Hoa sen nơi cõi lạ
Hoa
sen nơi cõi lạ. Vẫn sống đời thong dong. Vì cội nguồn nhân
quả. Ẩn một hồn phương đông.
Lá tròn như cánh lộng. Búp nở nụ cười hoa. Hạt sương
mai rất mỏng. Rơi rụng đọng trên tòa. Bóng như lai thị hiện.
Qua tâm cảnh nên thơ. Nở nụ cười thánh thiện. Đẹp như
lòng bé thơ. Mặt hồ im ngái ngủ. Làn gió lay màn
xanh. Làm lung linh bóng rủ. Chút nắng vàng long lanh.
Hoa sen nơi cõi lạ. Vẫn sống đời như nhiên. Búp hồng
bên cánh lá. Đứng mĩm nụ cười hiền. Giọt nước trong như ngọc.
Gió rung lòng ngất ngây. Khi mặt trời mới mọc. Hoa lồng
bóng hiện bày. Lá xanh bông trắng hồng. Búp xinh như nhật
nguyệt. Gối nghiêng đầu hư không. Mĩm nụ cười diễm tuyệt…
Nhớ lại những mùa hè năm xưa mỗi lần về làng, tôi hay ra ngồi
bên hồ sen. Ngắm những búp sen vừa nhú lên khỏi mặt nước, cạnh
những chiếc lá tròn trỉn như lòng chảo đang ngửa lên đón nắng
gió của buổi sớm mai. Trên lòng những chiếc lá đang chứa những
giọt sương đêm còn đọng lại. Màu xanh của lá, màu trắng của
những hạt sương và mỗi khi làn gió thổi qua làm chao lượn những
giọt sương lăn qua lăn lại trong lòng lá sen màu xanh non ấy,
lấp lánh dưới ánh bình minh như những hạt kim cương trông thật
đẹp.
Xen lẫn giữa những tàn lá sum suê, là những búp hoa sen mới vươn
lên khỏi mặt nước, với màu sắc hồng nhạt, đang đong đưa trước
gió như những chiếc lồng đèn con. Mủm mĩm như nụ cười e ấp của
những thiếu nữ xuân thì. Khung cảnh ấy thật yên bình, khiến lòng
tôi cảm thấy bâng khuâng, như quên đi cảnh sống bon chen của
hiện tại. Những giây phút ấy đến bây giờ mỗi khi nhớ lại thấy
thương nhớ làm sao.
Trong phút giây, cảm thấy lòng mình như đang gặp cõi an lạc
nào. Dưới ao sen, những lá sen, những búp hoa như đang nở nụ
cười, như đang chan hòa một niềm vui vì không còn cảm thấy lạc
loài nguồn cội, không bị cô đơn nơi cõi lạ. Vì bây giờ đã có
người nhìn ngắm, đã có những người bạn đồng hành trên bước đường
lưu lạc. Đang san sẻ cho nhau nỗi nhớ niềm thương, để cùng cảm
thông trên bước muôn trùng.
Ở làng Mai xóm nào cũng có hồ sen, xóm thượng, xóm hạ, xóm mới
và gần đây có thêm xóm Sơn Hạ với cảnh trí thật nên thơ. Có hồ
nước lớn, có bóng liểu rủ và có những con đường nho nhỏ đi quanh
rất xinh xắn. Không gian ở đây thật rộng khoáng mát và yên tĩnh
đang trải dài theo những vườn nho bạt ngàn, những đồng hoa hướng
dương khoe sắc đang vươn vai ra ngoài vô tận. Trải dài thêm
những nương bắp đậu xanh tươi, nhà cửa thưa thớt, người dân hiền
hòa, thật là một cảnh thanh bình. Thật là một khung trời mơ ước
cho những ai đã trải qua bao cảnh thăng trầm, long đong của một
quê hương chìm ngập trong tang thương, ly tán... Khung cảnh đã
vậy thêm nếp sống con người cũng hồn nhiên như cây cỏ. Những
Tăng Ni sinh đang tu tập tại đây cũng mang một sắc màu thanh
tịnh. Phần đông tuổi còn rất trẻ, đang sống một cuộc sống lý
tưởng là đem tình yêu thương để ban phát muôn phương.
Hoa Sen người Tàu gọi là Liên Hoa, còn nhiều tên nữa như Hà Hoa
(Hà trì là đầm sen hay ao sen). Tây gọi là Lotus. Trong Kinh
Diệu Pháp Liên Hoa, là bậc nhất trong các Kinh Pháp khác mà Phật
đã thuyết, cũng ví như hoa sen.
Vì hoa sen sánh với hoa khác có 5 điều đặc biệt:
1) Có hoa là có gương: nhân quả đồng thời.
2) Mọc trong bùn lầy mà vẫn trong sạch thơm tho.
3) Cọng hoa từ gốc tách riêng không chung cành với lá.
4) Ong và bướm không bu đậu.
5) Không bị người dùng làm trang điểm
(xưa đàn bà Ấn Độ quen dùng hoa kết thành tràng để đeo). (thích
nghĩa của dịch giả Thích Trí Tịnh).
Hoa sen có xuất xứ từ bên Thiên Trúc, bây giờ là Ấn Độ gồm có 4
loại: Loại mang tên Ưu-bát-la có hoa màu xanh. Loại Câu-vật-đầu
hoa màu vàng. Loại Ba-đầu-ma hoa màu đỏ. Loại Phân-đà-lỵ hoa màu
trắng.
Trong Tứ Thập Nhị Chương kinh, Đức Phật Thích Ca có dạy rằng:
Bực Sa-Môn sấn mình vào cõi ô trược nầy, phải gìn giữ thân ý như
hoa sen mọc dưới bùn mà chẳng dính nhơ. Đối với hàng phụ nữ,
phải có tư tưởng đứng đắn nầy: Già thì coi như mẹ, lớn tuổi hơn
thì coi như chị ruột, nhỏ tuổi hơn thì coi như con gái mình. Bởi
hoa sen là hoa chẳng nhiễm trược, cho nên Đức Phật lấy đó mà làm
biểu hiệu. (Sa-Môn theo âm Phạn là Sa-môn-na (Sramana) có nhiều
nghĩa: Căn giả là người luôn làm điều thiện. Tức giả là người
dứt bỏ các nghiệp ác. Bần giả là người chịu thiếu, chịu nghèo,
chẳng có của cải, chẳng có gì gọi là của mình. Sa-Môn là tiếng
gọi những người xuất gia theo đạo Phật.)
Tịnh độ tông cũng lấy hoa sen biểu hiệu cho nơi chốn thanh tịnh
trang nghiêm. Trong ao Thất Bảo ở cõi Cực lạc cũng có đủ 4 loại
hoa sen ấy, mỗi loại đều tỏa ra hào quang với màu sắc tuyệt đẹp.
Mùi hương thơm dịu và tinh khiết.
Trên bàn thờ Phật, dùng hình tròn bằng phẳng của hoa sen, trên
ấy có tượng Phật, tượng Bồ Tát gọi là Liên Đài (Đài Sen, Tòa
Sen) (theo Tự điển Phật Học của Đoàn Trung Còn).
Trong thập chủng đại nguyện của Ngài Phổ Hiền Bồ Tát, nguyện hồi
hướng cho chúng sinh cũng có đoạn:
Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung,
Cửu phẩm Liên hoa vi phụ mẫu,
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,
Bất thối Bồ tát vi bạn lữ ...
Vào thời cuối nhà Đường, nhà sư Lục Quy Mông diễn tả nét đẹp của
hoa sen qua bài thơ Bạch Liên, có những câu như :
Cố vỉ da mông biệt diễm khi
Thử hoa đoan hợp tại Dao Trì...
(Đừng nên xem thường hoa trắng, che lấp nét đẹp đặc biệt. Hoa
nầy kết hợp đầu tiên tại cõi Dao Trì (chú thích HTL)
Dùng hoa sen để diễn tả cảnh vô thường trước vạn vật, chỉ thời
gian thấm thoắt thoi đưa, Nguyễn Du cũng đề cập trong Truyện
Kiều:
Sen tàn, cúc lại nở hoa
Sầu dài, ngày vắn, đông đà sang xuân...
Trong Gia đình Phật tử Việt Nam, dùng hoa sen để làm huy hiệu,
với tám cánh, năm cánh trên tượng trưng cho các hạnh: Tinh tấn,
Hỷ xã, Thanh tịnh, Trí huệ và Từ bi và ba cánh dưới chỉ Phật,
Pháp, Tăng (tức là Tam Bảo). Với bài ca của Gia đình: Kìa xem
đóa sen trắng thơm. Nghìn hào quang chiếu sáng trên bùn. Hình
dung Bổn sư chúng ta, lòng từ bi, trí giác vô cùng. Đồng thệ
nguyện một dạ theo Phật. Nguyện sửa mình ngày thêm tinh khiết.
Đến bao giờ được tày sen ngát, tỏa hương thơm Từ Bi tận cùng.
Trong các đoàn đội của Gia đình, cũng lấy hoa sen đặt tên hiệu.
Như Đoàn Sen Trắng, Đội Sen Vàng ...
Hay bài hát Em Đến Chùa :
Một hôm mồng một đến chùa.
Em đi với mẹ mua vài hoa sen.
Đến chùa dâng cả hồn em.
Lên trên Đức Phật lòng em kính thành...
Ôi đẹp làm sao, một tâm hồn son trẻ trinh trắng, như đóa hoa sen
kia em dâng lên lời nguyện. Em nguyện cho tâm hồn trinh nguyên
nầy, được mãi mãi trong trắng tinh khôi, như hoa sen kia để được
sống một cuộc đời vô nhiễm. Vẫn vươn mình lên khỏi chốn bùn nhơ
nước đọng, để còn thấy rằng cuộc đời còn mãi đẹp, cuộc đời là
quà tặng. Trân quý và săn sóc thân ý luôn tươi mát và thánh
thiện, cũng là một phương cách tự mình tìm về nẻo Đạo rồi vậy.
Theo văn học dân gian, hoa sen cũng là một biểu tượng cao quý và
đẹp đẽ:
Trong đầm gì đẹp bằng sen.
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng.
Nhụy vàng bông trắng lá xanh.
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Tinh thần vô nhiễm của hoa sen theo quan niệm nhân gian, cũng
không khác gì trong nhà Phật bao nhiêu, nên người đời cũng lấy
hạnh của hoa sen để khuyên bảo người sau...
Theo truyền thuyết trong tình tự dân gian, chuyện một chàng trai
trẻ xa xưa nào đó, một hôm tát nước đầu đình, làm bộ bỏ quên
chiếc áo để may ra có người nhặt được, đem về nhà làm của tin:
Hôm qua tát nước đầu đình.
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen.
Em được thì cho anh xin.
Hay là em để làm tin trong nhà.
Áo anh sứt chỉ đường tà.
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu.
Áo anh sứt chỉ đã lâu.
Mai mượn cô ấy vào khâu cho cùng.
Khâu rồi anh sẽ trả công.
Mai mốt lấy chồng anh sẽ giúp cho.
Giúp cho một thúng xôi vò.
Một con heo béo, một vò rượu tăm.
Giúp cô đôi chiếu cô nằm.
Đôi chăn cô đắp, đôi tằm cô đeo.
Giúp cô quan tám tiền cheo.
Một con heo béo lại đèo buồng cau ...
Thì ra cái anh chàng nầy làm bộ bỏ quên chiếc áo nơi đây để mong
người nhặt được, để có cơ hội tỏ tình. Chứ thật sự thì chuyện
đâu có dễ dàng như vậy? Nội việc bỏ quên chiếc áo trên cành hoa
sen, thấy cũng đã không ổn rồi, vì cành hoa sen thì mỏng mãnh
yếu đuối, nằm sát trên mặt nước, chỉ đụng nhẹ là cành sen đã
chắm nước rồi, làm sao mà chịu đựng với chiếc áo vải thô của
anh? Nhưng ý tưởng thì nghe ra rất chi là thâm thúy! Lối tỏ tình
kín đáo nầy, cũng rất thơ mộng biết bao. Vì áo rách nhờ khâu rồi
trả công bằng quà cưới, thấy tuyệt vời vô cùng. Cho dù có đối
tượng hay không, chuyện đó không thành vấn đề, khi mơ thì cứ để
cho lòng nó mơ cái đã. Kết quả ra sao thì chỉ biết lạy trời cho
giấc mơ của con chóng thành sự thật! Nên khi nghe qua chắc lòng
ai đó không nở chối từ. Vì lời tỏ tình tuy hơi kín đáo, nhưng
trong lòng thì tha thiết biết bao! Nên mỗi khi nhắc nhở đến,
chắc ai cũng muốn trở về tát nước đầu đình, để bỏ quên chiếc
áo...!
Hoa sen cũng dùng làm thực phẩm và dược phẩm, như ngó sen dùng
làm gỏi hay các món xào nấu cũng "dzách lầu" lắm. Hạt sen dùng
để nấu chè:
Thương chồng nấu cháo hạt kê
Nấu canh bông lý, nấu chè hạt sen
Mấy nhà trưởng giả thì lấy tim sen ướp trà, uống trà sen cũng
giúp cho việc điều hòa tim mạch và cơ quan tiêu hóa.
Mấy lần ghé vào tiệm thực phẩm Việt Nam mua một gói trà sen, hay
mua một ít hạt sen về nấu chè, lòng tôi thấy nhớ quê hương vô
cùng. Cái nhớ như quay quắt, như xót đau vì những gì tôi đã sống
qua, đã cảm nhận chỉ còn lại một chút kỷ niệm nhạt nhòa ở trong
lòng, mà ngỡ tưởng không bao giờ có thể thấy lại. Tất cả đều như
mất hút, ngàn trùng.
Cách đây mấy năm, nhân dịp đi nghỉ hè vùng biển La Grande Motte,
tôi có ghé xem khu rừng được trồng hàng trăm loại tre trúc, cùng
với một số cây cối miền nhiệt đới. Cảnh nơi đây trông giống như
một làng quê ở vùng cao nguyên Việt Nam, có mấy nóc nhà sàn ẩn
sau mấy bụi chuối, lùm tre, đặc biệt cũng có hồ sen, ao cá.
Nhưng sao thấy sen nơi nầy nó không làm tôi xao xuyến, bâng
khuâng mỗi khi nhìn ngắm. Có lẽ sen nó qua Pháp không mấy đặc
biệt, hay trái lại tôi nghĩ ngày trước họ qua đô hộ nước ta, rồi
đem giống về trồng như một tước đoạt của cải người khác, hay là
chủ nhân không tha thiết gì với sen. Chẳng qua, họ trồng để làm
cảnh lạ cho khách du lịch, vậy thôi. Cho nên thấy sen mà cứ dửng
dưng với lòng, thấy cảnh của quê hương mà không có chút nhớ
nhung! Âu cũng là cái duyên gặp gỡ mỗi lúc mỗi khác, mỗi hoàn
cảnh với sự cảm nhận không giống nhau ấy, mới gọi là "duyên
lành".
Một lần khác sang Ý cũng được nhìn khung cảnh hồ sen ao cá, có
nương lúa rẫy bắp, có những căn nhà thưa thớt, mà cảm nhận như
đây là quê nhà! Một quê nhà trong tâm cảnh, nhưng cũng an ủi
được niềm xa. Nhất là gặp lại những đồng hương và bây giờ thêm
tình đồng đạo. Có lẽ hoa sen đến nơi đây, tuy tình cờ nhưng đặc
biệt, giản dị nhưng thiện ý của chủ nhân lại có tấm lòng yêu
mến. Và đồng hương nơi đây cũng đã ẩn tàng một tấm lòng thiện
lành, nên khi xa họ vẫn nuôi dưỡng và chăm bón những tinh hoa,
duy trì những nguồn suối mát muôn đời tắm gội, cho hạt giống Từ
Bi vẫn còn kết trái đơm hoa. Hay tiếp nối truyền thống muôn đời
của tiền nhân, đang dìu nhau hướng về chân thiện mỹ.
Thời gian chỉ vỏn vẹn có mấy ngày, nhưng tôi đã gặp, đã nhận
nhiều bài học quý báu, nhất là được học hạnh của hoa sen: Vẫn
sống đời như nhiên. Không sạch nhơ đọng lắng. Không phân biệt
sang hèn... ! Xin cám ơn những bàn tay, đã xây dựng một chốn
Đạo tràng để đón tiếp những người đồng đạo. Cũng như chủ nhân ao
sen kia, đã ra công chăm bón cho những đóa sen hồng nầy còn mãi
dâng hương sắc cho cuộc đời.
Nhìn ao sen, từng cánh sen đang đong đưa trong gió sớm, nhìn
cảnh thanh bình của xứ sở nầy, gặp những đồng hương mà lòng tôi
thấy một nguồn an lạc. Nên khi về tôi mang theo về nhiều lắm,
những kỷ niệm khó quên.
Gần đây, khi tin tức Tu viên Bát Nhã ở Lâm Đồng bị Nhà nước Việt
Nam xua đuổi bằng bạo lực. Một bản tin đã gây xúc động mạnh đối
với hàng triệu người trên thế giới: Vào ngày 27.9.2009, “Họ đã
thuê xã hội đen” vào đàn áp những Tu Sinh của Bát Nhã thật tàn
nhẫn. Bằng những hành động thiếu văn hóa, bằng lòng hận sôi sục
như đối với kẻ thù không đội trời chung! Nhưng tất cả 400 Tu
Sinh vẫn luôn nhẫn nhục: Họ bao bọc lẫn nhau bằng một tình
thương đồng môn, bằng một niềm tin về tâm linh vững chắc, bằng
một tấm lòng nhân bản. Họ vẫn vững chải như núi cao, yên tịnh
như hư không và trầm hùng như núi lặng…
Tuy những Tăng Ni Sinh bị đánh bật ra khỏi Tu Viện Bát Nhã bằng
“Lòng hận thù” của Chính quyền Việt Nam; bằng “Lòng ganh tỵ” của
những người “Đồng Đạo” và bằng bạo lực của những con người đã
mất hết nhân tính… Nhưng 400 Tu Sinh Bát Nhã họ ra đi như một
cuộc “Thiền Hành” để cầu nguyện cho đất nước Việt Nam thanh
bình; cho dân tộc Việt Nam được an vui hạnh phúc, và cho những
người đang mang lòng hận thù được hóa giải. Họ như cùng mang
chung một tấm lòng Đại Hùng Đại Lực và Đại Từ Bi của đấng Từ Phụ
đã ban tặng cho. Nên khi gặp nạn họ vẫn đem lòng bao dung đối
với những người độc ác, không sợ hải trước những bạo hành, sẵn
sàng chịu đựng những khổ đau, vẫn mỉm cười trước những mỉa mai
của nhân thế. Chỉ cho đây là nghiệp chướng trùng trùng của đời
vay trả, để an ủi hoàn cảnh.
Bây giờ, tình trạng của những Tu Sinh Bát Nhã thật mỏng manh như
sợi chỉ treo chuông. Vì sau khi thế giới đã lên tiếng, đã quan
tâm đến tình trạng Bát Nhã, nhưng vẫn chưa có một tia hy vọng
nào cả ! Nhưng cho dù ra sao đi nữa, thì hình ảnh “Bát Nhã” cũng
như hành trình đi tìm “Chân Thiện Mỹ” của Tu Sinh Bát Nhã (tu
theo Pháp Môn Làng Mai) như dòng suối mát bất tận, đã và đang
tuôn chảy để gội sạch những lòng hận thù vì vô minh che lấp.
Pháp Nạn Bát Nhã ở Lâm Đồng đã tô điểm thêm cho trang sử Việt
Nam một “Tinh Thần Vô Úy” của Phật Giáo Việt Nam. Và hình ảnh
của 400 Tăng Ni Sinh Bát Nhã mãi là những “Búp Sen” tinh khiết,
những đóa hoa “Vô Ưu” hiện bày, đang ung dung trên bước đường
“đã về đã đến”. Những hình ảnh ấy như một dấu ấn đã in thật đậm
trong lòng Dân Tộc Việt Nam qua tình tự dân gian đã minh họa:
“Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn !” .
Trần Đan Hà |