Vá áo
chép kinh
Trong thời gian ở
Houston
dự Lễ Hội Quan Âm lần thứ bẩy, chúng tôi cố thu xếp thì giờ ghé thăm
tư gia cư sỹ Liên Hoa-Diệu Tịnh.
Ngôi nhà khang trang bên bờ hồ mà ngay từ cửa vào, khách
đến thăm đã cảm nhận được tâm hồn của chủ nhân, những tâm hồn đẹp
đẽ, đem sáng tạo mỹ thuật vinh danh Đạo Pháp. Nơi đây, tôi từng được
chủ nhân ưu đãi, dành một phòng riêng mỗi lần đến
Houston.
Nhưng lần này, tôi được tháp tùng sư phụ, sư huynh, sư tỷ nên mấy
thầy trò lấy phòng ở khách sạn, gần chùa Việt Nam để ban vận chuyển
của chùa tiện đưa đón trong thời gian Lễ Hội.
Cuộc hội ngộ bất ngờ chiều chủ nhật đã thành buổi thiền
trà đầy đạo vị vì có sự hiện diện của Thượng Tọa Thích Tâm Hòa. Thầy
có giọng ngâm truyền cảm, lại thuộc rất nhiều thơ, từ những bài
ngắn, thể năm chữ của thầy Tuệ Sỹ đến những bài dài, thể tám chữ của
thi sỹ Vũ Hoàng Chương, thầy đều thoải mái, cất giọng ngâm dễ dàng.
Trong không khí thơ nhạc và hương trà ngát thơm, bất
ngờ, thầy đọc hai câu đối của thầy Tuệ Sỹ mà trước khi đọc, thầy đã
nói là “Hay lắm!”. Tôi sửng sốt khi thầy đọc trơn tru hai câu đối
khá dài, bằng cả chữ Hán lẫn chữ nôm.
Câu thứ nhất:
Quảng mạc thiên hoang cố lý, nhi phế hưng cạnh tẩu kinh đào, phiến
diệp phù nang, quải nạp đằng la thử ngạn.
Dịch nôm:
Chốn cũ dặm dài man mác, bởi phế hưng xô dậy sóng cồn, chiếc lá
thuyền nang, vá áo chép kinh đất khách.
Câu thứ hai:
Đức hành thế khoác tham phương, tỷ triêu lộ hàm huy diệu cảnh, không
hoa thủy nguyệt, huyền hà bích lạc thần châu.
Dịch nôm:
Đức tu mấy bước mù xa, tợ sương sớm nắng hồng đọng bóng, hoa trời
trăng nước, ngân hà dằng dặc quê cha.
Thầy đọc lần đầu, tôi như kẻ phàm phu nghe chim thuyết
pháp, nghe không kịp, mà cũng chẳng hiểu gì cả! Duy chỉ bốn chữ
“Vá áo chép kinh” bỗng dội vào cái đầu u tối của tôi, rồi chợt
lóe như lằn chớp, sáng rực hình ảnh Trưởng lão A-Na-Luật ngồi vá áo
khi cả ba chiếc y của ngài đều cũ rách tả tơi!
Trong tăng đoàn của Đức Thế Tôn thời xưa, chắc không
thiếu các vị tỳ-kheo từng phải ngồi vá áo nhưng không hiểu sao, chỉ
hình ảnh ngài A-Na-Luật bật lên khi thầy Tâm Hòa vừa đọc tới 4 chữ
“Vá áo chép kinh”?
Lẽ dĩ nhiên, tôi nào biết dung mạo Trưởng lão A-Na-Luật
ra sao, nên hình ảnh vị tăng ngồi vá áo, tuy tâm tôi khởi danh xưng
ngài A-Na-Luật mà hình ảnh lại là hình ảnh tác giả hai câu đối, là
thầy Tuệ Sỹ, là vị tu-sỹ đã đóng một triện son đậm nét trên trang sử
Phật Giáo Việt Nam bằng sự im-lặng-sấm-sét trong cơn biến động lịch
sử của dân tộc.
Tôi đã xin thầy Tâm Hòa viết cho hai câu đối này để bây
giờ, ngồi trong Cốc Thảnh Thơi, từng chữ đang như từng bài pháp cho
tôi niềm hạnh phúc vô biên.
Tôi lại khóc.
Thảnh thơi và sung sướng mà khóc.
Tôi khóc vì quá may mắn, có cơ duyên được nghe những lời
nhắc nhở đầy Từ Bi, Trí Tuệ này.
“Chốn cũ dặm dài man mác, bởi phế hưng xô dậy sóng
cồn”.
Thời gian như bóng câu qua cửa, bao trạng huống thịnh
suy hưng phế dập dồn, mờ mịt quê xưa nghìn trùng cách biệt.
Chiếc lá thuyền nang, vá áo chép kinh đất khách”.
Từ thuở lênh đênh trên con thuyền mong manh tựa lá, lìa
xa quê, trôi giạt xứ người, xin hãy an bần giữ đạo.
Có lẽ những gì thiết tha nhất mà thầy Tuệ Sỹ muốn nhắn
gửi huynh đệ của thầy là ở nơi xứ lạ quê người, hãy nhớ “biết đủ”
theo lời Phật dạy và giữ đạo tâm bền vững. “Vá áo” có phải là
tượng trưng cho sự an bần và “Chép kinh” là nhắc nhở một lòng
giữ đạo?
Xưa, có lần Đức Thế Tôn hỏi tôn-giả Tu-Bồ-Đề:
-
Bậc A-La-Hán có nghĩ tưởng là mình đã đạt đạo A-La-Hán không?
Ý ông thế nào?
Tôn giả Tu-Bồ-Đề cung kính thưa rằng:
-
Bạch Đức Thế Tôn, con không nghĩ tưởng như vậy, con mới là bậc
A-La-Hán.
Nhớ lại giai thoại này giúp tôi hiểu phần nào niềm ưu ái
băn khoăn mà thầy Tuệ Sỹ gửi gấm trong câu thứ hai:
“Đức tu mấy bước mù xa, tợ sương sớm nắng hồng đọng
bóng, hoa trời trăng nước, ngân hà dằng dặc quê cha”.
Dù đường tu có đạt tới đâu, cũng chỉ mong manh tựa
sương, tựa nắng; sương mới đó rồi tan, nắng mới đó rồi nhạt, trăng
lồng bóng nước, nào phải thật là trăng!
Ngay những bậc A-La-Hán còn chưa dám nhận là A-La-Hán,
thế mới thực đắc A-La-Hán.
Đường tu thậm thâm vi tế như thế, nên xin hãy giữ tâm an
trụ trong chánh định, chớ vì xứ người dư thừa phương tiện mà đắm
chìm tự mãn, quên đi cội nguồn đất tổ vời vợi phương xa. Có lẽ, chữ
“Quê cha” ở đây, vừa có nghĩa là Quê Hương đời-thường, vừa ẩn
nghĩa thâm sâu là Giác Ngộ, là Giải Thoát, là mục đích tối hậu trên
đường cầu Đạo.
Ngồi bán già rất lâu trước bàn thờ Phật, vận dụng cái
đầu u tối làm việc, tôi chỉ hiểu lờ mờ hai câu đối trên như vậy.
Lòng bỗng khởi niềm mơ ước viển vông “Phải chi được đảnh lễ thầy Tuệ
Sỹ, xin thầy chỉ giáo tận tường từ nghĩa cạn tới lý sâu thì thật là
hạnh phúc!”
Tôi biết được một điều, là những gì thầy Tuệ Sỹ viết,
phải nhìn từ nhiều lăng kính khác nhau mới mong thấy được phần nào
tâm tư thầy gửi gấm. Nên những khi may mắn có được gì của thầy, từ
dịch thuật kinh điển tới thơ văn, tôi thường lò dò tìm các vị thiện
trí thức để xin chỉ dạy. Nhưng cơ hội này chẳng phải dễ, vì những vị
tôi đặt niềm tin, lại thường luôn bôn ba hoằng pháp đó đây, gặp được
quý ngài chỉ là tình cờ hy hữu!
Như buổi thiền trà đầy đạo vị mà Mẹ Hiền Quán Thế Âm đã
vừa cho chúng tôi cơ hội.
Đa tạ Thầy Tuệ Sỹ, vị Thầy tôi chưa một lần được diện
kiến nhưng Thầy đã là người dẫn dắt tôi từ những bước đầu chập chững
tìm về cửa Đạo. Thầy là niềm an ủi khi tôi gặp nghịch duyên
do thế nhân lọc lừa, dối trá.
Thầy là bóng mát khi lòng tôi khô cạn niềm tin.
Chỉ cần nghĩ tới hạnh nguyện Bồ Tát của Thầy là bao
nhiêu thất vọng trước thế nhân ác hiểm đều chuyển thành bụi mưa xuân
làm xanh tươi đồng cỏ. Những phút giây ấy, tôi lại thấy niềm ước mơ
được diện kiến Thầy là không cần thiết. Vì những gì tôi cảm nhận
được trên bước đường Thầy đi, đã là quá đủ.
Cây tùng sừng sững, lặng thinh nhưng mạnh mẽ giữa sa mạc
nắng cháy, chẳng là niềm khích lệ vô biên cho bao lữ hành đang nổi
chìm trong gió cát ư?
Và tôi thấy triết gia D.W.Jerrold rất sâu sắc khi ông ta
nói rằng: “Tôn giáo và lòng kính ngưỡng ở trong tim chứ không ở
hai đầu gối”.
NAM
MÔ TÁT ĐÀ BÀ LUÂN BỒ TÁT (*)
Huệ Trân
(Cốc Thảnh Thơi- Tháng Tư 2008)
-----------------------------------------
(*) Vị Bồ Tát vì Đạo, quên mình.
|