tập kết, khi đến vùng rừng núi Khe Sanh, thì anh Dậu bị bệnh sốt
rét ngã nước. Anh em chúng tôi đã tận lực săn sóc, nhưng thuốc
men thiếu thốn, ăn uống không đầy đủ nên anh Dậu đã qua đời sau
đó! Thi thể của anh chúng tôi đã chôn cất dưới gốc một cây dâu
tiên, hy vọng sau nầy nếu có cơ hội chúng tôi sẽ bốc mộ của anh
ấy về an táng tại quê. Chị Dậu chết điếng cả người, hai tay chị
bủn rủn, miệng há hốc, bất giác chị than lên một tiếng Trời! Rồi
chị ngất xỉu, anh Thìn vội vã dìu chị nằm lên chiếc chõng tre
cạnh đó…
***
Mấy ngày sau, chị cho hai anh em thằng Mẹo biết và ngõ ý muốn
nhờ chúng nó làm lễ chiêu hồn cho anh Dậu. Chị mua sắm các phẩm
vật như hương đèn, vàng bạc giã, gạo cốm, nếp đậu ... Chị cũng
không quên may cho thằng Mẹo một chiếc áo thầy cúng. Chị nhờ
thầy coi ngày tốt để tổ chức. Công việc xong xuôi, chị cho mời
ông bà Hương Lãm cùng với một vài người quen thân trong làng đến
chứng kiến. Bà con xóm giềng rất đổi ngạc nhiên, khi trông thấy
thằng Mẹo mặc áo thầy cúng, quỳ trước bàn thờ rất thành khẩn. Nó
không phải là thầy cúng chính hiệu, nên biết lấy gì làm bài bản
cho việc cúng kiến đây? Suy đi nghĩ lại nó mới nẩy ra một sáng
kiến mới, là lấy lời của mấy bài đồng dao mà nó thường hát, để
khấn nguyện!
Nó thắp hương và cung kính quỳ trước bàn thờ anh Dậu và đọc
xướng: Hê ha hê hưởng. Cà cưỡng bay cao. Chốc mào bay thấp.
Con cu đang ấp. Trở mỏ về trời. Nghe tiếng thầy mời. Về ăn xôi
nếp... Giọng xướng của thằng Mẹo hoà theo tiếng kèn o, oe
quấn bằng lá chuối của em nó, nghe ra cũng ai oán làm sao! Mọi
người nghe ai cũng bùi ngùi, rơm rớm nước mắt. Chị Dậu thì mặc
áo tang quỳ phía sau, khuôn mặt ủ rủ, sụt sùi trông cũng rất
thương cảm!
Nghỉ một lát, thằng Mẹo lại xướng tiếp: Chắp bẽo làm quan.
Chàng làng làm xạ. Cu chim làm lính. Qụa qụa làm xâu. Tất cả về
chầu. Vong hồn dượng Dậu...
Mọi người đứng phía sau trầm trồ khen ngợi thằng Mẹo không tiếc
lời! Một người trong đám đông nói lớn: Thiệt có ai ngờ thằng Mẹo
làng mình nó trở thành thầy cúng khi mô không hay, không biết nó
học ai mà cúng kiến nghe ra cũng bài bản lắm chớ! Thiệt là phước
đức ba đời, may nhờ có nó mà vong hồn trượng Dậu mới được siêu
thoát ...
Trần Đan Hà |