Tấm lòng hiếu hạnh
qua tình tự dân gian
Hình
như ca dao là nguồn suối mát ngọt ngào, là bầu không khí thanh
cao, là ngọn gió chiều đưa hương từ hoa đồng cỏ nội, lừng bay
thơm ngát muôn phương, tụ lại để nuôi dưỡng tâm hồn người dân
quê. Có lẽ nhờ vậy mà dân tộc Việt Nam mới có một đời sống bao
dung mà giản dị, đơn sơ mộc mạc nhưng thấm đậm tình người. Tuy
hồn nhiên như cây cỏ lá hoa và hiền lành như những đàn chim bồ
câu trắng, mang thanh bình đến cho nhân loại.
Cho nên thỉnh thoảng chúng ta hay nhắc nhở đến những câu ca dao
như:
Mẹ già như chuối ba
hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau ...
Là chúng ta đã tìm thấy tư tưởng của những người bình dân, họ
giản dị đến chừng nào? Tình cảm họ đơn sơ nhường bao và đời sống
họ cũng an bình biết mấy. Sự giản dị đã đem lại cho gia đình
nhiều an vui, cho cuộc sống những giây phút thanh nhã. Từ đó, xã
hội cũng được thừa hưởng một sự bình đẳng mà không bị áp đặt bởi
một quyền lực nào. Nhưng không phải vì thế mà làm giảm đi giá
trị tinh thần của người mẹ, trái lại họ đã thăng hoa tình mẹ lên
đến tuyệt vời. Họ đã dùng những phẩm vật như: xôi nếp một, chuối
ba
hương và đường mía lau, là những sản phẩm "Quốc hồn quốc
túy" để so sánh với tình mẹ, thì thật là xứng đáng nhất, cao quý
nhất mà có lẽ không gì sánh bằng, không có gì bì nổi.
Công cha như núi Thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Cũng là những thực thể của tạo vật, của vũ trụ có vóc dáng nguy
nga nhất; những mạch nguồn sâu thẳm nhất, uyên nguyên nhất đang
lắng vào, đang đọng lại hòa chung với hồn quê, tình nước để nuôi
dưỡng thiên nhiên, để nẩy mầm sức sống.
Quê hương và tình mẹ luôn bao la như biển cả, nghĩa cha luôn uy
dũng như núi cao, mà ngàn đời đã có không biết bao nhiêu văn
nhân thi sĩ từ đông sang tây ca ngợi. Từ những bậc uyên thâm cho
đến hàng dân dã, từ những ngôn ngữ cao xa trừu tượng, cho đến
tiếng nói bình dân. Mỗi người một vẽ, mỗi tiếng nói có một sắc
thái riêng, nhưng nội dung thì vẫn cùng chung ý nghĩa. Đó là
vinh danh công đức của Tiên Tổ đã dày công xây dựng nên một quốc
gia xã hội, một tiền đồ cho con cháu đến muôn sau.
Như một nhà văn phương tây cũng đã ví von:
"Mẹ và Quê hương là những kỳ quan đẹp nhất thế giới".
Cũng phải, vì ở đời chúng ta được sinh ra và lớn lên, được che
chở trong một mái ấm gia đình, được nâng niu bằng vòng tay của
mẹ, được trìu mến bằng ánh mắt của cha và được học hỏi với thầy
và bạn để trở thành người hiểu biết. Đó là nhờ công ơn của đấng
sinh thành, và những người có liên hệ cũng như trách nhiệm. Cho
nên việc ca ngợi "công đức sinh thành" là dụng tâm để nhớ đến,
dụng ý để báo đền. Dĩ nhiên việc báo đáp công ơn cha mẹ cũng còn
tùy thuộc vào hoàn cảnh của xã hội, trình độ của từng cá nhân,
tập tục của mỗi xứ sở. Nếp sống của con người, phần lớn là hòa
điệu chung với nếp sinh hoạt tại mỗi địa phương, mỗi dân tộc, để
từ đó tạo nên những lề lối, những phong tục, những phương thức
khác nhau, trong vấn đề sinh sống và bảo vệ đời sống (ở phương
Tây, thì họ lấy "xã hội" làm nền tảng cho sinh hoạt đời sống của
họ). Như lúc còn trẻ đi làm việc thì phải đóng những khoản "bảo
hiểm tuổi già" rồi đến lúc về già thì các cơ quan xã hội địa
phương
sử
dụng số tiền của những người đã đóng, thuê nhân viên
điều dưỡng đến săn sóc cho họ, hoặc tại tư gia, hoặc tại một nơi
có nhà dưỡng lão chung cho mỗi điạ phương.
Ngược lại tại Á châu, nhất là dân tộc Việt Nam chúng ta thì lại
lấy "gia đình" làm nền tảng trong việc sinh hoạt đời sống xã
hội. Cha mẹ con cháu đều quây quần trong một mái gia đình, do đó
mà việc phụng dưỡng cha mẹ là bổn phận của những người con.
Sinh hoạt "xã hội" còn tùy thuộc vào nền kinh tế, tùy thuộc vào
thiên nhiên. Như ở phương Tây thì nền kinh tế chính là ngành
công nghiệp, kỹ
nghệ hoá đời sống; còn ở Á đông thì phần lớn
sinh sống bằng ngành nông nghiệp.
Những sinh hoạt về đời sống của con người trong mỗi xã hội, đã
thể hiện qua tâm tình, qua văn chương thi phú, bằng những nét
đặc sắc, với những diễn tả tuy không được trọn vẹn, đối với
nghĩa biển tình sông, đối với công ơn tiên tổ, dù có đôi chỗ
khác nhau về hình thức hay nội dung, nhưng chung quy cũng đều
với mục đích là làm tròn tấm lòng hiếu thảo.
Có lẽ, người Việt Nam chúng ta là một dân tộc thiết tha với Quê
hương và Mẹ hơn ai cả, nhất là những người sinh sống ở miền quê.
Vì họ được sinh ra trong lòng quê hương và lớn lên trong vòng
tay của mẹ. Quê hương đã cho hơi thở, Mẹ đã cho con một hình hài
vóc dáng, hơi ấm và bóng mát của tình thương. Cho nên lòng con
luôn canh cánh một ân sâu nghĩa nặng:
Biết lấy chi đền ơn cho mẹ đặng chừ
Mẹ cưu mang con chín tháng có dư mười ngày.
Mẹ đã lo cho con từng miếng ăn giấc ngủ, từ khi mới lọt lòng thì
mẹ đã: bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn. Đến khi trưởng thành mẹ
vẫn còn lo đủ mọi chuyện, từ việc ăn học đến việc lập gia đình
cho con.
Còn cha gót đỏ như son
Một mai cha mất gót con như bùn.
Tình cha thương con cũng tròn đầy, cũng diệu vợi qua ánh mắt
trìu mến, với tấm lòng độ lượng, mà đôi khi không nói bằng lời.
Nhưng khi thấy con mình vui chơi với bạn, thuận hoà với anh chị
em trong nhà, học hành siêng năng và ngoan ngoãn, thì lòng cha
cũng đã rung lên vì sung sướng, vì hạnh phúc! Tấm lòng của cha
là thế, cần chi phải nói nên lời, cần gì phải diễn tả bằng ngôn
ngữ? Vì ngôn ngữ đôi khi cũng chẳng diễn tả trọn vẹn tình cảm.
Tâm hồn người dân quê họ đã thấm nhuần tình mẹ, đã tận hưởng
nghĩa cha như cây cỏ được tưới tắm bởi nắng mưa, như rong rêu
được đắm mình trong lòng suối mát, như con người và thiên nhiên
đều hòa chung làm một. Thế cho nên dù họ có đi xa, dù không gian
có ngăn cách, dù thời gian có bào mòn tuổi nhớ, nhưng trong lòng
họ vẫn luôn luôn đầy ắp những tình tự yêu thương. Như họ đã và
đang thừa hưởng một gia tài quý báu nhất đó là: Quê hương và Cha
Mẹ .
Ở đây, chúng tôi xin giới thiệu "tình tự" của những người dân
quê, những người được sinh ra với đồng ruộng nương dâu, với lũy
tre, bụi chuối, với luống cải, vườn cà... Những người mà tâm hồn
họ được tắm gội bởi sương sớm gió chiều, bởi hoa thơm cỏ lạ. Do
đó mà họ trở thành những con người đơn sơ như cây cỏ, hồn nhiên
như lá hoa, nhưng lại là những người thiết tha đến nghĩa tình
hơn ai cả: Ăn quả
nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn.
Cho nên họ luôn đối đãi với bậc phụ huynh thì tương kính, thân
thương. Lúc ở gần thì họ mến yêu, săn sóc:
Khó nghèo xé vạt vá vai
Làm thuê nuôi mẹ quản ai chê cười.
Nhưng khi vì hoàn cảnh phải đi lấy chồng xa, thì họ cũng vẫn
luôn nhớ nghĩ về mẹ:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Phận làm con lúc nào cũng thường nghĩ đến bổn phận, mặc dù không
ai bắt buộc mình phải làm như thế nầy, phải
xử
sự như thế nọ.
Nhưng họ vẫn cứ nghĩ đến bổn phận như một nhu cầu cần thiết cho
đời sống. Cho nên họ luôn đo lường theo hoàn cảnh hiện tại của
mình, để làm cái bổn phận thiêng liêng đó:
Công cha nghĩa mẹ tầy non
Có chi trả nấy đạo làm con không nài.
Hay là:
Ơn thầy đồng núi, nghĩa mẹ đồng non
Trả chừng mô hay chừng nấy, chớ đạo làm con không biết chừng.
Việc đền đáp công ơn cha mẹ, đối với người dân quê họ cũng không
cần đắn đo suy xét, không cần nghĩ đến danh giá của mình, miễn
sao làm cho bậc song thân vui lòng là họ cũng đã mãn nguyện lắm
rồi:
Mẹ già ở túp lều tranh
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con.
Trong tinh thần gắn bó với tình nghĩa cha mẹ, yêu mến nơi chốn
đã sinh trưởng, có nhiều kỷ niệm để nâng niu thì người ta không
muốn đi xa, cho dù phải đi theo tiếng gọi của con tim:
Mẹ ơi đừng gã con xa
Chim kêu vượn hú biết nhà mẹ đâu!
Sự quyến luyến với cha mẹ, với quê hương nên không ai nỡ
xa, vì
lòng luôn lo lắng:
Ra đi bỏ mẹ ở nhà
Gối nghiêng ai sửa, chén trà ai bưng?
Vì thế mà đôi khi đối với tình cảm lứa đôi, người con gái cũng
xem nhẹ:
Ơn thầy nghĩa mẹ tào khang
Em đây chưa trả nổi, huống chi chàng người dưng?
Với tất cả tấm lòng của người con đối với cha mẹ, là chỉ lo cho
tròn chữ hiếu, đôi khi không màng đến chuyện hạnh phúc tương lai
của riêng mình, mà đành chấp nhận sự chọn lựa và đặt để về hôn
nhân, về tình cảm lứa đôi như một định luật:
Thầy mẹ đặt gióng sửa triêng
Phải sao chịu vậy chớ trùng triềng mà đau vai !
Nhiều khi vì nặng tình hiếu thào với cha mẹ, cũng đành từ chối
chuyện gió trăng, hẹn hò gái trai, hay chuyện tương lai của đôi
lứa:
Ai bưng trẩy rượu đến đó, chịu khó mang về
Em đây còn theo chân thầy gót mẹ cho đặng bề hiếu trung.
Nỗi phân vân với hiếu trung vẫn luôn thao thức không vơi, vì
tình nghĩa của cha mẹ như nước trên trời rơi xuống, chứ có khi
nào chảy ngược về nguồn. Thế nên đạo làm con luôn nghĩ đến, nhắc
nhỡ nhau hoài:
Biết lấy chi đền ơn trả thảo, kẻo bên ướt mẹ nằm, bên ráo con
lăn…
Hai đứa mình tính liệu mần răng
Lên non tạc đá xây lăng phụng thờ.
Hay là:
Ơn ba năm nhủ bảo sao không ai biết
Nghĩa mẹ chín tháng dưỡng dục thiên hạ đều hay
Chàng ơi, biết lấy chi mà đền công ơn thầy mẹ
Kẻo uống đắng với nuốt cay bao tháng ngày?...
Ân nghĩa cha mẹ cao vời như vậy, nhưng họ cũng tìm cách nào hợp
tình hợp lý để báo đáp. Chừng mực nào đó tùy theo khả năng và
hoàn cảnh của từng người, chứ họ cũng không phải hy sinh thân
mạng của mình (như trong các chuyện cổ tích ngày xưa) để báo
hiếu, vì họ cũng còn nghĩ rằng mình gìn giữ được thân tâm cho
chính mình, tự bảo đảm lấy đời sống của mình, thì đó cũng là
niềm vui của cha mẹ, mà khi cha mẹ được vui, được hạnh phúc thì
cũng là một phương pháp báo hiếu vậy. Vì cha mẹ nuôi con thì
cũng mong cho con khôn lớn nên người, mong cho con mình được
hạnh phúc:
Trồng cây cũng muốn cây xanh
Nuôi con cũng muốn con thành thất gia.
Khi con mình trưởng thành, có gia thất, cha mẹ lại muốn đông
con, nhiều cháu để nối dõi tông đường!
Tấm lòng bao dung ấy của cha mẹ thật là vô bờ bến, nó còn nhắc
nhở cho chúng ta biết bao nhiêu kinh nghiệm của đời sống, cần
phải xử
sự như thế nào cho phải Đạo làm người. Thì cũng chính
những kinh nghiệm của cha mẹ đã cho chúng ta biết được bổn phận
:
Lên non mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao mẫu từ.
Học được từ những kinh nghiệm ấy của cha mẹ, cho nên người dân
quê họ cũng đã biết tạo những sản phẩm sẵn có nơi đồng quê, để
cung phụng cho cha mẹ hầu báo đáp ân sâu:
Tôm hùm bóc vỏ
bỏ đuôi
Gạo de An cựu em nuôi mẹ già.
(ca dao thuộc tỉnh Thừa thiên, biển Thuận an có nhiều tôm hùm,
loại tôm rất lớn và cánh đồng An cựu trồng toàn loại lúa de,
loại lúa gạo rất dẻo và thơm).
Đói lòng ăn đọt chà là
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.
Sự quan tâm đến sức khỏe của cha mẹ, cũng đã nói lên những tấm
gương sáng về tấm lòng hiếu hạnh của những người con.
Không những chỉ nuôi dưỡng song thân bằng vật chất, mà còn nghĩ
đến lãnh vực tinh thần nữa. Họ luôn nghĩ đến hiện tại phải làm
thế nào cho cha mẹ mình vui lòng, như luôn thăm viếng, hỏi han
chẳng hạn, những việc đơn giản nhất, cốt sao cho cha mẹ mình
hạnh phúc, an vui.
Việc ngợi ca tình mẹ đối với người dân quê Việt Nam, đôi khi
không chỉ nằm trong phạm vi tình nghĩa của cha mẹ mình, mà còn
nâng cao tinh thần cha mẹ trở thành một biểu tượng chung:
Mẹ già là mẹ già chung
Em lo cơm cháo anh cùng thuốc thang.
Tình nghĩa vợ chồng là chung hợp, cho nên họ xem cha mẹ là tình
chung (tứ thân phụ mẫu = cha mẹ bên vợ hay bên chồng, cũng đều
là cha mẹ của mình cả), nên việc phụng dưỡng, hay tình thương
yêu đều tôn trọng ngang nhau. Đã cùng chung huyết thống, cùng sự
hoà hợp giữa tình cảm liên hệ mật thiết với nhau, nên việc dung
hợp tình cảm giữa cha mẹ đôi bên, cũng phát xuất một cách tự
nhiên, đôi khi còn rộng rãi bao la hơn:
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Hay hơn nữa là Bà Mẹ của dân tộc Việt Nam (như trong huyền thoại
con của Mẹ Âu Cơ) nhờ vậy mà con cháu mới xem nhau bằng tình
nghĩa đồng bào:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
(Tình nghĩa đồng bào cũng là nền văn hoá đặc thù của dân tộc
Việt. Tuy là huyền thoại, nhưng cũng là dấu ấn đã in đậm trong
lòng mọi người, thế nên tình cảm ấy vẫn luôn khắng khít keo sơn,
vẫn luôn ràng buộc bằng một sợi giây vô hình nhưng bền vững)
Trong thế giới văn minh ngày nay, con người đang chạy đuổi theo
những công trình làm thăng hoa vật chất, dùng những tiện nghi
vật chất để thay thế những công việc, mà đáng lẽ con người phải
cần đến, phải tự tay mình làm (như săn sóc và an ủi cha mẹ lúc
về già, thì phải bằng tình cảm của người con, bằng một hành động
cụ thể của con người, chứ không thể dùng những loại máy móc tinh
vi nào để thay thế). Hay thiên nhiên cũng bị ảnh hưởng đến những
nét tự nhiên, như ngăn sông xẻ núi, đã làm mất đi những nét uy
dũng của núi rừng, làm vơi đi những nét thơ mộng của sông hồ,
biển cả! Bởi vì trí óc và bàn tay của con người đôi khi cũng có
hạn, tuy có thể xây dựng nên những kỳ quan trên thế giới, nhưng
xét cho cùng thì những thứ ấy cũng chỉ là những vật vô tri vô
giác mà thôi, làm sao thay thế được tình cảm của con người.
Những "kỳ quan" của thế giới tuy có lộng lẫy thật, nguy nga
thật, nhưng đôi khi giá trị tinh thần không bằng: “xôi nếp một,
chuối ba
hương và đường mía lau” vì những thứ nầy là tình quê,
hồn nước là tấm lòng của thiên nhiên. Mà người dân quê Việt Nam
đã xữ dụng để so sánh với tình mẹ, thì thấy tuyệt vời biết mấy,
cao quý dường nào, phải không?
Cho nên, đôi khi tìm về với tâm tình của những người dân dã, tìm
về với nếp sống nơi đồng quê, đã chứa đựng trong ca dao của mẹ,
để tận hưởng dòng suối mát kia, để soi lại hình hài năm xưa, để
còn thấy chúng ta vẫn là con của mẹ. Cũng là một cách tìm về cội
nguồn, tìm về với những niềm an lạc cho cuộc đời. (vì ý niệm trở
về, không phải là tìm về với một chốn nào, cội nguồn không phải
chỉ mọc rễ một nơi, nếu lòng người không còn cưu mang một chút
"tình nghĩa")
Nói như vậy, không phải chúng tôi muốn phủ nhận tinh thần văn
minh của nhân loại; mặt khác cũng không phải muốn so sánh nếp
sinh hoạt giữa đông tây, vì mỗi dân tộc, mỗi địa phương đều có
những nét
đặc thù riêng, những khám phá mới mẻ khác nhau. Mà
không thể thay thế cho nhau được. (Ví dụ như mỗi loài hoa đều có
một nét đẹp khác nhau: hoa cúc thì có nét kiêu sa nhưng nhu mì,
hoa vạn thọ thì có nét vương giả, hoa hồng thì tượng trưng cho
tình yêu, hạnh phúc… nhưng không bao giờ có thể thay thế cho
nhau được.)
Mà ở đây chúng tôi chỉ muốn giới thiệu một vài nét về nền văn
học dân gian của dân tộc Việt, ngỏ hầu đem lại một đôi phút giải
trí, mà trong chúng ta, có thể cũng có một số người chưa có cơ
hội để tìm về, để nhìn xem "một cánh hoa cỏ dại" chỉ mọc nơi
đồng nội mây ngàn; chỉ vui với nắng chiều sương sớm, chỉ sống
một cuộc đời an phận thủ thường. Tuy cũng là một trong những
loài hoa của thiên nhiên, nhưng thiếu may mắn, kém nhân duyên để
phô khoe hương sắc!
Reutlingen, mùa Vu Lan báo hiếu.
Trần Đan Hà |