Con đường
thăng hoa tâm linh
Thượng Tọa Narada Mahathera, người từng bầy tỏ lòng qúy kính sâu sa
đối với Đức Phật Cồ Đàm qua tác phẩm The Buddha đã nhận xét và dẫn
chứng sự quan sát của nhiều nhà nghiên cứu nổi tiếng khắp thế giới
để chứng minh rằng những phương thức thuyết giảng, hội chúng Phật tử
và hình thành tăng đoàn tại Ấn Độ cách nay hơn 2500 năm đã trở thành
những mô hình căn bản được áp dụng và thực thi tại các nghị trường
ngày nay. Tinh túy của những mô hình đó phải khởi đi từ sự bình
đẳng, không phân biệt giai cấp, nam nữ, giầu nghèo sang hèn và phải
được tưới tẩm bằng tâm từ bi. Khi ta thương người như thương ta thì
mọi hàng rào dị biệt tự động bị phá vỡ để không ai nhìn ai là kẻ thù
mà kẻ thù, nếu có, chính là sự vô minh.
Tôi đã được chứng kiến phần nào, mô hình không biên giới đó qua Đại
Giới Đàn Thanh Lương Địa tại Làng Mai, Pháp Quốc. Đại Giới Đàn đó là
biểu trưng sự tụ về của những nhánh sông, sẵn sàng cùng trôi ra biển
lớn, góp phần làm hùng vĩ vạn hữu và phục vụ muôn loài. Hầu như mọi
quốc tịch đều có người đại diện, được xướng danh lên nhận đèn trong
lễ truyền đăng là lễ xác nhận các vị tân giáo thọ đã được hội đồng
giáo thọ và bốn chúng duyệt xét qua nhiều năm tháng với hành trình
tự chuyển hóa và giúp thế nhân chuyển hóa. Hành trình này chẳng phải
một sớm một chiều mà thường từ tám đến mười năm với những thành quả
minh chứng rõ ràng để xứng đáng với giá trị của cây đèn chánh pháp.
Thế giới như thu nhỏ lại trong thiền đường Nước Tĩnh - Xóm Thượng,
thiền đường Hội Ngàn Sao - Xóm Hạ và thiền đường Trăng Rằm-Xóm Mới,
nơi diễn ra lễ truyền đăng và thọ giới trong suốt Đại Giới Đàn. Thế
giới đó hiện diện đủ mầu da, mầu tóc, đủ mọi ngôn ngữ, mọi tuổi tác,
xuất gia và tại gia. Vậy mà, khi ngồi lại với nhau, tất cả trở thành
một “Nhất tức thị đa. Đa thức thị nhất” Một là tất cả. Tất cả là
một.

Tân giáo thọ
Chân Mẫn Nghiêm
Đóa
sen linh mẫn ngát hương thiền
Trang điểm trần gian cõi tịnh nghiêm
Tám gió kêu gào tâm chẳng động
Trái tim hồng ngọc chiếu tây thiên |
Trong số các vị tân giáo thọ được nhận đèn năm nay, vị trẻ nhất mà
Thầy gọi một cách thân thương “Baby Nun”, là sư cô Chân Mẫn Nghiêm,
có cơ duyên được gặp Thầy từ lúc năm tuổi, đã nhất định xin đi tu,
nhưng phải đến năm mười hai tuổi mới được về Làng, chính thức tập sự
xuất gia. Cô thường làm Thầy ngạc nhiên với những ý tưởng mới mẻ và
dùng trí tuệ sung mãn của tâm hồn thanh cao, hướng thượng mà thực
hiện những sáng kiến của mình không chút khó khăn. Chẳng hạn, sau
khi đọc cuốn “Nói với tuổi hai mươi” Thầy viết khi Thầy bốn mươi
tuổi, thì cô ngỏ ý sẽ viết cuốn “Nói
với tuổi tám mươi” khi Thầy tám mươi tuổi.
Và cô đã thực hiện điều này. Cuốn sách ba trăm trang của “Baby Nun”
Chân Mẫn Nghiêm không chỉ là món quà đặc biệt cô muốn dành riêng cho
sinh nhật tám mươi của Thầy, mà đây còn là một biểu trưng tuyệt kỷ
về tình thầy trò giữa thời đại nhân loại đang bị soi mòn bao giá trị
tinh thần. Tuy Thầy chia xẻ là cô viết rất hay, dí dỏm và dễ thương
nhưng cô chỉ muốn dành riêng cho Thầy nên ba trăm trang giấy vẫn chỉ
là bản thảo duy nhất, đang được lưu giữ tại nội viện Phương Khê. Hy
vọng có ngày sư cô đổi ý, phổ biến cho mọi người cùng thưởng thức.
Hôm nay, trong Đại Giới Đàn Thanh Lương Địa, sư cô đã được trao đèn
để chính thức là vị tân giáo thọ khi vừa hai mươi tuổi.
Sau khi nhận kệ kiến giải của sư cô, Thầy đã chia xẻ là khi sư cô
còn rất bé, đang trong thời kỳ tập sự xuất gia, những buổi thiền
hành, Thầy thường nắm tay sư cô dẫn chúng, như vẫn thường nắm tay
các em bé trong các buổi thiền hành khắp nơi. Một lần, Thầy bỗng cảm
nhận không phải Thầy chỉ nắm tay một cô bé mà là đang nắm tay rất
nhiều cô bé cậu bé Việt
Nam
khác. Thầy cảm thấy như Thầy đang dẫn một đoàn em bé thiền hành và
con đường thiền hành trải dài suốt ba miền đất nước.
Hôm nay, trao đèn chánh pháp cho sư cô, Thầy mong mỏi sư cô sẽ hội
đủ duyên trở về quê hương. Chuyến trở về đó không phải chỉ là đi
theo Thầy mà là về để tiếp xúc trực tiếp với các cô bé, cậu bé đang
rất cần nhiều sự quan tâm, sự giúp đỡ về mọi mặt. Những người xuất
gia trẻ ở hải ngoại phải trở thành những pháp-khí-tam-bảo để tiếp
sức cho tuổi trẻ ở quê nhà trước giai đoạn biến chuyển quá nhanh về
kỹ thuật và văn minh toàn cầu. Khi thế giới tiến mà ta không theo
kịp, chẳng phải ta chỉ lùi mà còn có nghĩa là ta bị bỏ rơi bên lề
đường văn minh nhân loại!

Tân giáo thọ
Charles
Al
Lingo
- Chân
Ấn Đức
Diêu trì hiện nguyệt ấn
Đức cảnh lộ chân nhân
Thù đồ quy nhất điểm
Giới định dĩ nghiêm thân |
Từ vị trẻ nhất là sư cô người Việt Nam, tôi chú ý đến người lão
niên, bẩy mươi mốt tuổi, từng là mục sư ở thánh đường Disciples of
Christ Church tại Atlanta, Hoa Kỳ. Ông Charles Allen Lingo Jr là một
mục sư nổi tiếng nghiêm túc, từng rao giảng thánh kinh nhiều thập
niên qua. Ông có một người con gái mà ông rất yêu quý, chăm sóc rất
kỹ lưỡng, nhất là phương diện tâm linh. Tháng giêng năm 1998, tăng
đoàn Thầy hướng dẫn dừng nơi thị trấn
Atlanta.
Người con gái tình cờ được bạn rủ, đã muốn cha dẫn đi nghe “Ông thầy
tu Việt
Nam
thuyết pháp”. Là người cởi mở, mục sư đã cùng con gái dự buổi nói
chuyện của Thầy. Nào ngờ, hạt giống đạo Bụt đã gieo xuống ruộng tâm
của cô gái, trổ cành, đơm lá, lớn mạnh vượt ngoài khả năng kiểm soát
của người cha. Khi con gái ngỏ ý muốn xuất gia với Thầy để được nhập
vào tăng đoàn thì người cha không ngạc nhiên nhưng rất sửng sốt và
buồn bã. Đây là tâm trạng mâu thuẫn nhưng có thể hiểu được. Không
ngạc nhiên, vì với kinh nghiệm là một người từng rao giảng lời răn
dạy của một tôn giáo, chắc ông đã nhận thấy những biến chuyển tâm
linh của con gái trước cánh cửa đang mở rộng về một Đạo Phật dấn
thân, tự độ rồi độ tha. Nhưng ông sửng sốt và buồn bã vì sức mạnh
mời gọi của giáo pháp phục vụ tha nhân đó sẽ mang đứa con yêu quý ra
khỏi tầm tay ông. Mục sư Charles Lingo không thể làm gì hơn là
khuyên con chớ vội vàng, ông sẽ cùng với cô tìm hiểu thêm và tham dự
những buổi thuyết giảng của Thầy khi hoàn cảnh cho phép.
Sau những lần cùng con gái, lặn lội tìm bước chân Thầy để được nghe
thuyết pháp, mục sư đã an lạc và hạnh phúc, tiến vào ngôi nhà Phật
lúc nào không hay. Trong tám năm qua, ông đã được nhận vào Chúng Chủ
Trì cư sỹ dòng Tiếp Hiện (dòng này có hai chúng là chúng cư sỹ Tiếp
Hiện và chúng xuất gia Tiếp Hiện), trực thuộc Làng Mai. Ông đã tận
tụy mở ra những trung tâm tu học để cùng tu và giúp đỡ những ai gặp
chướng ngại, đau khổ về tâm linh. Cư
sỹ
Al Lingo đã cải gia vi tự, biến ngôi nhà khá lớn của tổ phụ để lại,
làm “The Mindfulness Practice Center of Atlanta” là một trong những
địa điểm tu học.
Điều rất cảm động là trong Đại Giới Đàn Phương Bối tại thiền đường
Cánh Đại Bàng, tu viện Bát Nhã, Bảo Lộc năm 2007, sư cô Chân Châu
Nghiêm Kaira Lingo sau khi tu học gần mười năm tại Làng Mai, đã được
nhận đèn Chánh Pháp; và ông Charles Allen Lingo Jr đã có mặt tại
Việt Nam, làm thị giả mang đèn cho cô con gái yêu quý. (Mỗi vị tân
giáo thọ, khi lên nhận đèn đều được chọn hai thị giả theo phụ giúp).
Năm nay, tại Đại Giới Đàn Thanh Lương Địa, người cha đã hội đủ cơ
duyên để được trao đèn chánh pháp, chính thức trở thành vị tân giáo
thọ Làng Mai. Khi cư sỹ Charles Allen Lingo Jr được xướng danh thì
người thị giả trịnh trọng cầm bài kệ kiến giải của ông chính là cô
con gái ông rất mực thương yêu, và cũng đã là sư cô trong tăng đoàn
từ nhiều năm qua.
Điều gì mầu nhiệm đã chuyển hóa hai cha con đến thế? Nếu ai có tự
hỏi, chỉ cần nhiếp tâm đôi phút, tất sẽ có câu trả lời.
Giữa hai vị tân giáo thọ biểu trưng cho hai thế hệ này, tôi cũng
muốn đề cập tới một vị trung niên. Đó là bà Cheri Maples, một phụ nữ
Hoa Kỳ. Bà là người được gọi lên nhận ngọn đèn cuối cùng trong số
hai mươi mốt ngọn được trao trong Đại Giới Đàn Thanh Lương Địa.

Tân giáo thọ
Cheri
Ann
Maples
-
Chân
Bảo Niệm
Tam
bảo nương vào chuyên nhất
niệm
Hành trì giới định đạt tâm an
Vườn xưa đào lý đua nhau nở
Dấu chân đại sĩ vẫn chưa mòn |
Nhìn người phụ nữ dáng dấp thanh tú, nhu hòa, chắp tay búp sen,
khoan thai cùng hai thị giả tiến lên bàn Tổ, khó ai có thể tưởng
tượng được chức vụ ngoài đời mà bà đã đảm trách trong nhiều năm qua.
Bà không chỉ là một cảnh sát trưởng thuần túy mà còn là vị huấn
luyện trưởng có nhiệm vụ huấn luyện những cảnh sát trực thuộc đơn
vị, trước khi họ được điều động giao phó cho công tác đặc biệt nào.
Với chức vụ đó, tất nhiên bà luôn phải biểu hiện sự can trường,
quyết liệt khi trực diện những tội phạm, hoặc ngay cả những trường
hợp lỗi lầm của nhân viên dưới quyền, đa số là nam cảnh sát. Bà chia
xẻ, sự lạnh lùng chỉ là bên ngoài, còn bên trong nội tâm, là phụ nữ,
bà cũng có những yếu đuối, những khổ đau, những sợ hãi, nhưng vì
chức vụ, bà luôn phải tự che dấu. Chính sự phải âm thầm che dấu này
khiến những yếu đuối càng yếu đuối hơn, những khổ đau càng khổ đau
hơn và những sợ hãi càng sợ hãi hơn! Nhưng bà không biết phải làm
sao cho tới ngày ngẫu nhiên được gặp Thầy, do nhận lời rủ của một
người bạn, cùng đến dự một ngày tu khi Thầy mở khóa tu ở
Madison,
Wisconsin
nơi bà cư ngụ. Đó là năm 1991. Một ngày tu đó đã thay đổi phần đời
còn lại của bà.
Khi nhận lời bạn, bà cảm thấy khá khôi hài vì một người cảnh sát
trưởng luôn mang vũ khí bên mình, luôn đối diện với tội ác, với bạo
động mà xuất hiện ở môi trường chỉ có tình thương, hiểu biết và tha
thứ thì liệu bà có được đón nhận không? Nỗi băn khoăn đó lập tức xóa
nhòa ngay buổi ban đầu, khi bà được nghe rằng Chư Bụt, Chư Bồ Tát
cũng có những vị biểu tượng cho sự nghiêm khắc; nhưng các ngài cầm
roi, cầm tích trượng không phải chỉ là quyết liệt trừng phạt kẻ phạm
tội mà roi đó cầm để răn đe, để nhắc nhở, rồi tìm hiểu và thương
xót, thuần hóa kẻ dữ rồi giúp kẻ được thuần hóa trở thành tốt đẹp mà
hòa nhập vào xã hội lương thiện.
Khi được nghe và nhìn thấy viễn ảnh con đường từ bi thực tiễn đó, bà
đã bật khóc. Nỗi sợ hãi âm thầm trước những kẻ bạo động nhẹ dần và
tan biến khi bà được biết rằng mỗi con người đều có hạt giống tốt
như nhau, nhưng do hoàn cảnh xã hội và mức độ vô minh khác nhau mà
hạt giống đó bị che khuất nhiều hay ít. Những kẻ bị vô minh che lấp
thiện tâm là những kẻ đáng thương, cần được giúp đỡ, không khác chi
người bệnh, cần được chẩn bệnh và xức thuốc. Muốn cứu vớt hạng người
đó, không phải chỉ có sự trừng phạt mà còn cần lòng từ bi, khoan
dung độ lượng để tìm hiểu cỗi rễ đưa tới sự phạm tội. Có hiểu mới
thương, có thương mới thực sự đưa được người từ nơi tối tăm ra ngoài
ánh sáng.
Đối với bà Cheri Maples, câu chuyện Đức Thế Tôn dùng tình thương
chuyển hóa kẻ sát nhân lừng danh, tên Angulimala, thật là câu chuyện
tuyệt vời. Tình thương có sức mạnh vũ bão, vượt lên trên sức mạnh
của tất cả mọi thứ vũ khí tối tân nhất trên đời.
Qua những khóa tu kế tiếp do Thầy hướng dẫn, bà đã chuyển hóa bản
thân, từ một người thường giận dữ, khắt khe trở thành một vị chỉ huy
hòa nhã, từ ái, đạt được sự tin tưởng, thương yêu của mọi nhân viên
dưới quyền. Bà đã thử mang pháp môn chuyển hóa này chỉ dạy cho cấp
dưới, đến nỗi, các cảnh sát viên trực thuộc, khi gặp nhau đều chào
nhau bằng hình thức chắp tay búp sen và cúi đầu, chẳng kể cấp bậc
cao thấp thế nào! (không biết vị tư lệnh tối cao của Hoa Kỳ có tưởng
tượng được điều này không?)
Sau hơn hai mươi năm làm việc trong các đơn vị cảnh sát, nay bà
Cheri Maples đã về hưu nhưng những thành quả tốt đẹp bà mang lại đã
không cho bà được “về hưu” đúng nghĩa. Một phần công việc của bà
hiện nay là kiểm tra những tù nhân sắp mãn hạn tù, tìm hiểu để an ủi
và liên lạc các cơ quan, các hãng xưởng đã tin cậy nơi bà để những
người sẽ mãn tù đó sẽ có công ăn việc làm. Ít nhất, khi một người
nhận được sự cảm thông, sự giúp đỡ, sự thương yêu thì cơ duyên tái
phạm tội sẽ giảm thiểu, nếu không muốn nói là không còn nữa! Một
người, khi đã được dẫn dắt để tự mình nhìn thấy được những hạt giống
tốt của mình đơm hoa kết trái thì có khi nào dại dột hủy diệt để lại
rơi xuống hố thẳm!
Bà Cheri Maples không chỉ chuyển hóa lớp thuộc cấp trong nghành cảnh
sát, đem lại kết quả thực tế là giảm thiểu rất nhiều trạng huống tội
ác, bạo động, mà bà còn đang đem Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, qua hình
thức tu tập của Làng Mai tới cộng đồng nơi bà cư ngụ. Bà hiện là
chủ tịch một trung tâm tu học mang tên “Snow Flower Sangha” tại
Madison, Wisconsin, Hoa Kỳ, nơi thường luân chuyển khoảng năm trăm
thiền sinh tìm đến để cầu mong giải thoát những phiền não khổ đau và
hướng thượng giúp đời như bà đã và đang thực hiện.
Nào ai biết những tội phạm, những tâm hồn bạo động, những kẻ khó
thương từng được bà giúp chuyển hóa, nay chẳng những đang an lạc,
vững chãi đi trên đường Bụt đi mà họ còn đang âm thầm gieo rắc tình
thương, thăng hoa xã hội, như trước đây họ từng được người thấm
nhuần lòng từ bi của Đạo Giác Ngộ, đưa ra khỏi hố thẳm?
Chính những móc xích thương yêu vô hình nhưng mầu nhiệm này mà trên
con ĐƯỜNG XƯA, MÂY TRẮNG vẫn còn bay ….
Huệ Trân
(Đại Giới Đàn Thanh Lương Địa Jan 03/08 – Jan 09/08 - Làng Mai –
Pháp Quốc)
|