Giọt lệ màu
hồng
Kính dâng cha mẹ nhân mùa Vu Lan
Năm
gần tròn mười sáu tuổi, tôi phải lên tỉnh học. Tá túc trong
nhà người bạn của mẹ tôi, thỉnh thoảng cuối tuần mới về thăm
nhà. Từ nhà tôi lên tỉnh chỉ cách mười mấy cây số, nhưng xe đò
không có nhiều, chỉ chạy những chuyến phục vụ cho khách buôn
bán từ dưới quê lên tỉnh. Việc lưu thông không tiện lợi mấy,
nên tôi cũng ít về thăm
nhà.
Vã lại, mẹ tôi thường dặn nếu nhà mình không có việc gì cần,
thì con cứ ở lại trên ấy mà học, chứ đừng nên về nhiều mà tốn
kém, cũng như mất thì giờ vô ích. Nghe vậy tôi cũng yên tâm,
rồi đâm ra làm biếng về nhà. Lâu lâu hơi nhơ nhớ, mới đón xe
đò về thăm mà thôi. Ngoài giờ học, tôi
hay
giúp dì
Thảo
những việc lặt vặt trong nhà, mặc dù dì không cho tôi làm,
nhưng tôi cũng cố nài nỉ dì để làm vui lòng mẹ tôi. Hoàn cảnh
gia đình dì Thảo,
tôi chỉ nghe mẹ tôi kể lại đơn sơ.
Nghe
đâu dì chỉ có một đứa con trai, đến tuổi phải đi lính nhưng
không may bị chết trận, trước khi dượng Thảo
lâm trọng bệnh và qua đời. Từ đó dì sống cô quạnh trong một
căn nhà nhỏ, có vườn cây ăn trái và vài thửa ruộng trước nhà.
Vì
nhà nằm ngoại ô thị trấn, nên có vẻ hiu quạnh.
Những buổi chiều, nhìn mông ra ngoài kia cánh đồng thấy những
làn khói trắng tỏa lên từ mấy nóc nhà tranh. Từng sợi khói
vương vấn như còn lưu luyến hơi ấm của bếp chiều, chầm chậm
lan tỏa gợi lên một thoáng buồn man mác. Những lúc ấy tôi cảm
thấy tâm hồn cô đơn của dì Thảo như cố gói ghém, vo tròn lại
đừng để cho thoát ra ngoài vòng cương tỏa; qua sự chịu đựng và
kiên nhẫn chờ đợi một tương lai sắp cạn niềm mong ước. Mà hoài
niệm thì vẫn đầy ắp trong tâm như cố níu kéo, cất giữ một kỷ
vật với hy vọng sẽ chở che, đùm bọc cho tháng ngày không bị
rơi rụng xuống vực sâu trầm cảm.
Thỉnh thoảng thấy dì hơi đăm chiêu, chắc là dì có nhiều tâm sự,
nhưng dì không muốn kể cho tôi nghe những kỷ niệm nào trong đời
mình. Cũng có thể dì sợ làm vẫn đục một tâm hồn non trẻ, khiến
tôi phải cuốn trôi theo dì, và như vậy có thể làm cho
dì không được vui. Những lúc ấy, tôi hay đến hỏi thăm dì những
chuyện không đâu, để may ra giúp dì quên đi những giây phút sầu
muộn.
Giúp dì quên đi một dỉ vãng mà tôi nghĩ nó đã đeo đuổi theo dì
như hình với bóng. Một dỉ vãng mà dì chưa lần kể cho tôi nghe,
nhưng qua những sự mất mát của dì tôi đoán được là nếu nhắc lại
sẽ làm cho dì thêm nát lòng.
Tuy vậy, dì Thảo
cũng không phải là mẫu người
quá
bi lụy. Thỉnh thoảng, dì cũng kể cho tôi nghe vài mẩu chuyện
thời con gái của dì cũng sôi nổi, cũng lâm ly với nhiều tình
tiết.
Tuy
không lắm thơ mộng, nhưng cũng có những kỷ niệm của dì làm tôi
bâng khuâng. Trong đời, ai lại không có một thời làm con gái ?
Sau câu chuyện, dì thường khen tôi
đẹp,
hiền
ngoan và học giỏi, tôi sung sướng đến phát ngượng. Nhiều
lúc
dì hay cười chế nhạo tôi,
những lúc ấy
tôi
thấy dì như trẻ lại
và thật duyên dáng.
Dì cũng còn kể cho tôi nghe:
Mẹ
tôi và dì khi xưa là bạn học cùng trường, hai người thân nhau
lắm.
Nhưng đến ngày
mẹ tôi đi lấy chồng thì phải về quê, lâu lâu mới gặp nhau trong
những lần mẹ tôi lên tỉnh. Thế hệ của dì và mẹ tôi không có
nhiều hạnh phúc, vì sinh ra trong thời loạn ly, giặc giã khắp
nơi phải dắt díu nhau chạy loạn. Nhiều khi không biết chạy đi
đâu cho an toàn, dừng lại đâu cho yên ổn. Nhà cửa ruộng vườn thì
hoang tàn. Con người có cảm tưởng như đang sống bơ vơ nơi đất
lạ, không có một chỗ để về, không có một nơi để nương náu.
Nhưng nghĩ lại, mẹ tôi cũng còn may mắn hơn dì nhiều. Gia đình
chúng tôi tuy nghèo, nhưng cũng có con có cháu. Còn dì thì mới
nửa tuổi đời mà phải sống cảnh cô đơn chiếc bóng! Gần dì miết,
rồi tôi cũng lây cái thói quen của dì, một người cứ luôn sống
giữa hai trạng thái nửa vui nửa buồn! Khi vui thì dì cười nói
huyên thuyên, hay khen tôi duyên dáng, khen tôi giỏi dang, khen
tôi đủ thứ...
Những lúc ấy, dì thường ngồi đăm chiêu nhìn ra cánh đồng bát
ngát, nơi ấy hình như đang ẩn hiện hình bóng của người thân yêu
đã một thời đem đến cho dì nguồn hạnh phúc.
Có lần trong câu chuyện, dì ngồi thở ra như tiếc nuối một điều
gì, rồi dì nói bâng quơ nhưng có vẻ ngậm ngùi: Giá như con dì
còn sống... Rồi nước mắt của dì dàn dụa,
khuôn mặt của dì dàu dàu khiến tôi cũng chạnh niềm trắc ẩn.
Tôi không biết lấy lời nào để an ủi dì, vì tôi chưa đủ lớn để
cảm thông tâm sự của dì.
Vã
lại tôi cũng chưa được biết gì nhiều về thảm trạng đã đưa đến
những bất hạnh cho chồng con của dì... Những lúc ấy, dì thường
đưa mắt nhìn xa xôi, như đang sống lại một quãng đời nào đó của
dì. Hình như con người, ai cũng muốn chắt chiu một chút kỷ niệm
trong đời. Nhất là những chuổi ngày của tuổi
thơ. Để làm hành trang cho mai sau, để làm hương hoa cho cuộc
đời. Vì đôi lúc cảm thấy tâm hồn quá trống vắng, như người mẹ có
con thơ chẳng hạn, những lúc phải thức theo con nửa khuya về
sáng, không sao tìm lại giấc ngủ được, thì cũng cần nương tựa
với một cái gì, để mong cho thời gian qua mau, mong sự trống
vắng được lấp đầy. Tuy chỉ là ảo tưởng, nhưng mấy ai đủ can đảm
để vứt bỏ những ảo tưởng, khi lòng họ quá cô đơn?
Hình như những lúc ấy, dì đang quay về nương náu với kỷ niệm !
Mùa hè năm ấy, tôi được
nghỉ học và
chuẩn bị về quê. Còn gì sung sướng đối với tuổi học trò trong
những ngày nghỉ hè! Được về quê vui chơi thỏa thích, sống với
tuổi vô tư trọn vẹn, không bận tâm đến việc sách vở, trường lớp.
Và cũng còn gì lưu luyến bằng những buổi chia tay nầy, tuy không
phải là biệt ly, nhưng cũng có nhiều ngậm ngùi và thương nhớ
bâng khuâng. Nhớ bạn, nhớ thầy, nhớ những giờ phút bên nhau,
dầu
không phải là người thân thuộc, nhưng có cảm tưởng còn hơn thế
nữa! Những trạng thái tuy trái ngược nhau, song hình như đang bù
đắp cho kỷ niệm của tuổi học trò. Riêng tôi, thì lại còn một
chút buồn riêng. Tôi cứ nghĩ là khi vắng tôi, chắc dì Thảo
sẽ
cô đơn thêm và
quạnh hiu
cũng như dì sẽ
buồn nhiều lắm! Khi không, tôi nhảy vào khuấy động cuộc sống của
dì, làm thôi xao những trầm lắng đã quen,
những suy tư còn đọng để
rồi bây giờ dì phải trở về với nỗi buồn đã cũ! Vì thời gian sống
với dì, tôi thấy dì rất thương mến tôi và quyến luyến không ít!
Sự hiện diện của tôi trong nhà dì Thảo,
đôi khi cũng đem đến cho dì một chút an ủi nào đó, theo tôi
nghĩ. Ngược lại, tôi cũng học được ở dì một vài đức hạnh của
người đàn bà: nhẫn nhục, chịu đựng, an phận
và tìm quên
...!
Về đến nhà, thì nghe chị tôi cho biết mẹ bị bệnh sốt thương hàn,
bệnh xá ở quận không đủ thuốc men, nên phải đưa mẹ lên bệnh viện
tỉnh để điều trị. Khi được
biết
bệnh tình của mẹ không đến nỗi gì, tôi cũng hơi yên tâm. Lúc ở
trên tỉnh, tôi không được biết là mẹ tôi đi nằm bệnh viện, vì hệ
thống liên lạc thời đó cũng còn khó khăn ! Tôi chuẩn bị ngày hôm
sau sẽ lên bệnh viện để thăm mẹ, tiện thể tôi ghé báo cho dì Thảo
biết tin luôn thể. Thật ra thì cũng chẳng có chuẩn bị gì, chỉ
trước khi đi tôi ra sau vườn hái dăm
quả
cam, vài trái quýt để làm quà cho mẹ tôi mà thôi, vì ở quê đâu
có gì hơn ngoài cây trái vườn nhà! Nhưng tôi nghĩ rằng đây là
món quà sẽ làm mẹ tôi cảm động !
Tôi được một cô y tá dẫn đến phòng mẹ, thấy tôi đến mẹ tôi mừng
đến chảy nước mắt, rồi hỏi tôi huyên thuyên, nào chuyện học
hành, nào sức khỏe của dì Thảo...
Thấy mẹ tôi hơi gầy và xanh xao, nhưng bà lại an ủi tôi rằng mẹ
đã đỡ nhiều rồi, bác sĩ nói hy vọng tuần sau sẽ xuất viện được
rồi. Mẹ tôi dẫn tôi ra vườn sau của bệnh viện, nơi đây thật yên
tỉnh, có sân cỏ, có ghế đá, có
lối đi
che mát bóng cây để cho bệnh nhân đi dạo ...
Ngồi xuống một băng ghế đá, tôi moi trong túi xách lấy mấy trái
cam bốc vỏ đưa cho mẹ tôi. Mẹ tôi đón lấy rồi dịu dàng, con ăn
với mẹ cho vui. Vừa ăn cam, mẹ tôi kể cho tôi nghe một câu
chuyện, mà cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rất rõ ràng từng chi
tiết nhỏ. Có lẽ câu chuyện quá thương tâm, đến nỗi khi nghe xong
tôi rất xúc động. Câu chuyện ấy, theo mẹ tôi thì nếu xẩy ra
trong thời điểm nầy thì không có gì để kể lại cả, nhưng lại xẩy
ra cách đây mười mấy năm rồi, thời bấy giờ phần thì quê nhà loạn
lạc, phần thì
gia đình
nghèo khó, thiếu thốn đủ thứ, túng quẫn trăm bề ...
Lời kể chuyện của mẹ tôi như mơ hồ, như thổn thức chợt dừng lại
giữa câu chuyện, như không muốn đi đến đoạn
kết... Ngừng một lát, mẹ tôi kể tiếp: Cách đây mười mấy năm rồi,
cũng vào một mùa hè như năm nay, không dưng cha con bị bệnh. Mới
đầu thì bị tháo dạ một đôi lần, rồi ít ngày sau đó chuyển sang
kiết lỵ, mà thời đó đâu có thuốc men gì, chỉ lấy lá cây, nửa thì
uống, nửa thì xông hơi ... Thế mà có nhiều người uống lá cây
cũng lành bệnh, nhưng cha con thì ngược lại không thuyên giảm
chút nào. Cứ kéo dài từ ngày nầy qua ngày khác, ban đầu mẹ lấy
gạo nấu cháo thật nhuyển, bỏ vào chút muối thì cha con ăn được
vài chén.
Đến vài tuần sau cha con không còn muốn ăn nữa, chỉ gạn nước
cháo để uống cầm hơi mà thôi. Bệnh tình kéo dài đến cả tháng
trời, cha con gầy đến nỗi chỉ còn da bộc xương, chân tay lạnh
ngắt, không buồn cựa quậy,
hai mắt lờ đờ như mất hết thần lực.
Người yếu hẵn đi, thỉnh thoảng cha con đòi uống nước, nhưng chỉ
uống vài ngụm nhỏ rồi đôi mắt
nhắm lại
và lạc vào giấc ngủ ... Những lúc đó thì mẹ chỉ biết cầu Trời
khẩn Phật cho cha con mau qua trọng bệnh, chứ mẹ cũng chẳng biết
làm sao hơn thế nữa. Vì mẹ đã chạy chữa đủ hết cả rồi, ai vẽ cho
uống gì mẹ cũng kiếm cho cha con uống cả, nhưng chẳng những
thuyên giảm mà càng ngày lại càng trầm trọng thêm hơn !
Thế rồi vào một buổi tối nọ, trong khi cha con thức dậy sau một
giấc ngủ chiều, cha con kêu đói bụng.
Mẹ
hâm cháo lại cho cha con, nhưng ông chỉ ăn được vài muổng rồi
bảo đắng miệng quá, nuốt không vô ! Mẹ hỏi cha con muốn ăn gì,
để ngày mai mẹ đi chợ mua về cho cha con, ông chỉ lắc đầu
!
Đôi mắt riu ríu, rồi lại lạc tiếp vào giấc ngủ miên man. Thấy
khuôn mặt của cha con hốc hác, xanh xám như một cái xác không
hồn mà lòng mẹ nghe quặn thắt.
Chợt cha con
lại thức giấc và
như nhớ ra một điều gì, nên
cố
gắng
thì thào
với mẹ nếu có đi chợ thì mua cho cha con một chiếc bánh ú, loại
bánh gói bằng nếp với nhưng đậu
xanh
như bánh chưng, nhưng nhỏ hơn và xếp thành ba góc. Mẹ thật phân
vân không biết cha con đã gần cả tháng không ăn uống gì cả,
người thì yếu xuống thấy rõ, không biết ăn bánh nếp vào có sao
không?
Băn khoăn, thắc mắc nhưng
nghĩ lại thấy
cha con thèm một chiếc bánh, loại bánh mà lúc còn trẻ, cha con
thường thích ăn lắm. Cứ mỗi dịp tết, dù trong nhà có thiếu thốn
đến
đâu,
nhưng mẹ vẫn để dành cả thúng nếp, đậu gói bánh chưng,
bánh tét
cho cha con để dành ăn cả tháng, ăn mấy cũng không ngán cả. Bây
giờ, cha con lại nhắc nhở lại một thứ mà mình rất thích,
chẳng
lẽ mẹ làm ngơ sao đành ? Vã lại, mẹ cũng nghĩ trong lúc đang còn
bệnh, mà có triệu chứng thèm ăn một cái gì, thì có lẽ bệnh đã có
phần thuyên giảm. Nghĩ vậy, nên sáng hôm sau mẹ ra chợ mua cho
cha con một cặp bánh, nhưng chỉ ngắt cho cha con từng muỗng nhỏ
để ăn thử thôi. Thấy cha con ăn được chút ít, mẹ cũng cảm thấy
mừng, nhưng vẫn còn lo là bụng đói lâu ngày, không biết ăn bánh
nếp vào có sao không? Mẹ cứ nghĩ quẫn, nếu cha con có mệnh hệ gì
thì mẹ không biết làm sao đây ?!
Nhưng Trời Phật cũng thương đứa khó ! Sau khi ăn xong chiếc
bánh,
uống một ly nước
cha con ngủ một giấc cho đến chiều, khi thức dậy cha con la khát
nước ... Rồi đến ngày hôm sau, hôm sau nữa cha con ăn được nửa
chén, rồi đến một chén cháo và dần dần cha con bình phục ...
Mẹ tôi ngừng kể. Tôi thấy đôi mắt của mẹ tôi như nở một nụ cười,
làm rưng rưng hai giọt lệ đang lăn tròn xuống má. Miệng thì thầm
như lặp lại câu nói ban nảy: Nếu cha con có mệnh hệ nào, thì
chắc là mẹ ...
Tôi kính cẩn cúi xuống, nửa như muốn dấu bớt cảm xúc của mình,
nửa như muốn dành cho mẹ tôi tận hưởng giây phút hạnh phúc thật
trọn vẹn, thật tràn đầy. Sự may mắn đã đến với
cha
mẹ tôi, trong giây phút ngỡ như tuyệt vọng! Lòng
băn khoăn,
niềm trắc ẩn của mẹ tôi, như đang chứa đựng một nguồn
yêu thương rộng lớn, dạt dào. Tình thương của mẹ đã dành cho cha
tôi từ những ngày tôi mới mở mắt chào đời! Tuy không thấy, nhưng
qua câu chuyện tôi hình dung
tình thương ấy thật
tràn đầy và mênh mông như biển trời.
Chợt tôi ngước nhìn lên trên tàng lá sum suê của hàng phượng.
Những giọt nắng yếu ớt như còn lưu luyến hình bóng của ngày.
Chiều xuống thật nhẹ, thật êm như đang du hồn về một cỏi bình an
nào. Trên cao, tàng lá xanh mướt điểm một vài bông hoa màu đỏ
hồng, đang lung linh trước gió,
chao lượn như từng gợn sống nhấp nhô ẩn hiện, nhưng êm đềm như
khuôn mặt của mẹ tôi đang rưng rưng hai giọt lệ mừng
!.
Trần
Đan Hà
|