Nhất tự
vi sư
“Nhất
tự vi sư. Bán tự vi sư”.
Ai từng cắp sách đi học, dù có học chữ Hán hay không, thế nào cũng
từng được một lần nghe câu đó. “Một chữ cũng là thầy. Nửa chữ cũng
là thầy”, ý nói, người dạy ta, dù ít dù nhiều, ta đều phải tôn kính
là thầy.
Thuở xưa, khi còn là thời của những cụ đồ nho, trao truyền chữ Hán
cho học trò, thầy thường nghiêm minh lắm! Với lứa học trò nhỏ, lớp
học không thể thiếu cái roi mây để răn đe những trò lười biếng. Với
lớp tuổi lớn hơn chút thì cái roi mây dùng để đập mạnh xuống sàn,
cùng với tiếng quát “Ra kia, quỳ xuống!” khi trò không thuộc bài!
Thầy càng nghiêm khắc thì trò càng mau tiến bộ, và cha mẹ học trò
thường thành tâm, khúm núm ôm trái dưa to nhất giàn, bó rau tươi
nhất vườn, củ khoai ngọt nhất luống, mà họ chăm sóc, chờ ngày mang
biếu thầy để tỏ lòng biết ơn.
Thời đó đã xa, ơn nghĩa và tình thầy trò nay đã khác, do môi trường
và hoàn cảnh nên hình thức biểu lộ cũng khác theo.
Ấy thế mà trong thời gian an cư kiết đông ở Làng Mai, chúng tôi được
sống lại với tình thầy trò xa xưa ấy.
Một, trong ba vị ni sư được mời từ Việt
Nam
sang dự Đại Giới Đàn là sư thầy Đàm Nguyện đã tình nguyện dạy chữ
Hán cho những ai muốn học. Thời khóa của chúng tôi đã dầy kín nên
muốn dự lớp này, chúng tôi phải thu xếp để có mấy tiếng đồng hồ vào
sáng thứ hai, tức là ngày-làm-biếng, và buổi chiều thứ năm, sau khi
hoàn tất ngày-quán-niệm.
Thầy đã sẵn sàng dạy, lý nào trò lại chưa sẵn sàng học. Lớp học này,
cả thầy lẫn trò đều tự nguyện nên thoải mái lắm!
Địa điểm thầy trò cùng đồng ý là thiền đường Mây Thong Dong, ở trên
lầu, xa khu nhà ăn, nhà bếp nên rất yên tĩnh.
Buổi học đầu có khoảng hơn hai mươi sư cô, như sư cô Trình Nghiêm,
Nhẫn Nghiêm, Khiết Nghiêm, Trang Nghiêm, Thượng Nghiêm, Tạng Nghiêm,
Hành Nghiêm, Hướng Nghiêm, Duệ Nghiêm, Huệ Hạnh, Liên Thanh v.v…
Chúng tôi trải bồ đoàn, ngồi ngay ngắn, ôm tập, bút rồi nhìn nhau.
Học chữ Hán, chắc chắn phải học viết nữa, không có bàn, làm sao
viết? Chữ Việt còn viết thảo, viết ngoáy được chứ chữ Hán chưa biết
đâu vào đâu mà viết ngoáy, chỉ thiếu hay sai một nét là sai hẳn
nghĩa, nhiều hy vọng ăn roi mây ngay!
Vấn đề bảng thì dễ hơn vì chúng tôi có thể xử dụng cái bảng nhỏ, vẫn
dùng để ghi những thông báo sinh hoạt. Cái bút để Sư Thầy viết bài
cũng là loại bút mực dùng cho loại bảng đó. Nghĩa là lớp chữ Hán tùy
cơ ứng biến, có gì xài nấy! Tội nghiệp Sư Thầy, khi viết bài cho
trò, thầy gần như phải quỳ xuống vì cái bảng chỉ có thể kê trên hai
cái ghế, chứ kê cao hơn cho vừa tầm người đứng thì không an toàn.
Buổi đầu tiên, tôi tưởng sẽ được học câu “Nhân tri sơ là sờ tí mẹ.
Tính bản thiện là miệng muốn ăn”, nhưng không phải! Bài đầu tiên là
học đọc và viết từ một đến mười, rồi sẽ suy ra từ mười một đến mười
chín, rồi từ hai mươi đến chín mươi chín, rồi một trăm, một ngàn,
một vạn, một ức …
Học trò phấn khởi lắm, vì cảm thấy tương đối dễ. Nhất là một, nhị là
hai, tam là ba, thập nhất là mười một, thập nhị là mười hai, nhị
thập là hai mươi, tam thập là ba mươi, cửu thập là chín mươi ….
Khi Sư Thầy viết xong bài lên bảng, thầy phán:
- Cần cái thước dài.
Chúng tôi nhìn nhau, trong mắt ai cũng có hình bóng cái roi mây. Sợ
quá! Có lẽ, cũng tâm trạng này nên sư cô Trình Nghiêm chạy quanh một
lúc rồi mang về một cái que … ngắn ngủn! Sư Thầy bảo:
- Không được! Phải dài hơn mới chỉ từng chữ cho mà đọc được.
À, ra thế, cái thước dài để chỉ chữ cho đọc chứ không phải để đánh
cho đau. Yên tâm thế rồi, sư cô Liên Thanh nhanh nhẹn đứng dậy, tìm
ra ngay một cái thước dài, không khó khăn gì!
Sư Thầy chỉ thước vào từng chữ, trò đọc theo thầy, vang vang thiền
đường Mây Thong Dong. Lúc đó, nếu có đám mây nào bay ngang, chắc mây
cũng cảm thấy hào hứng mà đọc theo.
Khi bắt đầu chép bài trên bảng vào tập riêng, chúng tôi giải quyết
vấn đề bàn viết bằng cách quỳ nửa người trên sàn để cái sàn trở
thành cái bàn thì mới viết được. Khi nhìn chúng tôi hý hoáy, bặm
môi, trợn mắt viết trong tư thế như vậy, chắc Sư Thầy buồn cười và
cảm động lắm!
Đang viết ngon lành được nửa bài thì tôi bỗng có cảm tưởng cái lưng
tôi đang được sư cô ngồi sau biến chế thành … cái bàn! Ối trời ơi,
thật là một sáng kiến độc đáo.
- Thì đằng nào sư cô cũng đang nằm bò rồi, cái lưng để uổng làm chi,
trở thành cái bàn có ích lợi hơn không?
Nghe hữu lý như thế, cái lưng nào phía trước mà từ chối thì thật là
… vô lý! Nên dãy lưng của học trò hàng đầu, lập tức thành bàn viết
của học trò hàng thứ hai; và dãy lưng hàng thứ hai trở thành bàn
viết của học trò hàng thứ ba. Chỉ học trò ngồi hàng đầu là phải … hy
sinh thôi! Tôi ở trong đoàn người dũng cảm hy sinh này vì đôi mắt đã
mơ huyền (mờ), luôn ngồi phía trước để nhìn cho rõ chữ.
Rất tiếc, chúng tôi không mang máy hình lên lớp học, chứ không thì
thầy Pháp Liệu thế nào cũng có hình ảnh độc đáo này cho Lá Thư Làng
Mai.
Buổi học đầu, tương đối chữ không rắc rối lắm, vậy mà cũng có lúc
thầy chỉ chữ nọ, chúng tôi xướng chữ kia! Đọc sai mà còn cười ầm
lên! Sư Thầy bèn cảnh cáo:
- Hôm nay là buổi đầu tiên, cho cười. Từ buổi học sau là phải hết
sức nghiêm túc, có nghiêm, chữ mới vào.
Quả thật, chúng tôi thuộc loại “chưa thấy quan tài, chưa đổ lệ”.
Nghe thầy răn thế thì dạ dạ, vâng vâng nhưng buổi học sau, chữ và
nghĩa đều khó hơn, tha hồ mà lộn chữ nọ ra chữ kia, mà đã đọc sai
thì tự cảm thấy buồn cười lắm, không thể nào nín được! (Những lúc
đó, chắc sư cô Liên Thanh thầm hối hận, sao lại tìm cây thước dài và
to vậy? Nếu phải ăn đòn, chắc cũng thấm thía đây!)
Chúng tôi tưởng lớp học tình nguyện thì cứ tùy duyên, học được bao
nhiêu hay bấy nhiêu thôi, nhưng với kinh nghiệm từng giảng dạy, Sư
Thầy khuyên là phải tự nghiêm túc với mình, đừng nghĩ đây là môn phụ
thì mới cố gắng và quyết tâm học. Đằng nào cũng bỏ những thời giờ
hiếm hoi để lên đây, chớ lơ là mà uổng phí.
Sư Thầy rất thương yêu mà nhắc nhở như thế nhưng môn học này quá mới
mẻ đối với đa số chúng tôi nên tự nhủ cách mấy cũng không thể không
cười khi Sư Thầy chỉ chữ Hoàn là Viên mà trò lại xướng Cửu là Lâu;
hoặc Chỉ là Chưng lại trả lời thành Phạp là Thiếu! Rồi còn phải tập
viết, thầy viết mẫu cho hai giòng vào tập của mỗi người, phải tập
viết đầy trang, những chữ ấy và nộp vào buổi học sau để thầy cho
điểm. Trong lớp, sư cô Chân Trang Nghiêm được điểm cao nhất là 6
điểm. Tôi cũng được Sư Thầy cho 6 điểm nhưng suy nghĩ lại, thầy bảo
“Đưa tập đây” rồi thầy vừa sửa số 6 thành số 5, vừa nói
“Chưa được, 5 điểm thôi!” Cũng có sư cô nộp bài, thầy bảo
“Viết xấu quá, không có điểm! Về viết lại đi, tuần sau nộp!”.
Tôi không dám điểm danh những sư cô nào không có điểm, sợ mai kia
mốt nọ gặp lại nhau, các sư cô sẽ trách “ Ai hỏi mà khai kỹ vậy?”
(Hi! Hi! Hi! Cái tật hay đùa của con, các sư cô Xóm Mới biết rồi
mà!)
Chỉ qua mấy buổi học, chúng tôi đã được Sư Thầy dạy cho biết đại
cương một số chữ căn bản ở Bộ Nhất, Bộ Cổn, Bộ Chủ, Bộ Phiệt, Bộ Ất,
Bộ Quyết, Bộ Nhị, Bộ Đầu, Bộ Nhân, Bộ Nhập, Bộ Bát. Mỗi buổi học mỗi
khó hơn và chúng tôi phải tranh thủ thêm nhiều thì giờ hơn để học
bài và tập viết. Hình thức trả bài cũng … đau tim lắm! Sư Thầy gọi
đích danh từng trò lên bảng, đọc nghĩa bằng tiếng Hán và tiếng Việt
bài học hôm trước xong, viết chữ lên bảng rồi tự cầm thước, chỉ chữ
tới đâu, đọc tới đó! Có khi viết được chữ đúng thì lại đọc sai, hoặc
ngược lại! Chúng tôi cố gắng “Leo đồi thế kỷ” (danh từ của Sư Ông
Làng Mai) cho đến thời gian các sư cô bắt đầu phải chuẩn bị cho
những ngày Lễ, Tết như Lễ giáng sinh, Tết dương lịch, Tết âm lịch,
thì chúng tôi đành thưa với thầy xin … xuống đồi vì nhiều sư cô
không thể tìm đâu ra thì giờ để học bài nữa! Riêng tôi, không tham
gia một tiết mục văn nghệ nào trong các ngày lễ ấy (vì biết gì đâu
mà tham gia), tiếc rẻ lớp học, nên ôm tập tới trước phòng Sư Thầy,
rụt rè gõ cửa để … xin chữ. Sư Thầy hoan hỷ lắm, mở rộng cửa, bảo:
- Sư cô Huệ Trân hả? Vào đây, nào, muốn gì đây?
- Thưa Sư Thầy, xin Sư Thầy cho con thêm ít chữ để con tự học. Con
không phải tập văn nghệ nên con cũng có chút thì giờ học tiếp. Nhưng
mà, Sư Thầy có bận không?
Sư Thầy cười rất tươi và rất từ bi:
- Tôi mà bận gì! tới đây được Sư Ông nuôi ngày ba bữa, có phải làm
gì đâu!
Tất nhiên, Sư Thầy nói thế cho vui chứ sự hiện diện của quý ni sư
nơi đây là những bài-pháp-sống cho hàng hậu học, vô giá và vô hạn.
Có lẽ vị thầy nào gặp đứa học trò muốn học cũng hết lòng nâng đỡ.
Tôi là đứa học trò dở, nhưng muốn học nên trong cuốn tập mầu xanh
mua ở quán sách Xóm Mới đã được Sư Thầy viết đầy kín gần mười trang,
chữ Hán bằng mực đỏ, nghĩa Hán Việt bằng mực xanh cho dễ thấy.
Khi tới nhận lại tập, tôi hoa cả mắt, không biết bao giờ mới thuộc
nổi ngần này chữ! Vậy mà, sau khi nhận tách trà, Sư Thầy thản nhiên
phán rằng:
- Về học đi, rồi hôm nào sang đây trả bài nhé!
Tôi nghe tiếng “Dạ” của mình như có nắm sỏi nhỏ, lăn lạo xạo trong
cuống họng. Để trốn trả bài chữ Hán, chắc phải chạy sang Tầu mất
thôi!
Ngày tạm biệt Sư Thầy, về lại Hoa Kỳ, tôi quỳ xuống, toan đảnh lễ
tam bái để tỏ lòng biết ơn, nhưng Sư Thầy và ni sư Từ Nhu quyết liệt
ngăn lại. Nhị vị cùng bảo, đừng làm thế, có nhớ tới các vị thì cố
gắng tu học, đừng tưởng đời người trăm năm mà chỉ là chớp mắt thôi.
Không bỏ phí phút giây nào, chính là trả ơn Thầy, Tổ đó.
“Nhất tự vi sư. Bán tự vi sư”,
huống chi con đã nhận được cả một trời thương yêu mà ngàn trang sách
cũng không ghi xuống hết, vì chữ nghĩa, dù bao nhiêu cũng vẫn còn
giới hạn. Tình thương và lòng từ bi theo tinh thần Phật dạy mới vượt
mọi biên cương để dẫn dắt chúng sanh đến bờ Giác Ngộ.
Huệ Trân
(Cốc Thảnh Thơi – Tháng Ba 2008) |