Từ nhãn thị chúng sanh
“Cụ nhất thế công đức
Từ nhãn thị chúng sanh
Phước tụ hải vô lượng
Thị cố ưng đảnh lễ”
. |
Đây là lời tán thán Đức Bồ Tát Quán Thế Âm trong kinh Phổ Môn. Bài
tán dạy rằng, với công đức đầy đủ, Ngài nhìn khắp chúng sanh bằng
đôi mắt từ ái, sẵn sàng đáp lại tiếng kêu thương. Trước biển phước
vô lượng như thế, chúng ta đều cung kính đảnh lễ.
Theo truyền thuyết, Bồ Tát Quán Thế Âm bắt đầu tu bằng cách lắng
nghe. Ngài thường đến ven biển, ngồi trên ghềnh đá, lặng thinh nghe
tiếng sóng vỗ ầm ì. Từng đợt sóng lớn nhỏ xô đẩy nhau, dạt vào bờ
tạo ra những chuỗi âm thanh vỡ vụn, khi như reo vui, lúc lại như nức
nở. Tai (căn) nghe tiếng sóng (trần) tâm xôn xao (thức) khiến đôi
lúc Ngài không giữ được tâm thanh tịnh. Ngài bèn rời biển, đi vào
rừng sâu, thiền định nơi thật khuất vắng, nhưng lạ thay, âm thanh
của sóng biển rì rầm vẫn văng vẳng bên tai.
Ngài biết rằng âm thanh này chẳng phải thực âm thanh mà chỉ là những
chủng tử đã rơi vào tàng thức; rồi, vì Ngài đang chú tâm vào cách
lắng nghe nên những chủng tử này đã thức dậy. Chủng tử này chính là
cái Duyên khi Căn gặp Trần và nảy sanh ra Thức.
Căn gặp Trần tựa như hóa chất kết hợp nhau. Tùy hóa chất đó là gì
thì sẽ sanh ra Thức phù hợp theo (mắt thấy đóa hoa tươi, khởi niềm
yêu thích; tai nghe tiếng sấm chớp thì sợ hãi v.v…) Đó là Căn duyên
theo Trần mà tạo ra Thức phân biệt (đẹp, xấu, vui, buồn, yêu, ghét
…) Vậy, muốn buông xả tâm cảnh là phải quán sát thực thể của chúng,
thay vì nhắm mắt làm ngơ.
Ngài bèn quay lại bờ biển, ngồi trên ghềnh đá cũ, lại nghe sóng biển
xô đẩy nhau nhưng nay nghe bằng sự quán sát kỹ lưỡng. À, sóng có
cao, có thấp, có lớn, có nhỏ, đuổi nhau từng lớp, ập vào bờ, tạo ra
âm thanh lúc dịu dàng, lúc dữ dội. Sóng chẳng phải tự nhiên thành mà
do duyên theo gió. Gió lớn tạo sóng to, gió nhẹ tạo sóng nhỏ. Nếu
không có gió thì chẳng có sóng. Nghĩa là, sóng đến và đi là theo
duyên của gió chứ tự thể nước vốn không động, không tịnh, cũng chẳng
đến, đi!
Quán sát được điều này Ngài không để tâm mình duyên theo âm thanh
của sóng nữa. Sóng đến, tâm không động; sóng đi, tâm không theo vì
khi ấy Ngài không còn nghe bằng nhĩ căn nữa mà nghe bằng TÁNH-NGHE,
Căn gặp Trần không còn khởi Thức nữa nên Tánh-Nghe đã nghe được cả
sự tĩnh lặng vì sự sinh diệt, đến đi của âm thanh hoàn toàn không
lay động tới Tánh-Nghe.
Duy Thức Học đặt dấu mốc này là Bình-Đẳng-Tánh-Trí, là không còn
Thức nữa, chỉ còn Trí.
Một lần, Đức Phật muốn dạy đại chúng về Tánh-Nghe này nên bảo La Hầu
La đánh một tiếng chuông, rồi Đức Phật quay sang hỏi ngài A Nan:
- Ông có nghe không?
Ngài A Nan và đại chúng thưa:
- Da, chúng con có nghe.
Chờ âm vang của tiếng chuông dứt hẳn, Đức Phật mới hỏi:
- Ông có nghe không?
Ngài A Nan và đại chúng thưa:
- Dạ, chúng con không nghe.
Đức Phật lại bảo La Hầu La đánh một tiếng chuông nữa rồi hỏi ngài A
Nan:
- Ông có nghe không?
Ngài A Nan và đại chúng thưa:
- Dạ, chúng con có nghe.
Bấy giờ Đức Phật mới giảng giải:
- Này A Nan, ông đang lầm lẫn giữa NGHE và TIẾNG. Khi tiếng không
còn âm vang, ông nói là “không nghe”. Nhưng nếu thực ông không còn
khả năng nghe thì sao khi tiếng chuông thứ hai ngân lên, ông lại
nhận biết? TIẾNG trong CÁI NGHE tự nó sanh diệt là do âm thanh khi
có, khi không; còn cái NHẬN BIẾT ÂM THANH có hay không, thì bất sanh
bất diệt. Đó chính là TÁNH NGHE. Chớ lầm cái Tiếng thành cái Nghe mà
dễ đưa tới sự lầm khác là cái Thường ngỡ là cái Đoạn!
Do công phu quán sát và tu tập cách an trú trong Tánh Nghe mà Bồ Tát
Quán Thế Âm đã lập ra pháp môn “NHĨ CĂN VIÊN THÔNG”, từng được ngài
Văn Thù Sư Lợi vâng lời Đức Phật, chọn là pháp môn thù thắng nhất
trong các pháp môn của hai mươi lăm vị Bồ Tát lớn.
Với đại nguyện cứu khổ cứu nạn chúng sanh, Bồ Tát Quán Thế Âm đã vận
dụng Tánh Nghe vi diệu của bậc Đại Trí, dõi mắt thương nhìn khắp
chúng sanh, lắng nghe tiếng kêu thương của ba cõi sáu loài dù những
tiếng kêu thương đó hữu thanh hay vô thanh, Ngài thường tùy biển khổ
mênh mông mà hóa hình cứu độ.
Du khách tới Nhật Bản, nếu ghé quần đảo Osaka, có thể ngạc nhiên khi
tình cờ nhìn thấy tượng Bồ Tát Quán Thế Âm được an vị trang trọng
trong một ngôi nhà thờ. Đây là chứng tích mầu nhiệm, kỳ diệu của tấm
lòng Bồ Tát đã lắng nghe và đến với mọi nơi trong cơn nguy khốn.
Tại Nhật Bản, thời Mạc Phủ cai trị, chính quyền rất kỳ thị Thiên
Chúa giáo. Các nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha thường xuyên sống
trong hồi hộp, lo sợ vì sự truy lùng. Khi chính quyền biết tin quần
đảo
Osaka
còn một nhà thờ mà dân chúng đang được truyền đạo thì họ đã ra lệnh
cho quân đội tới nơi, không chỉ tàn sát các nhà truyền giáo mà còn
tàn sát cả những ai theo đạo. Được tin đó, cha xứ vô cùng hốt hoảng,
không biết làm gì hơn là cùng với giáo dân, ngày đêm cầu nguyện Mẹ
Maria. Một lần, quá mệt, cha xứ ngủ thiếp đi. Trong cơn nửa tỉnh nửa
mê, ông thấy một người nữ hiện ra rực rỡ trên bầu trời ảm đạm, trên
tay cầm bình tịnh thủy, nhẹ nhàng rưới khắp quần đảo. Vì đã từng
nghiên cứu về Đạo Phật nên ông biết vị hiện ra trong giấc mơ là Đức
Bồ Tát Quán Thế Âm chứ không phải Mẹ Maria, và bình nước trên tay
Ngài là nước Cam-lộ xoa dịu thương đau.
Choàng dậy, ông hướng lên trời cao tạ ơn Bồ Tát. Ông đã hiểu ý lời
chỉ dạy cứu nguy của Ngài nên vội vã cùng các giáo dân phác họa và
cấp tốc dựng tôn tượng Đức Quán Thế Âm đơn sơ trước sân giáo đường,
rồi huy động mọi người đến quanh tôn tượng, cầu nguyện và quỳ lạy
như hình thức Đạo Phật.
Khi quân lính của chính quyền đổ bộ vào quần đảo, họ chỉ thấy dân
chúng đang kính cẩn lạy Mẹ Quán Thế Âm, chứ hình tượng này nào phải
là Mẹ Maria của đạo Thiên Chúa!
Đây chắc do tin tức sai lầm nên họ lẳng lặng bỏ đi, sau khi đã quan
sát và chiêm ngưỡng tôn tượng Bồ Tát.
Hiện tượng hy hữu thờ Bồ Tát trong nhà Chúa là do dữ kiện lịch sử
này, chứng minh với tâm từ bi và năng lượng nhiệm mầu, linh hiển mà
Bồ Tát Quán Thế Âm đã kịp thời cứu vớt sinh mạng hàng ngàn người vô
tội.
Nương lời kinh tán thán công đức vị Bồ Tát ngàn mắt ngàn tay, hàng
Phật tử chúng con, năm vóc sát đất, cung kính cúi đầu đảnh lễ:
“Nam Mô Đức Quán Thế Âm
Vẹn toàn công hạnh, ân thâm cao dày
Cam-lồ nước mát trên tay
Tưới lên sân hận dịu ngay oán thù
Nhiệm mầu thay, nhánh liễu tơ,
Nhẹ nhàng phẩy sạch nhuốc nhơ bụi trần
Tai lắng nghe, mắt thương nhìn
Xót đau cùng khắp sinh linh ta-bà
Nơi tận khổ, Ngài hiện ra
Từ bi cứu độ hằng hà trầm luân
Công vô lượng, Đức vô ngần,
Làm sao báo đáp muôn phần từ tâm!
Nam Mô Đức Quán Thế Âm.”
NAM
MÔ QUÁ KHỨ CHÁNH PHÁP MINH
HIỆN TIỀN QUÁN TỰ TẠI
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT.
Hạnh Chi
(Độc-Cư-Am, Xuân muộn 2009)
|