.

PSN
BỘ MỚI 2008
HỘP THƯ

                           TRANG CHÍNH

Sáng tạo là linh hồn của nghệ sĩ (LN)

bút
việt
hồn
quê

THƯ MỤC CÁC TÁC GIẢ

Thích Phước An | Trần Đỗ Cung | Kiều Mỹ Duyên | Trần Trung Đạo | Minh Triết TRẦN THIỆN ĐẠT | Trần Kiêm Đoàn | Phổ Đồng | Tâm Hải Đức | Võ Thị Trúc Giang | Trần Đan Hà | Nhất Hạnh | Tuệ Chương - Hoàng Long Hải | Vĩnh Hảo | Chiêu Hoàng | Đại Lãn | Lặng Lẽ | Lâm Kim Loan | Trần Quan Long | Phạm Trọng Luật | Miêng | Diệu Trân | Không Quán | Phan Quân | Đặng Văn Sinh | Tuệ Sỹ | Ninh Hạ - Nguyễn Đức Tâm | Phong Thu | Nguyễn Mạnh Trinh | Lê Khánh Thọ | Trần Đình Thu | Trần Khải Thanh Thuỷ | Anh Thư | Tiểu Tử | Nguyễn Ước | T. Vấn | Hiền Vy | Tác Giả Khác ...

GIAI THOẠI

Bùi Giáng | Hữu Loan | Giang Hữu Tuyên |

  Trần Đan Hà

Về Làng
Kỷ niệm những năm tháng về làng Mai.

  •  PSN 7.03.2008

Tháp chuông chùa Từ Nghiêm
(xóm hạ - Làng Mai)

Từ dạo bỏ quê ra đi tìm lẽ sống, người Việt chúng ta ở hải ngoại, ít khi nghe ai nhắc đến hai tiếng "về làng". Vì hiện tại đến nơi nào cũng chỉ gặp người lưu lạc, chốn tha hương thì đâu còn làng nước nữa mà về? Nên bây giờ nhắc đến hai chữ về làng, lòng tôi chợt nhớ đến một thời tuổi thơ, tuy không mấy vui nhưng cũng đã có rất nhiều kỷ niệm. Thời ấy, quê hương loạn lạc, phải theo cha mẹ chạy giặc, tản cư đến nơi tạm yên ổn hơn, nơi ấy không bị giặc đi lùng bắt. Nhà cửa bị đốt cháy, ruộng vườn đều bỏ hoang. Đến khi yên ổn, thì mẹ dắt con, vợ theo chồng lủ lượt kéo nhau từng đoàn trở về lại làng xưa. Dựng lại mái tranh để che mưa đỡ nắng, phát cỏ vườn trước để trồng rau, cuốc đất vườn sau để trồng khoai trồng sắn, hầu tìm lại cái ăn cái mặc cho gia đình. Tuy vất vã trăm bề, nhưng thấy cha mẹ tôi vẫn tươi cười khi được về lại mái nhà xưa, khu vườn cũ. Cảnh về làng của những ngày ấy chỉ để nhìn lại kỷ niệm, thở lại không khí quen thuộc của những ngày xưa, hay sống lại với chuổi ngày, mà cứ cho rằng tràn đầy yêu mến. Chừng ấy cũng giúp cho họ có một sự thanh thản trong tâm, những giây phút tràn đầy nước mắt tủi tủi mừng mừng. Tuy quê nghèo với cảnh sống đạm bạc nhưng đầy ắp tình bà con làng xóm, còn tình nghĩa của ông bà tổ tiên. Nơi ấy như có một hồn thiêng che chở, như có một chất keo gắn bó. Chất keo ấy vô ảnh vô hình, nhưng lại khiến cho lòng người mãi lưu luyến, không mấy ai nỡ bỏ chốn quê, mặc dầu chốn ấy không tìm thấy một tương lai sáng lạn. Vì Quảng trị quê hương tôi đất cày lên sỏi đá, khí hậu nghiệt ngã, với hai mùa mưa nắng, nắng cháy da và mưa dầm thối đất. Suốt đời lam lũ, khoai sắn cũng không đủ để no lòng. Nhưng bù lại, còn có hương vị quê hương, cái hương vị ấy là:

Cơm dưa muối khó khăn mới có.
Của không ngon nhà khéo cũng ngon.
Khi vui câu chuyện thêm dòn.
Chồng chồng vợ vợ con con một nhà...
(ca dao)

Ở thôn quê còn có cảnh nào hạnh phúc và đầm ấm hơn thế nữa, với đêm trăng ra ngồi trước sân, nghe ông bà kể chuyện đời xưa; mùa đông lạnh giá thì lại quây quần bên bếp hồng lửa mẹ. Cảnh sống đạm bạc ấy còn giúp cho con người giảm đi rất nhiều những ham muốn thường tình, giảm đi sự tranh chấp hay hơn thế nữa là giảm bớt chiến tranh. Vì cảnh nghèo thì lấy gì mà tranh chấp, con người đều sống an phận với nương vườn rẫy ruộng thì lấy gì mà hận thù. Cuộc sống của dân quê dần dà rồi trở thành một cái Đạo, cái đạo ăn hiền ở lành, sống bình thường như thiên nhiên, như cỏ cây hoa lá, nhưng nhờ bàn tay cần mẫn chăm sóc, sẽ tự sinh cho nhân tốt quả lành.

Hay như ông bà chúng ta thường khuyên:

Bầu ơi thương lấy bí cùng  
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
(ca dao)

Việc nhân cách hóa giây bầu giây bí, để trao lại cho con cháu một thông điệp tình thương, thấy cũng thâm thúy biết bao. Vì rằng tuy khác dòng họ, nhưng cùng chung sống trong một làng, thì chúng ta đang có tình giềng mối, nghĩa xóm làng chung đụng với nhau hàng ngày; như giây bí giây bầu kia cùng leo chung một giàn vậy. Cỏ cây sống được là nhờ trợ duyên của thiên nhiên, như nắng sớm sương chiều tưới tẩm và sương nắng thì đều được tắm chung cho tất cả các loại cỏ cây, không phân biệt. Con người cũng vậy đều được thừa hưởng những tặng phẩm của đất trời: không khí để thở, thực phẩm để dinh dưỡng. Quà tặng ấy là của chung cho cả nhân loại, cho mọi loài chúng sinh, chứ không phải của riêng ai, nên theo Phật giáo tinh thần "Lợi hòa đồng phân" trong Lục Hòa là tôn trọng sự công bằng của Tạo hóa, thể hiện lòng Từ bi của Đức Phật, duy trì tinh thần tương thân tương trợ, cũng như tạo nên cảnh sống hòa bình an lạc.

Những năm ấy tôi còn nhỏ, nhưng vẫn nhớ rõ cái cảnh đi hái rau mưng rau má, đi đào củ mài củ éo để ăn qua ngày. Cũng may trong vườn còn sót lại năm ba cây mít, ít bụi chuối, vài gốc chè vẫn cho trái ra hoa dùng để đỡ đần hôm sớm. Vẫn vui với cái vui an phận thủ thường, không còn ước mơ gì cao xa hơn nữa, dần dà rồi cuộc sống được trở lại yên ổn để làm ăn. Làng xóm cũng được dựng lên những ngôi nhà mới, tuy nhà tranh vách đất nhưng hình ảnh ấy đã làm tăng thêm sức sống cho mọi người. Vườn hoang giờ đây đã mọc lên hoa màu, cảnh vắng vẻ bây giờ đã nhộn nhịp như xưa, vườn cũ bây giờ chim đã về hót đậu, với người dân quê như thế là hạnh phúc lắm rồi!

Nhưng thế sự vẫn không dung tha cho người cùng khổ, những người an nhẫn với thân phận hẩm hiu để được sống với quê hương làng mạc, để được gần với mồ mã tổ tiên, để được đền đáp ơn sông nghĩa núi, cho trọn thủy trọn chung với bà con xóm làng, chỉ chừng đó cũng đã được nguồn an ủi!

Nỗi buồn ấy chưa vơi thì rồi một lần nữa phải gạt lệ ra đi, vì quê nhà không còn chỗ dung thân. Cho dù vẫn chấp nhận một cuộc sống với tay làm hàm nhai, không biết đến tương lai như thế nào. Vì đã quen cảnh đời lam lũ, lòng đã gắn bó với tình cảm xóm giềng, nên bây giờ sống cuộc đời lưu lạc thấy cũng buồn thêm. Nỗi buồn như những lúc đối diện với cảnh lạ xa, với người không quen, với lòng hoài niệm dầu chỉ một dĩ vảng tối tăm, một quá khứ đầy xót thương nhưng vứt bỏ không đành, nên lòng vẫn cảm thấy bất an vì tiếc nuối.

Qua đến xứ người sống cảnh bơ vơ, đôi khi thấy như người vô cảm, không biết lấy ai tâm sự mỗi khi cõi lòng quạnh vắng. Nhưng tôi may mắn được gặp gỡ gia đình bác Nhiêm, thường lui tới thăm nhau để chia sẻ nỗi buồn vui nơi cõi tạm bợ nầy. Một hôm vào dịp mùa hè bác Nhiêm rũ gia đình chúng tôi qua Pháp chơi, nhân tiện ghé thăm đứa con của bác du học tại đây, và hiện giờ đang sinh sống nơi thành phố Louders miền nam nước Pháp. Thế là chúng tôi lần đầu tiên đi xa. Hai gia đình chất lên một xe, vì lúc ấy con tôi con nhỏ nên ngồi cũng thong thả. Lần đầu tiên tôi được chiêm ngưỡng cảnh trí thơ mộng của miền nam nước Pháp, có nhiều nơi khung cảnh miền quê hơi giống quê hương Việt Nam chúng ta. Có nhiều cánh đồng trồng lúa, trồng cải, trồng bắp và nhất là những cánh đồng trồng nho và hoa hướng dương thì thật tuyệt đẹp từng hàng thẳng tắp, chạy dài đến mút mắt.

Đến nhà anh Liêm chúng tôi ở lại ba ngày, anh Liêm đưa đi chơi nhiều chỗ và nhất là đến tham quan “Thánh Địa Lourdes” nơi có rất nhiều người đến đây quanh năm. Những người bệnh nan y họ đã đến để cầu nguyện, và sau khi khỏi bệnh họ để lại những vật dụng họ mang theo như gậy, nạng gổ… là những dấu tích đã chứng minh cho lòng tin của họ. Thấy những điều mầu nhiệm rất lạ chưa hề nghe đến, nhưng hôm nay đã thấy tận mắt.

Đến chiều ngày thứ ba sau khi ăn cơm xong, bác Nhiêm gọi anh Liêm và nói rằng: “Ngày mai mi đưa tau lên Làng Hồng để tau thăm Sư Ông” (những năm ấy còn gọi làng Hồng, sau khi thực hiện trồng 1.250 cây Mai, để hái trái làm mứt cho chương trình giúp những trẻ em mồ côi ở quê nhà, lúc ấy mới đổi tên thành Làng Mai). Tôi chưa biết làng ở đâu, cũng chẳng biết Sư Ông là ai, và sinh hoạt nơi ấy như thế nào nhưng không tiện hỏi. Nên cứ chạy theo xe anh Liêm băng qua mấy con đường làng, có nương bắp có ruộng lúa mà thấy nhớ quê hương vô vàn. (Sau nầy mới biết gia đình bác Nhiêm trước đây ở Nha Trang, một gia đình khá giả nên có mấy đứa con đều đi du học cả. Hai Bác cũng đã biết đến những sinh hoat của Sư Ông trước năm bảy lăm, và hai bác cũng đã có tham gia.)

Yên tĩnh giữa rừng sồi
(Sườn núi chùa Pháp Vân - xóm thượng LM)

Đến làng, chúng tôi cũng ở lại ba ngày đi xem cảnh của các xóm: xóm Thượng, Xóm Trung, xóm Hạ, xóm Mới… Thấy phong cảnh thôn quê ở đây rất lý tưởng cho việc nghỉ hè, cũng như thấy nếp sinh hoạt của Làng rất đầm ấm đầy đạo vị và mang màu sắc quê hương. Buổi sáng, thấy người người lũ lượt lên xóm Thượng để tham dự buổi Pháp Thoại của Sư Ông. Các thiếu nữ mặc đồ bà ba, đội nón lá và đi chân đất chẳng khác chi cảnh thôn quê của mình. Cộng thêm trong các xóm có những khóm trúc, vườn rau, và nhất là có hồ sen, đã khiến cho những người xa quê như chúng tôi gợi nhiều điều nhung nhớ…

Lúc ấy chúng tôi cũng chưa biết gì nhiều về việc tu tập của làng, chi mến cảnh mến người và nhất là nếp sống nơi đây thật an nhàn, khiến cho những ai khi đến cũng cảm thấy mến yêu. Nên sau đó bác Nhiêm rũ chúng tôi về làng là đồng ý ngay. Vì thiết nghĩ đi nghỉ hè đâu rồi cũng thấy cảnh lạ miền xa, không có cảm giác thân thương như về làng. Và cứ đến mùa hè là rủ nhau đi, ban đầu chúng tôi chỉ đi chung với gia đình bác Nhiêm, sau đó có thêm nhiều người cùng về làng, và thỉnh thoảng đông quá lại thuê xe Bus để đi chung. Những tháng năm ấy đã để lại trong tôi nhiều kỷ niệm, làm tươi mát thêm cho cuộc đời. Với một cuộc sống thong dong tự tại, ăn mặc giản dị, người người đều trao nhau những tình cảm rất thân thiện. Và từ từ chúng tôi hòa vào trong nếp sống ấy bao giờ mà không hay, đến nỗi đôi khi không thiết tha gì đến việc bon chen ngoài đời, vì chỉ cần sống trong hiện tại với đầy ắp tình người bao dung, đang đến với nhau thắm tình anh em một nhà, không có lo lắng việc gì chỉ việc sống với những giây phút an nhàn thảnh thơi như vậy cũng đã cảm thấy thích thú.  

Vì thế hôm nay gặp duyên lành, lại được về làng là một sự may mắn, hơn nữa về Làng Mai là một nguồn an ủi, được học những phương pháp chuyển hóa khổ đau, để có một cuộc sống an vui hạnh phúc, cho nên hai chữ về làng bây giờ còn mang một ý nghĩa cao đẹp, một cơ hội được học làm người và sống lại với dư vị đã thân quen. Trước hết là bắt gặp một khung cảnh làng mạc, có bụi chuối vườn rau, có khóm hành bụi ớt, có giây bí giàn bầu...

Nên khi thấy cảnh:

Sau chùa có một vườn rau.
Trồng bao lâu đã xanh màu quê hương?
Ngò gai, rau húng, quế hương
Giàn leo đậu ván dễ thương vô cùng

Sao mới thấy vườn rau đã biết đó là màu quê hương, vì vườn rau nầy đang trồng nơi đất lạ quê người mà? Và bất chợt tôi mới hiểu ra cái màu quê hương ấy, tôi cũng đã mang theo trong huyết quản, trong tâm thức nhưng chưa có duyên hạnh ngộ, nên màu quê chưa tỏa rạng, bóng quê bị che lấp bởi cánh cửa vô tình khép lại. Giờ đây cánh cửa được rộng mở, duyên may được bắt gặp đã làm cho lòng tôi vơi đi nỗi nhớ, cũng như không còn ngại ngùng trước cảnh tha hương, mà lâu nay một mực trăn trở như cảm thấy có một sự mất mát lớn lao. Ở đây lại còn có thêm ao sen xanh tốt, có bụi trúc xinh xinh sớm chiều đong đưa trước gió.

Chiều ra ngồi ngắm sen xanh
Lá khum lòng chảo lã cành dọng sương
Cạnh bên búp nở trắng hồng

Lung lay cánh gió long bong cánh thuyền

Tâm cảnh hiện bày nên cảm tưởng như mình đang đón nhận một cuộc sống thảnh thơi, bắt đầu từ khi mới đặt chân đến làng. Sự cảm nhận của giây phút ban đầu ấy, như thực tại đã gắn bó với chốn cũ quê xưa. Nhưng chưa dừng lại đó mà phải đi tìm những gì khác biệt hơn thế nữa kia, sự khác biệt đó là khi nhìn thấy những người bản xứ (nói chung là những người Âu, Mỹ), họ đang có tất cả từ tinh thần lẫn vật chất, có nhà cao cửa rộng, nghĩa là họ đã đạt được tất cả những gì cao quý nhất mà người đời mong muốn, thế nhưng họ cũng về Làng Mai một nơi chốn nghèo khó quê mùa để tìm cái gì ? Đó là câu hỏi tôi tự đặt ra, để tiếp tục đi tìm câu trả lời...

Làng Mai có xóm Thượng, xóm Trung và xóm Hạ, mỗi xóm chỉ cách nhau vài cây số, con đường băng qua các xóm cũng nằm giữa cánh đồng, có con đường đất dẫn từ xóm dưới lên xóm trên, hai bên đường nối nhau thẳng tắp những hàng nho, những hoa hướng dương, hay nương bắp phất phơ theo chiếc áo màu lam của các cô thôn nữ, lủ lượt theo nhau lên chùa lễ Phật.

(Hiện giờ, vì nhu cầu tu học càng ngày càng đông, nên làng đã lập thêm các xóm: Xóm Mới. Xóm Thượng trở thành Chùa Pháp Vân, Xóm Hạ trở thành Chùa Cam Lộ và xóm Mới có Chùa Từ Nghiêm) (xin xem vài nét về Làng Mai tại Pháp).

Đó chỉ là những hình ảnh của phút đầu tiên nhìn thấy, nhưng ở lại vài ngày mới bắt gặp nhiều điều mà từ lâu nay mình cứ ngỡ không bao giờ thoát ly ra khỏi, như lòng hoài niệm của kẻ tha hương, như cảm giác xa lạ với xứ người, lòng ngổn ngang trước hai nền văn hóa khác biệt. Nếu không biết dung hòa thì suốt đời sẽ bị bơ vơ trước ngã ba đường, không biết đi về đâu cho cuộc đời được hoà đồng, kiếp sống không còn buồn tẻ, vì cứ thấy mình vẫn còn lạc lõng, cô đơn.

Cho nên khi về Làng Mai tu học một thời gian, tôi mới nhận thấy đời sống của quý Thầy quý Sư cô rất an vui và hạnh phúc, có lẽ nếp sống thanh đạm đã giúp cho họ giảm bớt lòng tham sân, thực tập sống chánh niệm để phát huy trí tuệ, tăng trưởng lòng từ bi như trong phần đầu của Bát Nhã Tâm Kinh: Bồ Tát Quán Tự Tại. Khi quán chiếu thâm sâu. Bát Nhã Ba La Mật (Tức diệu Pháp Trí Độ). Bỗng soi thấy năm uẩn. Đều không có tự tánh. Thực chứng điều ấy xong. Ngài vượt thoát tất cả. Mọi khổ đau ách nạn. (Trích Kinh Tinh Yếu Bát Nhã Ba La Mật Đa trong Nghi Thức Tụng Niệm, Lá Bối 1994). Khi thực tập quán chiếu để thấy tất cả đều giả hợp, năm uẩn đều không có tự tánh, nên chúng ta không lo sợ trước cảnh sanh, lão, bệnh, tử. Hay không sợ hải trước cái hữu hạn của kiếp nhân sinh, đang đứng trong không gian và thời gian vô tận. Nỗi lo sợ ấy như những khổ ách đã theo đuổi từ nhiều kiếp, vì chúng ta vẫn còn sống trong mê mù, tăm tối.

Về Làng Mai cùng nhau tu học, như để giải tỏa tất cả những gì mà từ lâu đã chất đầy thêm gánh nặng. Thực tập sống thế nào cho cuộc đời có ý nghĩa, có hạnh phúc rồi chia xẻ cho thân hữu, bạn đồng hành, ngõ hầu dìu dắt nhau cùng đi những bước chân vững chải trên đường đời, dẫy đầy chông gai và sống gió nầy.

Ngoài việc được sống cái không khí làng mạc của Việt Nam, tôi còn được học lại rất nhiều những bài học vỡ lòng. Vì theo tình tự dân gian, con người sinh ra đầu tiên phải : học ăn, học nói, học gói, học mở..., mà những bài học vỡ lòng nầy tôi đã bị thất lạc trên đường chạy loạn, cha mẹ tôi cũng không có cơ hội để dạy dỗ cho tôi, vì cuộc sống tất bật trong một giai đoạn mà đất nước còn chìm đắm trong cảnh loạn ly tang tóc, vì thế bài học vỡ lòng của tôi vẫn chưa được học chín chắn, nên bây giờ cứ lơ mơ.

Vì sinh ra được làm người là một điều cao quý, là một vinh hạnh cho chúng ta, nên cần phải học những điều căn bản, để gìn giữ cái giống người trước đã, rồi sau đó mới học lên cao. Vì nếu ai chưa học thuộc bài học vở lòng, thì bây giờ chắc chắn cũng cứ lơ mơ vậy thôi. Sẽ không bao giờ tìm được hướng đi tốt đẹp cho cuộc đời, khi hai bên đường dẫy đầy ma chướng.

Nhưng đạo tràng Mai Thôn cũng không chỉ để giáo dục cho những người mới chập chững vào đời, hay những người chưa có cơ hội học cái căn bản của bài học vở lòng, bài học làm người. Vì tại đây còn có nhiều người, mà ở ngoài đời đã đổ đạt, đã thành danh đã có một cuộc sống cao sang quyền quý, thế nhưng họ vẫn về Làng Mai để thực tập những bài học như: ăn uống, đi đứng, nằm ngồi... Nhất là những người Tây phương, họ thực tập rất chăm chỉ và cẩn trọng, tinh thần tương kính đối với Tăng thân, với người bạn đồng hành luôn tinh tấn và hài hòa. Như những phương tiện đang giúp cho họ để chuyển hóa khổ đau trở thành an lạc và hạnh phúc. Thấy sự thích thú trong việc tu học của họ, như một năng lực quyến rủ tôi tìm hiểu những điều họ đã tiếp nhận, những điều đang khám phá...

Ông bà chúng ta thường nói: Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Là một xác định về những kinh nghiệm của người xưa, là một ẩn dụ rất quý báu và thiết thực nhất cho chúng ta đi tìm một hướng đi tốt đẹp, một chọn lựa đúng đắn như phương tiện trau dồi thân tâm, để trở thành một con người toàn thiện. 

Nên hôm nay về làng Mai, bắt gặp hình ảnh của một Tăng đoàn rất uy nghi và thanh thoát, vì họ đã trải qua một quá trình xây dựng và tu hành. Thực tập những việc làm công ích, lợi lạc như đang gạn đục khơi trong, chọn lựa những hạt giống tốt lành để trồng vào vườn tương lai, dựng xây cho thế hệ con cháu.

Tôi còn thấy trong lớp Tăng sinh đang đào tạo các vị Giáo thọ, có nhiều vị rất uyên thâm, đã đến phẩm vị Thượng tọa rồi, nhưng khi nhập vào lớp Tăng sinh thì rất bình dị và hài hòa, khi học thì chăm chỉ vào việc học, khi làm việc cũng chia ra từng toán, vị thì xăn tay áo vào bếp nấu nướng, vị thì rửa rau cải..., có vị thì buổi sáng giảng giáo lý cho lớp học chúng tôi nghe, buổi chiều lại đeo găng tay vào nhặt rác, thấy vậy tôi vội vàng thưa, xin Thầy để con làm, thì vị nầy ôn tồn bảo: đạo hữu cứ để Thầy làm để Thầy thực tập luôn thể! Tôi hơi ái ngại trước nghĩa cử cao đẹp, lòng nhân ái của vị tân Giáo thọ nầy, vì xưa nay là hàng Phật tử chưa bao giờ thấy quý vị tài cao đức trọng làm công việc ấy. Nên bây giờ thấy vậy lòng sao không khỏi ngẩn ngơ?

Nhờ vậy mà tôi học được những đức khiêm cung, tính giản dị và lòng an nhẫn nơi các vị nầy, còn học thêm cách đi đứng trang nghiêm trong những bước thiền hành, học ăn uống nghiêm túc trong yên lặng, học nghe tiếng chuông để cho lòng được thanh tịnh, học lễ lạy và tụng kinh để biết đến công ơn Tam Bảo đã dẫn dắt chúng sinh đi đến con đường hiểu biết và thương yêu rộng lớn, cùng khắp.

Vẫn nhịp nhàng theo chương trình tu học hàng ngày, buổi sáng thức dậy ngồi thiền, tụng kinh. Dùng điểm tâm rồi chuẩn bị lên Chùa nghe Thầy giảng Pháp. Ngày thì tại chùa Pháp Vân, ngày thì chùa Cam Lộ, ngày thì chùa Từ Nghiêm. Thực tập thiền hành, rồi ăn cơm chung với đại chúng, thường thì ăn cơm tự do như picnic, nhưng thỉnh thoảng cũng có tổ chức "ngọ trai" theo nghi thức quá đường của lễ Thọ Bát Quan Trai. Buổi chiều trở về lại Xóm mình ở, được làm sáng tỏ bài Pháp Thoại buổi sáng, bằng một buổi Pháp Đàm, nghĩa là luận bàn lại nội dung của bài Pháp, nếu có chỗ nào chưa hiểu thì nhờ quý Thầy quý Sư cô giảng lại, để hiểu thấu đáo rồi đem ra thực tập. Với phương pháp giáo dục phổ thông và giản dị, nên giới nào cũng có thể tiếp thu được. Chương trình Làm Mới cũng là một cách khác, nhằm mục đích học ôn lại những gì mình đã học, nghĩa là đã học được những gì, mình có thể trình bày ra để những người bạn mình bổ túc thêm, cho sự hiểu biết được tròn đầy. Những buổi thực tập Thiền trà cũng giúp cho chúng ta những giây phút an lạc, tạo sự cảm thông và chia xẻ lẫn nhau kinh nghiệm về tu học, về đời sống hàng ngày của chúng ta. 

Sự hòa hợp không phải dễ dàng có được trong một cộng đồng đông đúc, gồm nhiều người tứ xứ, khác biệt về ngôn ngữ, về phong tục tập quán, về văn hóa... Thế mà họ đã dung hòa được tất cả, để trở thành một đại chúng trang nghiêm, thanh tịnh, với tấm lòng yêu thương rộng lớn. Việc cảm thông đôi khi cũng không cần dùng đến ngôn ngữ để mời gọi, không quyến rũ bằng lời đường mật, không có tâm phân biệt phải trái, mà có thể cảm nhận bằng vô ngôn, nói như ngài Nhật Liên là "Vô tình thuyết Pháp", nghĩa là thấy cảnh thanh tịnh thì lòng mình tự dưng được an lạc. Thật vậy, khi gặp gỡ thì chấp tay xá chào nhau rất cung kính, miệng mĩm cười như trao tặng cho nhau những đóa hoa rất đẹp. Hay lúc thực tập đi đứng, các hành giả bước đi rất thảnh thơi trong chánh niệm. Sự kiện có được như vậy chắc chắn họ đã vun trồng và chăm bón cho hạt giống tốt từ nhiều đời nhiều kiếp, nên bây giờ mới có kết quả, mới hái được trái lành.

Từ đó tôi mới biết thực tập sống Chánh niệm là phương pháp rất hay, để hướng dẫn chúng ta trở về và tìm lại "Bản lai diện mục" mà từ lâu bị thất lạc. Vì con người thế tục thì phải bận rộn với nhiều việc ngoài đời, không có cơ hội để tìm lại những gì đã mất. Sống trong Chánh niệm còn giúp cho chúng ta thấy được nhiều điều mới mẽ, nhiều khám phá tân kỳ mà nếu cứ chạy đuổi theo những nhịp điệu của xã hội hôm nay, thì cũng chẳng khác gì người cưỡi ngựa xem hoa, không bao giờ có thể tìm thấy được hồn cỏ cây, thưởng thức được hương hoa quý.

Ngoài việc học đạo mong tìm nguồn an lạc và hạnh phúc cho bản thân để xây dựng gia đình và xã hội, trong khóa tu mùa hè chúng ta còn được tham dự các buổi lễ rất ý nghĩa như lễ Tạ Ơn và Giỗ Tổ, lễ Vu Lan để tưởng nhớ đến công ơn cha mẹ (lễ Bông Hồng Cài Áo) lễ Tưởng Niệm Thuyền Nhân và Anh Hùng Liệt Sĩ chết vì lý tưởng tự do; lễ Tết Trung Thu dành cho các em thiếu nhi. Đối với những người đã đến tuổi trưởng thành, cũng có tổ chức Đám Cưới theo cổ truyền Việt Nam, có cảnh đón rễ rước dâu, từ xóm dưới lên xóm trên, làm lễ Gia tiên, rồi lên Chùa lễ Phật. Chú rễ và cô dâu với áo dài khăn đống, bà con hai họ và xóm giềng cũng thướt tha trong những chiếc áo dài, hay chiếc áo bà ba mặn mà tình sông nước quê hương. Đại Giới Đàn cũng được tổ chức tại Làng Mai, đặc biệt là Đại Giới Đàn Hương Tích được tổ chức vào mùa hè năm 1994, để truyền giới luật cho 32 vị xuất gia (nam khất sĩ và nữ khất sĩ). Quy tụ rất đông Chư tôn đức các quốc gia hải ngoại vân tập về Làng Mai và tham dự vào Hội Đồng Truyền Giới, giới đàn kéo dài trong 9 ngày, rất trang trọng theo nghi thức của Phật giáo. Các buổi lễ đón Giao thừa, cũng được tổ chức rất đầm ấm và đầy đạo vị, có lễ chùa, có hái lọc đầu xuân, có mừng tuổi Thầy và các vị lớn tuổi, có ngâm thơ, bói Kiều và có trao cho nhau những lời chúc phúc trong năm mới.

Buổi lễ nào cũng được diễn ra trong không khí trang nghiêm, ẩn chứa những nét đặc thù dân tộc rất độc đáo, tạo được niềm tin yêu và an ủi cho người Việt tha hương của chúng ta. Vì quê hương bây giờ đã ngút ngàn xa ngái, không còn những ngày rằm mồng một theo mẹ đi lễ Chùa; không còn những đêm trăng thu cùng bạn bè rước đèn đi chơi; không còn những ngày nguyên đán để đốt hương tưởng niệm ông bà tổ tiên, và cũng không còn cái không khí bà con làng xóm để thăm nhau. Nên về Làng Mai cũng là một nơi để sống lại cảnh đầm ấm của gia đình, cái không khí quê hương mà bây giờ đã ngàn trùng xa cách.

Nhiều điều nho nhỏ nhưng cũng vô cùng cảm động, như khi mới đến Làng gặp đồng hương là đã thấy thân thiện rồi, không cần phải biết anh ở quê đâu, chị qua đây lâu mau rồi. Sống chung một thời gian thì lại càng đậm đà hơn, nên khi về thường hay nhắc nhau, nhớ sang năm về làng nghe, hay lời dặn dò của quý Thầy quý Sư cô: nhớ về nhà cố gắng tu tập nghe, là những gởi gắm đầy tình nghĩa thiết thân, đầy tình lưu luyến và sự chăm sóc cho nhau, như cha mẹ dặn dò con cái, như người thân trong một nhà lo lắng cho nhau.

Về Làng mai còn được trao truyền lại một nền Văn hóa Việt, nhất là đối với giới trẻ tiếp nhận rất nhanh chóng, để hội nhập một cách tự nhiên. Ví dụ như các em khoảng mươi mười hai tuổi, các em ở Mỹ, ở Úc ở Canada, hay bên nầy thì ở Pháp ở Đức…, các em mới đến với nhau thì không thể chơi chung được, vì em thì nói tiếng Mỹ, em thì nói tiếng Đức. Nên sau đó các Sư cô nghĩ ra một phương pháp là chọn một ngôn ngữ nào cho các em có thể nói chuyện với nhau được. Và cuối cùng thì các cô đã chọn tiếng Việt, vì nghĩ rằng trong gia đình chắc chắn ba mẹ đã có nói với các em dăm ba câu tiếng Việt. Thế là dùng tiếng Việt để làm tiếng phổ thông cho một nhóm dân “hợp chủng” ấy. Không ngờ là các em đã có cơ hội để khoe “trình đô” tiếng Việt của nhau, và cứ thế thêm, thêm và chỉ trong vòng vài ba ngày là các em đã “thành thạo” và chơi với nhau một cách rất thân mật và tự nhiên.

Tôi còn nhớ có một cậu thanh niên lúc còn nhỏ cha mẹ bận đi làm nên gởi cho một bà người Đức đưa đi học, nên cậu ta không biết nói tiếng Việt. Buổi tối về nhà mẹ chỉ dạy cho dăm ba câu bập bẹ mà thôi. Hiện giờ thì anh ta đang học năm thứ hai Y khoa, được bạn bè cho biết về làng Mai vui lắm, được học thêm nhiều điều bổ ích, và nhất là học về văn hóa Việt Nam. Là một thanh niên trẻ đầy nhiệt tình và thích khám phá những điều mới lạ. Vì nghĩ mình là người Việt mà không biết gì về Văn hóa của dân tộc mình, thì mỗi khi gặp người đồng hương cứ lúng túng, gặp người ngoại quốc thì mình cũng chưa hoàn toàn để hòa nhập vào một cách trọn vẹn. Nghĩ thế nên anh ta theo bạn cùng về làng. Với một con người ham học và yêu mến cội nguồn, nên anh ta cố gắng để học, may nhờ quý thầy cô ở làng dẫn dắt, cộng thêm gặp một người nguyên là nhà giáo, nên anh ta nhờ hướng dẫn về văn phạm cũng như cách phát âm cho chính xác. Chỉ trong vòng một tháng mà anh ta học rất nhanh. Đến kỳ mãn khóa học, anh ta viết một bài cảm tưởng bằng tiếng Việt đọc lên ai cũng cảm động. Dễ thương nhất là anh ta vào phòng khách, điện thoại về cho mẹ để khoe trình độ tiếng việt của mình, vừa nói mấy câu thì nghe bên kia đầu giây mẹ anh đã khóc sướt mướt vì vui mừng. (Viết đến đây tôi nghĩ đến một chuyện vui: Có một cậu bé khoảng mươi tuổi, được mẹ gởi đi vượt biên cùng với gia đình bà bạn. Sang đến xứ người còn điều kiện để tiếp tục duy trì văn hóa Việt, cũng như học hành để có một nghề nghiệp để làm ăn sinh sống. Bây giờ thì cậu ta đã khôn lớn, thỉnh thoảng nhớ mẹ cũng có thể viết một bức thư bằng tiếng Việt gởi về thăm mẹ, và hỏi mẹ có số phôn để thỉnh thoảng gọi về thăm mẹ. Được mẹ cho biết mẹ thì không có, nhưng nhà bà bạn bên cạnh có điện thoại, có thể gọi nhờ. Một hôm anh ta điện thoại về thăm mẹ, vừa nghe được tiếng con thì bà mẹ mừng quá và khóc oà, và bà tiếp tục khóc một hồi khiến cho anh ta nóng lòng quá và hét vào trong điện thoại: Mẹ hảy nói chuyện gì với con đi chứ? Sao mẹ khóc hoài vậy? “Mẹ không nghe tiền nó rơi lộp độp đây sao!”).

Được biết, mỗi năm tại Làng Mai có tổ chức nhiều khóa học, khóa học mùa hè, khóa học mùa thu, khóa học mùa đông..., nhưng chỉ có khóa học mùa hè là quy tụ đông đảo học viên về tu học nhất, vì thuận thời tiết và thời gian nghỉ hè của nhiều người. Còn khóa tu mùa đông thì hầu như chỉ dành riêng cho giới xuất gia, các lớp đào tạo những vị tân Giáo thọ, nên chương trình tu học ngoài phần chuyên môn về Tôn giáo, còn có thêm phần Văn hóa và Lịch sử, để giúp cho Tăng sinh có một trình độ tổng quát.

Song song với việc tu học, Làng Mai cũng đã tổ chức công tác từ thiện để giúp đỡ cho đồng bào từ Nam ra Bắc, nhất là miền Trung vì nơi đây dân tình nghèo khổ hơn hết. Ở thôn quê phần đông trẻ em thiếu dinh dưỡng, do đó dễ nhiễm bệnh vì không đủ kháng thể, nên Làng Mai đã bảo trợ cho nhiều nhóm bác sĩ và y tá về tận các thôn quê hẻo lánh để khám bệnh cho đồng bào, cũng như bảo trợ hàng trăm cô giáo dạy các lớp vở lòng. Hay tổ chức nhiều toán cứu trợ thiên tai bão lụt, đặc biệt là trận bão lụt lớn nhất từ xưa đến nay xẩy ra vào năm 1999 tại bảy tỉnh miền Trung, cũng như trận bão lụt vào năm 2000 tại sáu tỉnh miền đồng bằng sông Cửu Long. Với hình ảnh những người trong các toán thiện chí đi đến tận nơi, giao tận tay cho những người đang ngụp lặn dưới biển nước cả nửa thân mình từng mẫu bánh mì, lon nước suối. Hay đọc những bức thư của quý Thầy và quý Sư Cô ở Việt Nam gởi qua, kể lại tình cảnh của đồng bào đã trải qua thiên tai, đã chịu đựng cảnh khốn cùng nhất, nhưng họ vẫn can đảm sống với nguồn hy vọng và dưỡng nuôi tinh thần ấy như một ý chí để vươn lên. Qua lòng biết ơn sự cứu giúp của đồng hương, từ trong nước ra đến hải ngoại, mà nghe cảm động đến tràn nước mắt!

Chúng tôi chỉ về Làng tu học vào các dịp mùa hè mà thôi, nhưng sống trong bầu không khí an lành và thân thương, luôn thực tập và chia xẻ cùng nhau những kinh nghiệm và sự hiểu biết, với tinh thần tương thân đã giúp cho tôi nhiều điều lợi lạc, để hôm nay tôi mới tìm được một cuộc sống an nhàn tự tại, giảm bớt sự bực bội trong những lúc không vừa ý. Nhờ sống trong khung cảnh thanh tịnh nên thấy lòng mình cũng vơi bớt những lo âu, khắc khoải ở ngoài đời trong một xã hội bon chen, như vẫn tranh nhau trong một cuộc chạy đua bất tận, không bao giờ ngưng nghỉ, không biết mình sẽ đi về đâu và được những gì?!

Nên khi về, tôi đang có rất nhiều hành trang mang theo, một thứ phương tiện rất mầu nhiệm đã giúp cho tôi cảm nhận được cuộc sống mới, lột bỏ tất cả mặc cảm thấp kém, để biết sống với những gì mình có, nên  không bị cuốn theo trào lưu tân tiến, không chạy theo những cám dổ xa hoa, nhờ vậy nên thấy cuộc sống an nhàn và thoải mái. Tôi nguyện sẽ gìn giữ những bài học quý báu, để làm phương tiện trau dồi thân tâm, san sẻ cho những người bạn đồng hành, ngỏ hầu dìu dắt lẫn nhau trên con đường hướng về Chân Thiện Mỹ.

Mấy năm gần đây chúng tôi ít về làng, một phần vì sức khỏe không cho phép lái xe đường xa, mặt nữa lại eo hẹp về tài chánh. Nhưng mỗi lần nghe ai nhắc đến chuyện về làng thì nghe lòng bồi hồi thương nhớ…

Nhớ những mùa hè tại Làng Mai cũng hanh hao nóng bức, nhưng qua khung cảnh của đồng quê, có bóng cây che mát, có mái chùa thân thương, được nghe lời kinh sớm, tiếng chuông chiều, còn có tình đồng hương, có tình đồng đạo mà cảm thấy tâm hồn mát dịu như thời tiết của một ngày chớm xuân, một trời xuân thường hằng, một mùa xuân miên viễn, như mùa xuân của Thiền sư Mãn Giác:

Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai.

 

 

Trần Đan Hà 
Reutlingen, Đức Quốc

TRẦN ĐAN HÀ

 

 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.