Tánh không tổng hợp
Tam thừa Phật giáo trong tinh thần
Bất bộ phái theo Phật giáo Tây Tạng
Cung điện Phổ Đà La, nơi các vị Hóa thân Đạt
Lai Lạt Ma trụ trì
và tu viện
Đại Chiêu Tự bên cạnh.
Lời tác giả:
Trong hai tháng bảy và tháng tám năm 2008 vừa qua, tác giả đã có
duyên may được mời làm thông dịch viên Việt ngữ trong hai pháp hội
lớn do Đức Đạt Lai Lạt Ma thuyết giảng: một pháp hội tổ chức tại đại
học Lehigh University trong tháng bảy với đề tài "Bồ Đề Đạo Thứ Đệ
Luận"
ở tiểu bang Pensylvania và một pháp hội tổ chức tại tỉnh Nantes,
Pháp quốc với bốn đề tài chính
nói về "Tánh Không" trong Phật giáo. Sau hai pháp hội đó, tác giả
trở về đời sống của mình thường ngày với một tâm tư xúc động và biết
ơn sâu xa.
Do lời kêu gọi của một số thân hữu, tác giả xin ghi lại những điều
học hỏi về Tánh Không do Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng dạy, nhưng trình
bày dưới một kinh nghiệm riêng: đó là Tánh Không theo quan điểm Tổng
Hợp Tam Thừa Phật Giáo và Theo Tinh Thần Bất Bộ Phái.
Tác giả trân trọng.
Ghi Chú:
(C) Hán ngữ, (S) Phạn ngữ, (T) Tạng ngữ, (E) Anh ngữ, (L)
La-tinh.
1. Nhập đề
Khi nhìn chung về tình trạng của thế giới ngày nay, chúng ta đều
phải nhận thấy là thế giới đi về một tình trạng toàn cầu hóa. Điều
đó có nghĩa là nền kinh tế, sự phồn thịnh đặt trên quan điểm thực
dân, khai thác các nước nhược tiểu của những thế kỷ trước đã lỗi
thời. Ngày nay, muốn tồn tại, muốn sống còn, các cường quốc đều phải
hướng về nền kỹ nghệ toàn cầu, đưa các công nghệ và ngay cả các cao
kỹ
về các nước mà ngày xưa coi như là nhược tiểu, để cộng tác và sử
dụng nhân lực, bộ óc, chất xám khổng lồ này trong công cuộc phát
triển kỹ thuật và kinh tế toàn cầu.
Cũng do chính sự phát triển nền cao kỹ này mà sự truyền thông và các
phương tiện di chuyển trở thành cực kỳ nhanh chóng, tiện ích với giá
tiền thật rẻ, mang gần các đại lục lại với nhau và giao thoa các nền
văn hóa khác nhau. Thế giới đi về một điểm chung, một "Giao Hòa Điểm",
trong đó tất cả mọi văn hóa đều được mở rộng ra và được đón nhận
không phân biệt. Hai cường quốc mẫu mực và tiên tiến của nền đa
nguyên, đa văn hóa này chính là Hợp Chủng Quốc (Hoa Kỳ) và Gia Nã
Đại. Cao điểm điển hình mới nhất của sự mở rộng sắc tộc và đa văn
hóa này chính là hiện tượng nhân dân Hoa Kỳ đã bỏ đa số phiếu cho vị
ứng cử viên da đen gốc Phi châu, ông Barrack Obama, người đã từng
hùng hồn tuyên bố: "...là công dân của thế giới...."
Câu nói này đã chiếm trọn trái tim của những ai đã từng tranh đấu
cho nhân quyền của con người.
Sự mở rộng của thế giới ngày nay mang lại cho toàn thể nhân loại nói
chung và cho những người Phật tử nói riêng những điều lành.
Thực thế, nhân loại đã ý thức rõ ràng sự tốt đẹp của lòng nhân ái,
của sự bất phân chủng tộc, và của vẻ đẹp đa văn hóa, tuy khác nhau
mà chẳng ngăn ngại, "mỗi bên mỗi vẻ mười phân vẹn mười". Do
chính sự mở rộng tầm nhìn này mà nhân loại bớt lòng phân biệt và
chấp nhận nhau, thương yêu nhau hơn. Đó là điều lành chung cho nhân
loại.
Đối với các Phật tử nói riêng thì nhờ chính sách toàn cầu hoá, mở
rộng này, làm cho chúng ta cũng được mở rộng tầm nhìn qua Phật giáo
toàn thế giới. Đầu tiên là làn sóng của Thiền tông Nhật bản trở
thành trọng điểm văn hóa của toàn thế giới qua các phong trào hành
trì thiền định của các Trung Tâm Thiền Nhật Bản
mở ra khắp nơi, khởi xướng từ các thập niên 60-70 và cho đến hiện
tại. Trong các vị tôn sư có công hoằng hóa Thiền tông Nhật Bản,
chúng ta phải kể đến Thiền sư
Daisetz
Teitaro Suzuki (C.
鈴木大拙,
Linh Mộc Đại Chuyết, 1870–1966) qua đại tác phẩm Thiền Luận.
Song song với làn sóng Thiền tông Nhật Bản đó thì tại Việt Nam cũng
phát triển Thiền tông, làm sống lại nền Phật giáo của các thời Lý,
Trần mà chư tôn chủ xướng chính yếu là Thiền sư Thích Nhất Hạnh và
Thiền sư Thích Thanh Từ.
Nhưng cùng lúc đó thì đặc biệt hơn nữa, thế giới mở rộng vòng tay ra
để đón nhận làn sóng Phật giáo Tây Tạng, qua các công trình hoằng
pháp của chư tôn sư Tây Tạng với bốn đại môn phái Mật tông: phái
Cổ Truyền (Nyingma), phái Khẩu Truyền (Kagyu), phái Tát Già (Sakya)
và phái Giới Đức (Gelug).
Nói chung như thế để nhận biết sự mầu nhiệm của sự tiến hóa của nhân
loại, chúng ta đi về một sự toàn cầu hóa, sự bất phân biệt, một tinh
thần cởi mở hòa đồng, thương yêu chung với nhau, đã là con người thì
cùng có một trái tim, một dòng máu đỏ, và đều là chúng sinh hữu
tình.
Thế nhưng khi đi vào nội bộ, chúng ta cũng nhận xét thấy có một sự
phân hóa trong hạ tầng của nhân loại. Sự phân hóa này có thể quy
nguyên chính từ lối giáo dục phân tích, từ tâm chia chẻ phân biệt.
Bởi vì để nâng cao dân trí, tất cả các quốc gia trên toàn thế giới
đều đi về nền giáo dục cưỡng bách, trong đó đặt nặng trên sự học hỏi
về khoa học và kỹ thuật, và bớt dần sự học hỏi về văn hóa cũng như
đạo đức. Những môn toán học và luận lý học trong nền giáo dục của
chúng ta càng ngày càng tăng hệ số và quan trọng hơn, trong khi các
môn học về đạo đức như là "Công dân giáo dục" ở Việt Nam nói riêng,
hay là môn "Giáo lý công giáo" của các nước Âu Mỹ nói chung đều từ
từ bị xóa bỏ. Dĩ nhiên là học hỏi về khoa học rất cần thiết và là
căn bản thiết lập sự hiểu biết và luận lý của con người, nâng cao
nền dân trí. Nhưng đi vào học hỏi khoa học thì phải học về luận lý
phân tích. Phân tích thì cần phải chia chẻ, phân biệt. Nếu học để
làm căn bản đi tìm hiểu sâu vào sự vật thì rất tốt. Nhưng nếu ngưng
tại đó, mà không cân bằng tâm trí, học về “tổng hợp toàn diện”
để trở lại có cái nhìn tổng thể, và nếu cứ bị mắc kẹt ở trong cái
nhìn phân tích phiến diện thì sẽ tạo nguy cơ đưa đến sự phân hóa,
bắt đầu bằng phân hóa chính bản thân mình qua cái nhìn phân tích
chia chẻ trên mọi sự việc, trở thành tiêm nhiễm trong thói quen và
sự huân tập của tâm phân tích chia chẻ, để rồi mắc kẹt vào tâm phân
biệt, kết hợp chặt chẽ với tâm chấp ngã bẩm sinh, thì sẽ từ đó mà
khởi sinh tất cả mọi vấn đề, kể cả các vấn đề của thế giới.
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã từng nhấn mạnh trong những lần thuyết pháp:
"...Tất cả mọi tranh chấp trên thế giới đều khởi ra từ cái tâm chấp
ngã, phân biệt..." và Ngài nói rằng tuy Ngài là vị lãnh đạo tông
phái Giới Đức, nhưng Ngài cũng là một thành viên tranh đấu cho tinh
thần Bất Bộ Phái
(xem thêm ở phần 6, “Tinh Thần Bất Bộ Phái”).
Sự phân hóa trong Phật giáo được thấy qua các tranh cãi bất tận về
Tiểu Thừa,
Đại Thừa, về Tịnh Độ Tông, Thiền Tông, về Mật Tông v.v....Tất cả các
tranh cãi đều khởi ra từ những sự học hỏi đặt nặng trên luận lý phân
tích, và bỏ quên sự chứng ngộ tổng hợp
của toàn Phật pháp. Nhất là vì sự chứng ngộ này vốn cực kỳ vi tế,
bất khả thuyết. Khi học hỏi, cái học được dễ dàng là tâm phân tích,
nhưng khi đã lọt vào mạng lưới ngoắt ngoéo của tâm phân tích thích
thú này rồi mà không thoát ra được, không chứng ngộ được tâm tổng
hợp, “viên
dung
bất khả tư nghì”
thì mọi rối rắm của vấn đề sẽ khởi ra từ đó. Do đó, ta thường thấy
các tranh cãi luôn luôn được khởi ra qua các câu đại loại như "Thầy
tôi đã giảng là....” hay là “Pháp môn xyz tôi giảng này là
cao nhất, dễ nhất v.v...", trong khi thật sự ra, các điều chư
tôn sư giảng chỉ có một vị là Giải Thoát Giác Ngộ Vô Phân Biệt, và
tất cả những gì chư vị dạy cũng chỉ thu tóm lại thành một điều: đoạn
dục, chứng Tánh Không để phá chấp ngã và hành Bồ tát đạo.
Sự nguy hại của lối học hỏi và tâm phân tích chia chẻ không chỉ nằm
trong Tam Thừa Phật Giáo, trong các Tông phái mà cũng phôi thai
trong chính nền Phật Giáo Tây Tạng.
Chính vì thấy rõ nguy cơ phân hóa này mà chư tôn trong các dòng
truyền thừa Tây Tạng đã đề xướng tinh thần Bất Bộ Phái. Theo đó,
chúng ta diệt trừ tận gốc tâm phân biệt chia chẻ này, đi vào một con
mắt nhìn tổng hợp, viên dung 84 000 pháp môn, chỉ cùng một vị
duy nhất : dứt trừ tham ái, chứng ngộ Tánh Không và hành trì Bồ tát
đạo. Đó là điểm tối hậu: gom tất cả về một cỗ xe duy nhất của Phật
thừa. Bởi vì Đức Phật chỉ phương tiện mà giả lập ra các cỗ xe giúp
chúng ta vượt qua các giai đoạn tu hành tùy theo căn cơ của mỗi
chúng sinh (trích Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Thứ Hai Phương
Tiện):
“Xá-Lợi-Phất! Nay ta cũng lại như thế, rõ biết các chúng sanh có
những điều ưa muốn, thân tâm mê chấp, ta tùy theo bổn tánh kia
dùng các món nhân duyên, lời lẽ thí dụ cùng sức phương tiện mà vì đó
nói pháp.
Xá-Lợi-Phất! Như thế đều vì để chứng được một Phật thừa "Nhất thiết
chủng trí".
Nhất Thiết Chủng Trí chẳng thể nào đạt được qua tâm phân tích chia
chẻ. Nhất thiết chủng trí chỉ có thể đạt được qua tâm tổng hợp, “viên
dung
bất khả thuyết,
bất khả tư nghì”, và do sự chứng ngộ Nhất Thiết Pháp Không,
để từ đó mà khởi tâm Đại Bi, đi vào con đường Bồ tát đạo. Trích kinh
Lăng Già Tâm Ấn:
Thế gian lìa sanh diệt
Như hoa đốm hư không,
Trí chẳng thấy có, không
Mà khởi tâm đại bi.
Tất cả pháp như huyễn
Xa lìa nơi tâm thức,
Trí chẳng thấy có, không
Mà khởi tâm đại bi.
Xa lìa chấp đoạn thường
Thế gian hằng như mộng,
Trí chẳng thấy có, không
Mà khởi tâm đại bi.
Đọc kinh đến đây thì khởi rõ trong tâm con đường “chứng ngộ Nhất
Thiết Pháp Không, khởi tâm Đại Bi”. Con đường mà Tổ Long Thụ đã
đề xướng Tánh Không của Trung Quán Tông trong Trung Quán Căn Bản
Luận Tụng.
Như thế thì có thể hiểu rõ là trên con đường đạt đến Giác Ngộ, chúng
ta không thể nào không kinh qua giai đoạn tu tập và chứng ngộ Tánh
Không, bởi vì có chứng ngộ Tánh Không thì ngã chấp mới được tiêu
trừ, và chỉ khi nào ngã được tiêu trừ thì con đường Bồ tát đạo mới
thực hành được đến viên mãn. Bồ tát đạo dẫn đến chứng ngộ Phật quả
cao tột nhất, Tam Miệu Tam Bồ Đề, trong đó là tâm vô lượng từ và vô
lượng bi. Nếu chúng ta còn chút gốc gác nào của sự chấp ngã thì ít
nhiều gì, chúng ta cũng vẫn còn bị sai sử bởi tâm chấp ngã này, do
đó mà Bồ tát đạo chưa được thành tựu viên mãn.
Trong lần thuyết pháp tại pháp hội đại học Lehigh, Pensylvania, Hoa
Kỳ, Đức Đạt Lai Lạt Ma sau khi giảng cặn kẽ về Tánh Không đã cho một
thí dụ điển hình rất ngộ nghĩnh. Ngài nói: "...khởi đầu học Tánh
Không cũng giống như một người già cả, răng đã móm hết cả, mà lại
phải ăn món bò bít-tết, cho nên chẳng thể nào nhai cho nổi, chỉ có
thể nuốt chửng mà thôi...". Nói xong thí dụ dí dỏm đó, Ngài cười
thật thoải mái. Đó là vì, muốn đi trên đường đạo đạt đến Giác Ngộ,
không thể nào không cố gắng từ từ nuốt trôi môn học khó thực hành là
Tánh Không này.
Như đã đưa ra ở trên, thực chứng Tánh Không là phải vượt lên trên
tâm phân tích chia chẻ, đạt đến tâm tổng hợp,
viên dung
bất khả thuyết,
trong đó chấm dứt mọi tâm khái niệm luận lý phân biệt ta và người,
mọi chấp ngã và ngã sở,
không còn hiện hành, đạt trình độ
dung nhiếp,
hợp nhất bất phân giữa chủ thể và đối tượng, nghĩa là không còn khởi
tâm ấy ra nữa. Tâm tổng hợp
viên dung
ấy trong Phật giáo còn được gọi bằng nhiều từ ngữ khác như là tâm
bất nhị, tâm vô phân biệt...Tổ Long Thụ trong Căn Bản Trung Quán
Luận Tụng đã viết:
Chư
pháp thực tướng giả
Tâm hành ngôn ngữ đoạn
Vô sinh diệc vô diệt
Tịch diệt như Niết Bàn.
Có thể diễn giải là:
Chứng ngộ thật tướng của các pháp là khi có khả năng chấm dứt cả hai
điều: 1. tâm hành (tâm suy tư vọng tưởng) và 2. ngôn ngữ, cũng như
chứng ngộ mọi pháp đều không sanh cũng không diệt, và sau cùng là
trụ trong niềm vui tịch diệt (nghĩa chấm dứt, tắt ngấm mọi tâm tham
dục) như Niết Bàn.
Nói theo cách khác thì tâm bao trùm lên tất cả, cho nên Duy Thức
tông có nói:
"Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức".
Chẳng có một pháp nào ngoài tâm ra. Muốn vào được thực tướng của vạn
pháp, chỉ có thiền định, làm theo lời dạy của Ngài Tuệ Trung Thượng
Sĩ : "Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc."
Thiền định phản quan tự kỷ cho đến khi nào "Tâm hành ngôn ngữ
đoạn" thì vào được thực tánh chư pháp, chẳng thể nào đạt được
điều đó qua người khác…
Mọi pháp môn đều phải kinh qua các hành trì để đoạn dục, chứng Tánh
Không và hành Bồ tát đạo trong tinh thần tổng hợp,
viên dung vô phân biệt, bất khả thuyết
đó. Các tông phái của chúng ta đều đến từ cùng một giáo pháp, cùng
một gốc rễ là giáo lý của đức Bổn Sư Thích ca, và pháp môn nào rồi
cũng phải đi đến viên mãn Bồ tát đạo. Như thế thì chẳng có gì khác
nhau, cho nên tự bổn tánh đã là Bất Bộ Phái.
1. Lịch Sử Phật Giáo Thế Giới qua ba kỳ Chuyển Pháp
Luân
Để có thể hiểu được Tánh Không và vai trò của nó trong quá trình tu
tập đạt Giác Ngộ, chúng ta hãy tìm hiểu, xem lại nguồn gốc và lịch
sử Phật Giáo Ấn độ.
Trước hết, chúng ta đều biết là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đản sanh
trong thế giới của nhân loại với hạnh nguyện cao cả giúp chúng sinh
giải quyết vấn đề của sinh tử. Thời bấy giờ nước Ấn độ nằm trong chế
độ quân chủ, về đời sống vật chất thì người dân sống khổ sở trong
một xã hội đặt nền tảng trên sự phân chia giai cấp, bất công và áp
bức, bao gồm những giai cấp chính sau đây:
1. Bà-la-môn (Brahman) là những Giáo-sĩ, phụ-trách về lễ-nghi, cúng
bái. Họ tự có quyền ưu-tiên, được tôn-kính, và an-hưởng cuộc đời
sung-sướng nhất.
2. Sát-đế-lợi (Kastrya) là hàng vua chúa quý-phái, nắm giữ
quyền-hành thống-trị dân-chúng.
3. Vệ-xá (Vaishya) là những hàng thương-gia điền chủ.
4. Thủ-đà-la ( Shudra) là hàng dân nô lệ bần tiện, nên an phận làm
tôi đòi suốt đời cho các giai-cấp trên.
Ngoài ra còn có một hạng tiện dân gọi là Chiên Đà La (S. Candala),
không thuộc về giai cấp nào cả, bị coi như sống ngoài lề xã-hội loài
người, tệ hơn cả súc vật, ai cũng kinh tởm không dám đụng đến người,
sống một kiếp thật là khổ nhục.
Còn về phương-diện tâm linh, xã-hội Ấn Ðộ lúc bấy giờ cũng sống
trong một tình cảnh hỗn loạn. Các trào lưu tôn-giáo, các hệ thống
triết-học, tư-tưởng cũng ở trong một hoàn cảnh vô cùng hỗn độn. Đủ
loại tín ngưỡng, đủ loại triết thuyết ra đời. Từ thờ phụng các vị
thần thế gian cho đến các vị trời như Phạm Thiên, thờ thần lửa, thần
sông, thần núi, cho đến tu lõa thể, hoặc tôn thờ những loài vật. Các
triết-học đủ loại, từ cụ-thể đến trừu tượng, lập thuyết trên thời
gian, trên không gian, chủ-trương nhất nguyên, nhị nguyên, đa
nguyên...Hàng trăm hệ phái khác nhau, luôn luôn tranh luận, hý luận
không ngừng, đả kích chống báng nhau. Các vị luận sư thời đó ai ai
cũng cho mình là giỏi nhất, biện tài nhất, trong khi thực tế thì các
tầng lớp dân chúng khổ sở dưới ách thống trị của giai cấp, bất công
và áp bức, còn hý luận của họ chẳng hề cứu độ gì được những người
dân nghèo khổ.
Tất cả xã hội lúc bấy giờ đang điên đảo trong khổ đau vật chất lẫn
tinh thần, qua những tà thuyết rối loạn. Trong tình trạng đó, Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni đản sanh và khai thị cho con người theo về
chánh đạo.
Để giáo hoá, dẫn dắt chúng sinh tu đạo thành công, Ngài đã thực hành
đồng sự và lợi hành qua hành trình tự mình đi tìm và thực nghiệm
ra con đường chánh đạo. Bắt đầu từ địa vị tôn quý của một vị hoàng
tử, Ngài đã từ bỏ gia đình, "cát ái từ sở thân", để xuất gia
theo con đường Phạm hạnh và chuyên tu khổ hạnh cho đến khi nhận chân
ra là không thể nào đi theo con đường đó mà đạt toàn giác.
Từ đó, Ngài chuyên tâm thiền định dước gốc cây Bồ Đề, phát triển trí
tuệ Bát Nhã trong 7 tuần lễ. Vào ngày thứ 49, trước khi trời sáng,
Ngài đã chứng ngộ toàn giác viên mãn.
Sau khi chứng ngộ trí Bát Nhã tối thượng và sự toàn giác viên mãn
ấy, Ngài tiếp tục thiền định bên bờ sông Ni Liên Thiền và vị trời
Phạm thiên Sahampati đã xuất hiện để tán thán Ngài đã đắc quả Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, Chánh Đẳng Chánh Giác Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Ngài thiền định và quán tưởng đến các chúng sinh còn đang trầm luân
trong ái dục ngũ trần, và phát sinh tư tưởng, thấy rằng sự chứng ngộ
tối thượng viên mãn này quả thật thâm sâu huyền diệu, khó nhận thức,
khó lãnh hội, vắng lặng, cao siêu, không nằm trong phạm vi luận lý,
tế nhị, chỉ có các bậc thiện trí mới thấu hiểu. Nhất Thiết Chủng Trí
bất khả thuyết, bất khả tư nghì ấy khó có thể giảng, đạo lý cao siêu
mầu nhiệm ấy khó có thể dạy cho các chúng sinh hữu tình đang đắm
chìm trong ái dục và trong những tà thuyết hý luận. Lý Nhân Quả và
Duyên Khởi, Tánh Không là những điều rất khó lãnh hội, cũng như Niết
Bàn chấm dứt mọi nhân duyên quả báo, tắt ngấm mọi ái dục, tịch tĩnh
an vui cũng là những điều rất khó lãnh hội. Nếu Như Lai truyền dạy
Giáo Pháp ấy, người đời ắt không thể hiểu được. Chỉ phí công vô ích.
Rồi Đức Phật lại suy tư tiếp:
"Phải khó khăn lắm Như Lai mới chứng ngộ được Pháp Bồ Đề tối thượng
này. Nhưng lòng người còn đang chìm đắm trong tham ái và sân hận,
không dễ gì hiểu được. Kẻ tham ái mê mờ như đi trong đêm tối, như ở
trong đám mây đen bao phủ, chẳng thể thấy được Pháp này, thâm sâu,
khó nhận biết và toàn triệt."
Lúc ấy vị trời Phạm Thiên Sahampati lo sợ Ngài không truyền bá Giáo
Pháp và thế gian sẽ không được nghe Pháp ắt phải lạc vào nẻo tận
cùng, nên cung thỉnh Đức Phật ba lần để xin Ngài chuyển Pháp Luân.
Nhờ vậy mà Đức Thế Tôn chấp nhận dùng phương tiện để giáo hóa chúng
sinh: "...Hãy để cho những kẻ nào muốn nghe Giáo Pháp tối thượng
này có cơ hội..."
Ngay lúc ấy, chư thiên vui mừng tán thán Ngài từ bi trụ thế, chuyển
pháp luân và dùng phương tiện thiện xảo để giáo hóa chúng sinh đang
trầm luân trong bể khổ luân hồi.
Rồi y như lời, Ngài đã trụ thế trong suốt 49 năm, thị hiện trong
khắp ba cõi hoằng hóa Giáo Pháp tối thượng. Do đó mà Đức Thế Tôn
chuyển pháp luân ba lần trong cõi ta bà của chúng ta. Ngài biết là
căn cơ của chúng sinh vốn khác nhau, kẻ sáng người tối không đồng
đều. Cho nên chỉ có cách giáo hóa qua các phương tiện thiện xảo, đi
từng trình độ khác nhau, từ bước một, dễ cho đến khó chứ không thể
đi thẳng vào chính đề.
Như thế, Đức Thế Tôn đã vì chúng sinh hoằng pháp trong 49 (theo Tiểu
Thừa là 45) năm trụ thế, khi thì Ngài thuyết về “Hữu Ngã”,
khi thì Ngài thuyết “Vô Ngã”, tựu chung cũng chỉ là phương
tiện tùy bệnh cho thuốc mà giáo hóa theo căn cơ và giai đoạn của
chúng sinh. Theo Hiển giáo (còn theo quan điểm của Mật giáo thì hơi
khác, sẽ đề cập đến trong các phần sau), Ngài đã có ba lần chuyển
pháp luân, từ từ dẫn dắt chúng sinh. Hai lần chuyển pháp luân đầu,
Đức Thế Tôn thuyết về phương tiện pháp và bất liễu nghĩa pháp (để
khế lý, khế cơ với tâm của chúng sinh). Lần chuyển pháp luân thứ ba,
Đức Thế Tôn thuyết về liễu nghĩa pháp (thắng nghĩa giáo), các giáo
lý cơ bản là Bát Nhã Trí, Tánh Không, Trung Đạo, Tam Tự Tính và Tam
Vô Tính.
1.
Lần chuyển pháp luân thứ nhất:
Đức Thế Tôn thuyết về Hữu giáo qua các giáo lý cơ bản là Tứ Diệu Đế
và Thập Nhị Nhân Duyên. Thời kỳ này là nền tảng tạo thành các tông
phái Nguyên Thủy (cũng còn gọi là Tiểu Thừa) và Hữu Bộ. Các bộ kinh
điển chính ghi lại trong thời kỳ này bao gồm bốn bộ A Hàm và Trường
Bộ Kinh
.
2.
Lần chuyển pháp luân thứ hai:
Đức Thế Tôn thuyết về Vô (Bát Nhã, Tánh Không, Nhị Vô Ngã). Đó là
những giáo lý để sửa soạn mở đường vào Ðại thừa, và chính những giáo
lý Ðại thừa, qua các lần thuyết giảng cơ bản về "Nhất thiết pháp
không" (Không Tông). Các bộ kinh điển ghi lại trong thời
kỳ này bao gồm các bộ kinh như Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh,
Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh,
Bát thiên tụng bát-nhã kinh,
Đại phẩm bát-nhã kinh,
Kim cương bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh
3.
Lần chuyển pháp luân thứ ba:
Đức Thế Tôn thuyết về Trung Đạo. Thời kỳ này thuộc về Ðại thừa và
hậu Ðại thừa. Các bộ kinh điển ghi lại bao gồm các kinh Giải Thâm
Mật, các bộ Đại Phương Quảng như Hoa Nghiêm Kinh, bộ Như Lai Tạng
Kinh, và Đại Bát Niết Bàn Kinh,
v.v…
Phải nói rõ rằng trong thời kỳ Đức Phật Thích Ca còn tại thế thì
không có sự phân biệt và đặt tên gọi là Tiểu Thừa hay Đại Thừa. Tất
cả lúc ấy chỉ là những lời giảng dạy của Ngài dẫn dắt hành trì đi từ
bài pháp đầu tiên cho đến bài pháp cuối trước khi Ngài Bát Niết Bàn.
Và như vậy, ta có thể xem lại toàn thể giáo lý của Đức Thế Tôn để
lại cho chúng ta, kết hợp và tổng hợp những pháp môn mà Ngài đã
giảng dạy theo một trình tự hợp lý, bao gồm trong hai loại quyền
giáo và thật giáo,
bổn môn và tích môn
để thấy rõ những trình tự mà Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni đã phải ra
công dẫn dắt và khuyến giáo chúng ta, nắm tay chúng ta dẫn dắt đi
từng bước trên đạo lộ, từ dễ đến khó hơn, cho đến khi có thể đặt
chân vào con đường tối thượng của Phật Thừa mà tựu chung là chúng
ta, tất cả đệ tử của Ngài, phải nỗ lực hướng đến. Như Đức Thế Tôn đã
huấn dụ sự tu tập qua hình ảnh của người nghệ sỹ sử dụng đàn, nếu
lên dây đàn căng quá thì sẽ đứt, mà dây chùng quá thì không ra tiếng
đàn.
Do đó, hành giả phải biết tùy theo trình độ mà chọn pháp môn hành
trì. Khởi đầu Ngài giảng về Tứ Diệu Đế, Vô Thường, Nhân Quả, Thập
Nhị Nhân Duyên, Duyên Khởi, để sau đó qua các pháp tu hành trì thiền
định phân tích tâm thức tiêu trừ mọi tà kiến si mê, phá chấp ngã,
rồi sau đó dung hợp trong tinh thần bất nhị để đưa vào thiền định
chứng ngộ Tánh Không và đạt quả A La Hán, tắt ngấm mọi tham dục và
đạt an nhiên tịch tĩnh, nhưng không chấp trước, trụ trong Niết Bàn
tịch tĩnh này mà nhập thế cứu độ mọi chúng sinh hữu tình. Đó là tinh
thần tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn của Bồ tát Đạo.
Mỗi giai đoạn tu tập là một chứng ngộ liên hệ đến đề mục và hành trì
thiền quán trên đề mục đó, tuần tự vượt lên trên, do đó mà phương
tiện giả lập ra mục đích tạm thời và các quả vị tạm thời của Tứ
Hướng và Tứ Thánh Quả, đi từ giai đoạn thiền quán Tứ Niệm Xứ để tiêu
trừ bốn tâm điên đảo, nhuần nhuyễn Tứ Diệu Đế, giả lập con đường của
Thanh Văn, Duyên Giác cho đến Bồ-Tát, để giúp cho chúng sinh dễ dàng
đi trên đạo lộ trường kỳ mà không nản chí tầm đạo. Mỗi mỗi chứng ngộ
của một đề mục chẳng phải làm cho chúng ta tự mãn, thấy là đủ, mà
lại giúp chúng ta tạo dựng nền tảng và tâm hoan hỷ phát lòng tu thêm
các pháp môn sau đó cho đến pháp môn tối thắng và đạt đến Phật Quả
Tối Thượng, như chính Ngài đã từng tu tập qua các giai đoạn và đạt
đến Quả Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Chánh Đẳng Chánh Giác, Tam Miệu
Tam Bồ Đề.
Xem xét quá trình lịch sử như thế để hiểu ra được là nếu mắc kẹt vào
tâm phân tích chia chẻ cục bộ thì thấy đạo lộ có phân ra giai đoạn,
phân ra pháp môn và dính mắc tranh cãi về các pháp môn Nhưng nếu
nhìn thấu suốt cả tiến trình Đức Thế Tôn đã hoằng đạo trong suốt 49
năm thì sẽ phát khởi trí tuệ tổng hợp, viên dung và nhận ra rằng tất
cả chẳng qua chỉ tùy giai đoạn mà hành trì, tùy trình độ của tâm mà
tu tập, rồi rốt cục cũng sẽ hội tụ, đi về một điểm chung và duy nhất
đã trình bày tóm gọn trước đó là "đoạn dục, chứng Tánh Không để phá
chấp ngã và hành Bồ-Tát đạo".
Đó là xét trên phương diện tổng hợp của Hiển Giáo. Từ đó sẽ khởi ra
tầm nhìn tổng hợp của Tánh Không, là hợp nhất trong Tam Thừa Phật
Giáo, và cũng từ đó để trả lời câu hỏi: “Như vậy Tánh Không trên
quan điểm tổng hợp,
viên dung
là gì ?”. Câu này sẽ được đề cập đến trong phần 5.
3. Lịch Sử Phật Giáo của Tây Tạng
Nước Tây Tạng vốn là do Trung Quốc đặt tên sau này, khi sáp nhập nó
trở thành một trong những vùng của mình. Khi đặt tên đó, Trung Quốc
muốn nó mang ý nghĩa là “giống dân Tsang hay là kho tàng ở
phía tây của Trung Quốc”. Nhưng ngày xưa, nước này vốn là một
quốc gia riêng biệt mang tên là Thổ Phồn Quốc.
Từ ngữ Thổ bao gồm hai âm, một âm là
khẩu, còn âm kia là bộ thổ nghĩa là
vùng đất, vậy ý nghĩa là tiếng nói của
vùng đất. Còn âm Phồn
(đồng âm với từ ngữ "phiền" nghĩa là
một loại cỏ) thì có lẽ là do Trung Hoa
phiên âm của chữ Pö (có hai chấm trên đầu). Vì người dân Tây Tạng tự
gọi mình là giống dân Pö (nguyên từ Tây Tạng gọi là “Pö Pe”,
chữ Pö đọc theo âm Việt là Phơ, dịch âm ra ná ná như âm Phồn, còn từ
ngữ “Pe” trong tiếng Tây Tạng nghĩa là dân tộc). Như vậy, Thổ
Phồn có lẽ có nghĩa là vùng đất nói tiếng của dân tộc Pö.
Trong lịch sử có nói đến địa thế đặc biệt vô cùng hiểm trở của quốc
gia này, nằm ở trên một vùng cao nguyên rộng lớn và rất khó đi đến,
tạo cho nó thành một thế đứng riêng biệt và độc lập, bởi vì khi đó
sự giao thông còn rất là thô sơ. Muốn đi đến Thổ Phồn, từ Ấn Độ hay
từ Trung Quốc, phải dùng ngựa và đi bộ, trèo ngang qua núi Hy Mã Lạp
Sơn. Hành trình như vậy rất cheo leo và nguy hiểm, có thể mất mạng
dễ dàng, lại còn chưa kể đến thủy thổ khí hậu khắc nghiệt và rất
khác biệt giữa hai vùng cao (rất lạnh, loãng
dưỡng khí) và thấp (nóng) khác nhau, có thể làm cho kẻ du
hành mắc các chứng bệnh thời khí nguy hiểm nếu không có sức khỏe hơn
người.
Chính vì do thủy thổ và đường đi khó khăn cho nên Thổ Phồn quốc giữ
vững địa vị của mình, không bị xâm chiếm và không bị thế giới bên
ngoài ảnh hưởng nhiều. Vì thế mà đạo Phật phải mãi đến sau này, sang
thế kỷ thứ tám mới thực sự truyền vào được Thổ Phồn. Nhưng cũng
chính vì vậy mà Thổ Phồn giữ lại được tinh túy và các kinh sách của
Phật Pháp rất lâu, không bị mất mát.
Phải nói rằng điểm quan trọng của lịch sử Phật Giáo Tây Tạng nằm
trong điểm, ngoài địa thế hiểm trở giúp gìn giữ bảo tồn Phật Pháp,
còn phải kể đến lòng tinh thành cầu đạo của các vị minh quân của Thổ
Phồn quốc thời xưa ấy. Do chính lòng tinh thành hy sinh tính mạng
cầu đạo của các vị vua này mà một tông phái khá đặc thù của Phật
Giáo đã được chư tổ Ấn Độ mang và truyền sang bên đó, được gìn giữ
cho đến ngày nay. Đó là Mật tông, hay nói rõ hơn là Tạng Mật, chủ về
quán tưởng du già bổn sư. Tông phái này hơi khác so với Đông Mật,
là tông phái Mật thừa đã được ban truyền thẳng từ Ấn Độ sang các
vùng Đông Nam Á, bao gồm Trung Hoa, Việt Nam và Nhật Bản. Tiêu biểu
là các câu chuyện truyền lại về Từ Đạo Hạnh trong các thời Lý Trần.
Lịch sử Tây Tạng có ghi chép lại rõ rệt những tấm lòng mộ đạo tinh
thành của các vì vua mà tiêu biểu nhất là câu chuyện của vua Lhalama
Oe đã chịu hy sinh tính mạng mình trong tay kẻ thù là bộ tộc trưởng
Garlog Khan, và bảo cháu ruột là vua Jangchup Oe, thay vì dùng vàng
để chuộc mạng mình ra, thì hãy gom góp tất cả vàng trong nước để đi
thỉnh đại sư Atisha
(982-1054),
từ Ấn Độ sang Tây Tạng hoằng hóa Phật Pháp.
Do lòng tinh thành đó mà cảm động được đến Tổ Atisha, và rồi Tổ
Atisha đã âm thầm bỏ trốn sang Tây Tạng giúp nhà vua thiếp lập lại
chánh pháp Mật Tông, gọi là dòng truyền thừa Kadam. Hiện giờ tông
phái Giới Đức (T. Gelug, Hoàng Mạo tức là mũ vàng) của Đức Đạt Lai
Lạt Ma chính là dòng truyền thừa của tông phái Kadam, và kể từ đời
của Tổ Tông Khách Ba (1357-1419), gọi là Tân Kadam
(E. New Kadam)
Lịch sử Phật Giáo Tây Tạng được phân làm hai thời kỳ chính. Thời kỳ
đầu tiên bắt đầy khoảng thế kỷ thứ tám do Tổ Liên Hoa Sanh (C.
蓮花生,
S.
Padmasambhava
732
- ?)
sang Tây Tạng khai sáng ra dòng truyền thừa Cổ Mật (T. Nyingma).
Trong thời kỳ này khởi lên phong trào dịch kinh sách sang Tạng ngữ
lần thứ nhất. Sau thời này, Phật Giáo bị mai một đi và tái khai sinh
trở lại trong lần thứ hai gọi là Tân Mật vào khoảng cuối thế kỷ thứ
11
tổ Marpa (1012-1097),
vị đại dịch giả của thời Tân Mật và cũng là Thầy của
vị đại thành tựu giả (S. MahaSiddha) Milarepa (1040-1123).
Bổn tôn sư Liên Hoa Sanh và hồng quang thân.
Hình 3: Chủng tự Tây Tạng "AH", biểu tượng của sự quán tưởng tu tập
Hồng Quang Thân.
Sơ lược về lịch sử Phật Giáo Tây Tạng cho thấy rằng kể từ thế kỷ thứ
tám, Mật Tông của Phật Giáo đã được truyền qua Tây Tạng với tất cả
các tinh túy của tông phái này, và nhờ địa thế hiểm trở của Tây Tạng
mà dòng truyền thừa Mật Tông đã được gìn giữ đến ngày nay.
Theo Mật Tông, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, ngoài ba lần chuyển pháp
luân chính thức để truyền bá Hiển Giáo, đã phân thân đi những nơi
khác để thuyết pháp. Thí dụ như là Đức Thích Ca thường nhập thiền
định vào mùa mưa vào thời an cư kiết ha.
Chư
đệ tử chỉ thấy Ngài ngồi thiền định, nhưng thực ra trong lúc đó có
khi Ngài phân thân đi nơi khác hoằng đạo. Trong các kinh điển có ghi
lại là Ngài đã thi triển thần thông đi lên trên cung trời Đâu Suất
Thiên và ở tại đó 3 tháng để thuyết pháp cho Hoàng Hậu Ma Gia (Phạn
ngữ là Mayadevi, tức là mẹ sinh ra Ngài vì bà đã tạ thế bảy ngày sau
khi Ngài hạ sinh, và tái sinh vào thân của một vị Thiên Nam trên
cung trời Đâu Suất).
Cũng theo Mật Tông thì Đức Thế Tôn thường phân thân về vùng Nam Ấn
để truyền bá Mật Tông, và vì là pháp môn bí mật nên thường không
được ghi chép chính thức lại, và các pháp môn của Mật Tông được lưu
truyền qua Tây Tạng đến ngày nay.
Tóm lại, kể từ thế kỷ thứ tám, dòng truyền thừa của Mật Tông đã được
Tổ Sư Liên Hoa Sanh và chư tôn đưa về Tây Tạng, nhờ địa thế hiểm trở
và lòng tinh thành cầu đạo của các vị minh quân thời ấy mà được phát
triển hoằng bá trở thành quốc giáo của Tây Tạng. dòng truyền thừa
này được lưu truyền, bảo tồn không đứt đoạn cho đến ngày nay qua bốn
đại tông phái: Cổ Mật (Nyingma), Khẩu Truyền (Kagyu), Tát Già
(Sakya) và Giới Đức (Gelug).
Nhưng cho dù là Mật Tông chuyên tu về pháp môn chính yếu là "Du Già
Bổn Sư" (Guru Yoga), một pháp môn tương đối mới lạ với các truyền
thống tu tập chính của vùng Đông Nam Á, thì tựu chung lại, cũng
không qua những lời dạy của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni:
Khổ, Vô Thường, Không, Vô Ngã,
và đặt trên căn bản của chánh pháp. Mật Tông dạy hành trì ngay trong
giây phút hiện tại "Tự khởi mình thành vị Hộ Phật" (E. Self
Generation into the Deity), quán Thân Khẩu Ý của vị Hộ Phật hòa nhập
bất phân ly với Thân Khẩu Ý của chính mình để ngay trong hiện tại
hóa thành Tam Thân Giác Ngộ của chư Phật. Như vậy, ngay tại đây,
chấm dứt chạy theo tam độc, tham sân si, hòa nhập vào thân của vị Hộ
Phật. Ngay cả thân Phật này cũng phải quán là Không, để thiền định
thể nhập vào Tánh Không và Tâm Đại Bi.
Điều này chúng ta có thể nhận ra trong toàn thể các chương trình
giáo lý mà Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thiết lập trong truyền thống tu học
tại các Tu Viện Đại Học của tông phái Giới Đức. Chương trình đào tạo
cấp bậc Geshe của chư tăng Giới Đức bao gồm năm luận đề chính gọi là
Ngũ Đại Luận Đề như sau:
1. A
tỳ đàm
(Tib. wylie: mdzod, E. Higher Knowledge): bao gồm các bộ luận sau:
1.1 A
tỳ đàm Câu xá luận (S. Abhidharmakosa, E.
Treasury of Higher Knowledge,
The Buddhist Metaphysics, từ ngữ metaphysics của tiếng Hy lạp có ý
nghĩa là meta=siêu, physics=hình học) viết bởi Tổ Thế Thân (S.
Vasubandhu), bao gồm các phần: Vũ trụ luận (cosmology) và Hiện tượng
luận (ontology).
1.2 A
Tỳ Đàm Tập Luận (S. Abhidharma Samuccaya, E.
Compendium of Higher Knowledge) viết bởi Tổ Vô Trước (S. Asanga).
2. Bát nhã ba la mật
(T. wylie: ph.ar-phyin, S. Prajnaparmitas, E. Perfection of
Wisdom) bao gồm các bộ luận:
2.1 Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (S. Abhisamaya Alankara, E. Ornament
of Clear Realization) viết bởi Tổ Di Lặc (S. Maitreya) và Tổ Vô
Trước.
2.2 Hành Bồ Tát Hạnh (Tib. wylie: sPyod-‘jug, S. Bodhicharyavatara,
E. The Way of the Bodhisattva) viết bởi Tổ Tịch Thiên
(S. Shantideva).
3. Trung quán và Tánh Không
(S. Madhyamika, Sunyatavada), bao gồm các bộ luận:
3.1 Căn Bản Trung Quán Luận Tụng (T. wylie: rTsa dbu-ma,
E. Fundamental Wisdom of the
Middle Way
(Mulamadhyamakakarika) viết bởi Tổ Long Thụ (S. Nagarjuna).
3.2 Tứ Bách Luận (S. Catuhsataka, E. Four Hundred Verses on the
Yogic Deeds of Bodhisattvas) viết bởi Tổ Thánh Thiên (S. Aryadeva).
3.3 Nhập Trung Quán Luận (T. wylie: ’dBu-ma-la ‘Jug-pa, S.
Madhyamakavatara, E. Introduction to the Middle Way)
viết bởi Tổ Nguyệt Xứng (S. Chandrakirti).
3.4 Trung Quán Trang Nghiêm Luận (S.
Madhyamakalamkara,
E. Ornament of the Middle Way)
viết bởi Tổ Tịch Hộ (S. Shantarakshita).
3.5 Nhập Bồ Tát Hạnh (Tib. wylie: sPyod-‘jug, S. Bodhicharyavatara,
E. The Way of the Bodhisattva) viết bởi Tổ Tịch Thiên
(S. Shantideva).
4. Lượng học
(T. wylie: tshad-ma, S. Pramana, E. Valid Cognition, the Buddhist
logic and epistemology), bao gồm các bộ luận:
4.1 Lượng Thích Luận (S.
Pramanavarttika,
E. Treatise on Valid Cognition) viết bởi Tổ Pháp Xứng
(S. Dharmakirti).
4.2 Lượng Tập Luận (S.
Pramanasamuccaya,
E. Compendium on Valid Cognition) viết bởi Tổ Trần Na (S.Dignaga).
5. Luật
(T. wylie 'dul-ba, S.
Vinaya, E. Vowed Morality) với bộ luận:
Căn Bản Giới Luật Tụng
(Dülwa Do Tsawa, T. wylie 'dul-ba mdo rtsa-ba, S. Vinayamula, E. The
Root of the Vinaya ) viết bởi Tổ Đức
Quang (T.
Yönten Ö, T. wylie
yon tan 'od,
S.
Pandita Gunaprabha),
là một vị đại đệ tử của Tổ Thế Thân.
Chư
tăng tu học có thể tham dự các kỳ thi để lấy các cấp bậc Geshe từ
thấp đến cao như sau:
1. Bậc Tiểu Học Sĩ (Geshe Do-ram, T. wylie rdo rams).
2. Bậc Trung Học Sĩ (Geshe Ling-se, T. wylie Gling bsre).
3. Bậc Đại Học Sĩ (Geshe Tsok-ram, T. wylie Tshogs ram).
4. Bậc Thánh Giả (Geshe Lha-ram, T. wylie Lha rams ). Đây là cấp
bậc cao nhất và khó nhất của chương trình tu học, tương đương với
cấp bậc Tiến Sĩ của các đại học Tây phương, trung bình đòi hỏi
khoảng 25 năm tu học và phải trải qua nhiều kỳ thi, trong đó có kỳ
thi do Đức Đạt Lai Lạt Ma làm chánh chủ khảo).
Một lần nữa, dù là Mật giáo hay Hiển giáo, điều căn bản vẫn là dứt
tham ái, chứng Tánh Không, và phát Bồ Đề, Tâm Đại Bi, để đạt vào cỗ
xe duy nhất là Phật Thừa, đạt đến Chánh Đẳng Chánh Giác Tam Miệu Tam
Bồ Đề. Tất cả mọi con đường cũng chỉ nhằm đưa đến mục đích tối hậu
này.
Như vậy, chúng ta cần thâu tóm lại, mục đích tối
hậu của Phật Pháp là gì?
4. Mục đích tối hậu của Phật Pháp
Giáo lý Phật Giáo thường phân làm hai loại: quyền giáo và thật giáo.
Quyền giáo là những điều Đức Thế Tôn tạm thời phương tiện sử dụng để
dẫn dắt chúng sinh đi lên đến một trình độ cao hơn và sẵn sàng hơn
để thu nhận những điều học mới. Còn thật giáo là những điều Đức Thế
Tôn giảng dạy luôn luôn đúng cho bất cứ mọi thời và mọi trường hợp.
Tại sao lại phải như vậy? Đó là vì căn cơ khác nhau của chúng sinh.
Chư
tôn vẫn thường dùng thí dụ để giải thích. Giả dụ như là có một người
mắc bệnh lâu đời, sức khoẻ bạc nhược, nay muốn chữa dứt cho hết bệnh
thì phải dùng một liều thuốc cực mạnh, nhưng với thân thể bạc nhược
quá thì liều thuốc cực mạnh có thể làm người bệnh kiệt sức mà chết.
Do đó, thầy thuốc giỏi sẽ tạm thời cho người bênh uống thuốc bồi bổ
sức khỏe và đồng thời ngăn chặn không cho bệnh tăng trưởng. Đến khi
bệnh nhân tạm lấy lại sức lực mới dám cho liều thuốc cực mạnh để
diệt trừ căn bệnh gốc kia đi.
Tương tự như thế, quyền giáo và thật giáo chẳng qua chỉ cùng đi đến
một mục đích là Giác Ngộ tối thượng, nhưng vì tâm chúng sinh vốn từ
vô thỉ lăn lộn trong luân hồi và tam độc, cho nên bệnh đã nặng quá.
Nếu nhất định dùng thắng nghĩa giáo mà giảng cho nghe thì ắt có thể
làm cho chúng sinh phải sợ hãi mà bỏ đạo. Vì thế, Đức Thế Tôn từ từ
dùng các phương tiện dẫn dắt từng bước cho đến khi sẵn sàng nghe học
giáo pháp tối thượng.
Trong cuốn Phật Học Tinh Hoa, có viết: Do đó, Kinh Văn Thù chép
lời Đức Phật (khẳng định): “Suốt 49 năm Như Lai chưa từng nói một
lời. Một lời, là pháp chân thực thường nhiên, không thể diễn nói
được, và Như Lai ở trong trạng thái vô sinh, không từ đâu đến và
không đi về đâu…
Ðứng trên lập trường bản thể để xác định: “Như Lai chưa nói một
lời”. Nhưng đứng về hiện tượng giới, ta thấy Đức Phật Thích Ca, bằng
thân hình loài người, đi tu, đắc đạo và nói pháp, giáo hóa chúng
sinh trong 49 năm (Kinh điển Tiểu Thừa nói đức Phật thuyết pháp 45
năm), trụ thế 80 năm, rồi nhập Niết Bàn. Nói khác, là con người, hễ
có sinh ra là có chết đi. Thì ứng thân Thích Ca bằng thân hình loài
người cũng đã chết, cách nay 2515 – 1971. Nhưng Pháp thân Phật (Như
Lai) không chết – vì, Như Lai không từ đâu đến và không đi về đâu (…
vô sở tòng lai, diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai - Ðức Phật, từ bản
thể hiện ra hiện tượng nhưng vẫn không rời bản thể, siêu xuất cả hai
mặt mới gọi là Như Lai.)".
Cùng trên ý nghĩa này, xin nhắc lại lời Đức Thế Tôn thuyết giảng
trong kinh Kim Cang: "Tu Bồ Ðề! Ông đừng cho là Như Lai nghĩ như
vầy: Ta Có Thuyết Pháp. Tại sao vậy? Nếu người ta nói: Như Lai có
thuyết pháp, tức là phỉ báng Phật, vì không thể hiểu nổi lời ta nói.
Tu Bồ Ðề! Thuyết pháp là không có pháp gì để thuyết. Ðó gọi là
thuyết pháp".
Còn trong Kinh Lăng Già Tâm Ấn, Đức Thế Tôn cũng thuyết giảng:
"Ta từ đêm được tối thượng chánh giác, cho đến đêm vào Niết bàn, ở
trong khoảng giữa không nói một chữ, cũng chẳng đã nói, sẽ nói".
Thắng nghĩa của giáo lý thì bất khả thuyết. Tất cả còn lại thì chỉ
là, Đức Thế Tôn sử dụng phương tiện, tùy bệnh mà cho thuốc chúng
sinh…Và đã là tùy bệnh cho thuốc thì mọi pháp môn cũng chỉ là một
pháp môn, mọi tông phái cũng chỉ là một tông phái, lấy cái gì để mà
nắm giữ, để mà chấp trước ?
Cho nên chư tôn đã đề xướng tinh thần Bất Bộ Phái.
Như thế, khi nhìn lại và tổng hợp toàn bộ lịch sử 49 năm hoằng pháp
của Đức Thế Tôn thì chúng ta có thể rút ra điều căn bản của con
đường đạo Giác Ngộ là:
1.
Nhận ra chân lý là ba cõi, sáu nẻo luân hồi như nhà lửa,
không đâu trong ba cõi mà không có khổ (khổ đế trong Tứ Diệu Đế).
2.
Như vậy điều căn bản là làm thế nào để diệt khổ.
3. Muốn diệt khổ thì phải đoạn dục (vì ái dục càng uống càng khát,
càng khổ)
4.
Muốn đoạn dục thì phải phát trí tuệ hiểu rõ gốc rễ của khổ (Tập Đế),
giác ngộ lý Vô Thường, chặt đứt Vô Minh, chứng ngộ Luật Nhân Quả,
Thập Nhị Nhân Duyên và lý Duyên Khởi.
5.
Từ đó đi vào đạo lộ thiền định chứng ngộ Tánh Không, tận diệt chấp
ngã để ngộ Vô Ngã, Vô Sinh, tắt ngấm mọi ái dục, chứng Niết Bàn tịch
tĩnh và hành Bồ Tát Đạo để cứu độ vô lượng vô số chúng sinh hữu
tình. Tóm lại, đây là mục đích tối hậu của Phật Pháp.
Và như thế, chúng ta thấy rõ là đi trên đạo lộ Giác Ngộ, chúng ta
không thể nào không đi vào cánh cửa Không Môn.
5. Tánh Không là gì?
Nhìn tổng hợp tất cả các tiến trình thuyết pháp của Đức Thế Tôn, kết
hợp và tổng hợp các bài pháp đó lại liền lạc như một xâu chuỗi Bồ Đề
với 108 hột gắn liền lạc với nhau thì ta sẽ thấy suốt 49 năm hoằng
pháp Đức Thế Tôn đã bỏ sức lực và thời gian dẫn dắt chúng sinh đi từ
từ vào Tánh Không. Như khi lần chuỗi, ta phải lần từ hột trước rồi
mới sang đến hột sau. Cho đến khi lần qua hết 108 hột thì một biến
của xâu chuỗi đã tụng hoàn thành xong.
Khi áp dụng cái nhìn liền lạc như một xâu chuỗi đó vào Phật Pháp,
chúng ta sẽ thấy bởi vì Tánh Không vốn khó thuyết, khó hiểu, cho nên
Đức Thế Tôn đã phải phân giải thành các giai đoạn để tu học qua, như
khi lần chuỗi đi từng hột, tạm lập Tam Thừa Phật Giáo bao gồm Thanh
Văn Thừa, Duyên Giác Thừa, Bồ Tát Thừa và tựu chung lại là tối
thượng thừa, tức là Phật Thừa.
Chư
vị Thanh Văn nghe pháp, hiểu pháp và vào quả Nhập Lưu (văn, tư và
tu). Nhưng Nhập Lưu xong chẳng phải là ngừng ở đó mà nhờ thâu thập
đủ căn cơ trí tuệ mới có thể tiếp tục đi sâu vào thiền định và đắc
các quả vị dẫn đến A La Hán, Niết Bàn. Cũng như chư vị Duyên Giác
nhìn hoa rơi mà chứng ngộ lý Vô Sinh, vì chư vị đã có căn cơ cao
dày, có thể tự mình chứng Tánh Không Vô Ngã. Và khi đã tự giác thì
sau cùng là nhập vào Bồ tát hạnh, giác tha, và đắc Phật quả, giác
hạnh viên mãn. Tam Thừa như vậy tổng hợp lại cũng chỉ là Nhất Thừa.
Còn khi xét theo tiến trình hành trì qua tam học văn tư tu, thì tùy
theo căn tính bẩm sinh mà mình chọn lựa pháp môn thích hợp. Người đã
quen với tĩnh lặng thì tu Thiền Tông. Kẻ quen trì hồng danh thì tu
Tịnh Độ. Người thích hợp với quán tưởng thì tu theo Mật Tông Du Già.
Căn cơ mỗi mỗi tuy có khác nhau mà mục đích làm hiển lộ Phật tánh
thì đồng như nhau. Khi vào sâu trong pháp môn của mình thì cũng sẽ
chứng ngộ Tánh Không, Vô Sinh, Vô Ngã như nhau, hoặc trực tiếp đi
thẳng vào thiền định tánh Không, hoặc gián tiếp, nương qua trì hồng
danh Nhất Tâm Bất Loạn, hay là thiền quán Du Già Bổn Sư tự khởi mình
thành vị Hộ Phật, tất cả đồng đi chung đến một tánh Phật.
Thời Đức Thế Tôn còn tại thế có một câu chuyện về hành trì và căn cơ
như sau. Một hôm Đức Thế Tôn thu nhận một người vào trong tăng đoàn
và giao cho một vị trưởng lão trông nom giáo hóa. Sau một thời gian
thực hành thiền định, vị tăng sĩ mới này không hề có dấu hiệu tăng
tiến gì cả mà chỉ thấy mệt mỏi. Trưởng Lão bèn thưa với Đức Phật, để
xin Ngài chỉ dạy. Đức Thế Tôn bèn nhập thiền định quán về các đời
trước của vị tăng sĩ mới đó. Quán xong, Ngài bảo với vị Trưởng Lão
trở về dạy tăng sĩ đó thiền định trong tư thế nằm. Sau một thời gian
thì quả là vị tăng sĩ có tinh tấn thấy rõ. Trưởng Lão lấy làm lạ,
đến thưa thỉnh Đức Phật về điều đó và Ngài trả lời là vì vị tăng sĩ
đó có nhiều kiếp hóa thân làm bò cho nên tọa thiền không có kết quả
mà phải thiền trong tư thế nằm mới tinh tấn được.
Vậy, Tánh Không là gì ? Câu hỏi này thực sự không thể trả lời được.
Bởi vì Tánh Không vốn bất khả thuyết và chỉ có thể chứng ngộ qua
thiền định. Nhưng cần có một khái niệm về Tánh Không và từ sự hiểu
biết trên khái niệm mà ta có thể vào thiền định để chứng ngộ Tánh
Không này. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã thuyết giảng tiến trình hành trì về
Tánh Không tại đại học Lehigh, tiểu bang Pensylvania ở Hoa Kỳ như
sau. Muốn hành trì thiền định để trực ngộ vào Tánh Không, chúng ta
phải tu tập các giai đoạn như sau:
1. Trước hết phải tìm học thuộc về giáo lý về Tánh Không
(Văn).
2. Sau đó thì phải dùng thiền quán, phân tích sâu xa vào
trong Tánh Không (Tư).
3. Đến khi quán nhuần nhuyễn thì chuyển qua hành thiền chỉ, thiền
định nhất điểm,
và giữ tâm yên lặng, trong suốt, vào trong Tánh Không đó và nhờ
thiền chỉ mà sẽ trực ngộ vào trong Tánh Không (Tu).
Đây là giai đoạn tổng hợp và viên dung,
đạt an vui tịch tĩnh.
Dĩ nhiên lúc đầu thì hành giả phải hành trì cân bằng giữa chỉ và
quán, nghĩa là khi nào tâm quán trạo cử nhiều quá thì phải chuyển
sang thiền chỉ, và khi nào tâm chỉ trở nên hôn trầm, buồn ngủ, làm
lu mờ đối tượng của quán tưởng (là Tánh Không) thì quay trở lại
thiền quán, phân tích. Hành trì như vậy một thời gian thì tâm chỉ
càng ngày càng gia tăng cho đến khi đạt trực ngộ vào Tánh Không.
Thế thì chỉ có giai đoạn đầu tiên, là giai đoạn tìm học về giáo lý
của Tánh Không, mà chúng ta có diễn giải được. Và do đó mà chúng ta
chỉ có thể trả lời câu hỏi Tánh Không là gì trên ngữ cảnh của giai
đoạn này, bởi vì các giai đoạn sau là sự hành trì không thể diễn
giải, mà là các giai đoạn của sự tự tu, tự chứng.
Trước khi thuyết giảng về Tánh Không, Đức Đạt Lai Lạt Ma bao giờ
cũng khởi đầu bằng thuyết giảng về Tứ Diệu Đế, rồi chuyển qua Thập
Nhị Nhân Duyên, Nhân Quả và lý Duyên Khởi. Tại sao lại như thế ?
Cũng như Đức Phật Thích Ca ngày xưa khởi đầu bằng buổi thuyết pháp
đầu tiên cho năm anh em Kiều Trần Như tại vườn Lộc-uyển với bài pháp
Tứ Diệu Đế, rồi theo một thứ tự đi qua các bài pháp sau. Tương tự
như thí dụ lần chuỗi phải đi từ hột, chúng ta thấy rằng không thể
nào hiểu về Tánh Không (chỉ mới nói là hiểu, chứ chưa nói về chứng
ngộ) mà không hiểu căn bản của kiếp tái sinh là gì. Và như vậy Khổ
đế dạy cho chúng ta cái nền tảng của sáu cõi là khổ, nhưng không
phải vì vậy mà không thoát khổ được. Ngược lại, Ngài đã giảng về Tập
đế, vạch rõ cho chúng ta biết nguyên nhân của khổ, để khi hiểu rõ
nguồn gốc của khổ rồi thì Diệt đế là chấm dứt khổ và Đạo đế là con
đường thoát khổ.
Tứ Diệu Đế như thế mới chỉ là cái dàn bài, và Đức Thế Tôn từ từ đi
sâu vào hơn khi thuyết giảng Tập đế, Ngài chỉ rõ nguồn gốc của khổ
cho chúng ta qua Thập Nhị Nhân Duyên và hùng hồn xác nhận: “… khi Vô
Minh diệt thì Hành diệt, khi Hành diệt thì Thức diệt … cho đến Lão
Tử diệt và phá vỡ vòng luân hồi, thoát khổ…” Nguồn gốc của khổ chính
là Vô Minh, Vô Minh nghĩa là mù mờ si mê không hiểu rõ. Nhưng Vô
Minh không hiểu rõ cái gì ? Đức Đạt Lai Lạt Ma nhấn mạnh: có nhiều
loại và ý nghĩa của Vô Minh, nhưng trong bối cảnh nói về Thập Nhị
Nhân Duyên thì giáo lý nói rất rõ ràng: Vô Minh về chấp ngã,
cho rằng thân này, cái ngã của ta có thực, có tự tánh và trường tồn
độc lập, từ đó mà mọi khổ đau phát khởi, bởi vì bị thúc đẩy do lòng
ích kỷ chấp ngã và ta hành động tạo tác nghiệp dưới sự kiềm chế của
bản ngã, của tam độc tham sân si và cũng vì thế mà phải đi luân hồi
kiếp kiếp và chịu khổ. Giảng về sự tạo tác nghiệp đó cũng là giảng
về Nhân Quả, gieo nhân nào thì thọ quả đó.
Thế nhưng làm thế nào để diệt Vô Minh. Về điểm này, Đức Thế Tôn cũng
vạch rất rõ, Vô Minh chỉ có thể bị diệt trừ qua hành trì phát trí
tuệ, và không phải là phát bất kỳ trí tuệ nào. Chỉ có trí tuệ chứng
ngộ Tánh Không mới diệt trừ được Vô Minh mà thôi. Và Đức Đạt Lai Lạt
Ma nhấn mạnh, ngay cả tâm từ bi cũng không không thể diệt trừ Vô
Minh, phải phát trí tuệ chứng ngộ Tánh Không thì Vô Minh mới bị tiêu
trừ tận gốc rễ.
Và Đạo Đế chính là con đường hành trì chứng ngộ Tánh Không, diệt trừ
chấp ngã. Ngã đã diệt thì cũng đoạn diệt tham ái, tiêu trừ mọi ái
dục và nhập vào trạng thái tắt ngấm (mọi ái dục) đạt Niết Bàn tịch
tĩnh, không còn bị sai sử bởi ngã và lòng dục tức là tịch tĩnh an
nhiên tự tại. Tổ Long Thụ
viết trong Căn Bản Trung Quán Luận Tụng, phẩm 18, Quán Ngã và Các
Pháp, kệ số 4:
4.
Khi quán xét trong, ngoài,
Niệm “ngã”, “ngã sở” ngừng,
Chấp thủ cũng đã diệt,
Chấp diệt, chẳng tái sinh.
Câu hỏi còn lại là làm thế nào hiểu được Tánh Không ? Chính để trả
lời câu hỏi này mà Đức Thế Tôn và Đức Đạt Lai Lạt Ma thuyết giảng về
lý Duyên Khởi. Chỉ có thể hiểu Tánh Không đúng đắn khi hiểu về Duyên
Khởi. Bởi vì khi xưa, thời Tổ Long Thụ, các ngoại đạo và những kẻ
chống báng Tánh Không đã lý luận rằng, “nếu thực sự là không, thì
không có cái ta, và do đó mà cũng không có người tu tập, không có cả
con đường tu tập, chí đến không có cả Tam Bảo. Do đó mà giảng về
Tánh Không là hủy báng Phật Pháp”. (Tài liệu đã dẫn, Phẩm
24, Quán Tứ Thánh Đế, kệ 1 đến kệ 6):
1. [Bộ phái khác tranh cãi]
“Nếu tất cả đều không,”
“Không sanh cũng không diệt.
Vậy, theo [Trung Quán Tông]
Tứ Đế không hiện hữu.
2. “Vì Tứ Đế không thật,
Trí tuệ cùng đoạn tập,
Thiền định và chứng ngộ*:
Tất cả đều không có.
3. “Nếu tất cả không có,
Tứ thánh quả cũng không.
Vì không có bốn quả,
“Đắc”, “Hướng” cũng đều không.
4.
“Nếu Tám Bậc Hiền Thánh
Thảy đều nói không có,
Thì chẳng có Tăng Bảo.
Vì không có Tứ Đế,
Nên Pháp Bảo cũng không.
5.
“Pháp, Tăng Bảo đều không,
Làm sao có Phật Bảo ?
Giảng tánh không như vậy,
Là hủy báng Tam Bảo --
6.
Và như thế hủy báng
Chứng ngộ [của đạo] quả,
Cùng chối bỏ thiện, ác.
Nhất thiết thế gian pháp --
Đều bị hủy báng cả.”
Tổ Long Thụ đã trả lời hùng hồn, chính các vị mới là kẻ hủy báng
Phật Pháp vì các vị không hiểu Tánh Không và chẳng hiểu Duyên Khởi.
Tổ Long Thụ đã hùng hồn nói: Duyên Khởi chính là Tánh Không, bởi vì
Tánh Không chẳng phải là nói sự vật (chư pháp) không có hiện hữu, mà
nói rằng chính vì sự vật hiện hữu tùy thuộc vào những nhân duyên
điều kiện, nghĩa là tùy thuộc vào các thứ ngoài nó mà sinh ra, cho
nên không thể hiện hữu độc lập, không tồn tại thực sự và không có tự
tánh. Hiểu Tánh Không tức là hiểu Duyên Khởi, là tùy duyên mà sinh
ra, và hiểu Duyên Khởi tức là hiểu Nhân Quả. (Tài liệu đã dẫn,
Phẩm 24, Quán Tứ Thánh Đế, kệ 7 đến kệ 40):
7. Trả lời kẻ vấn nạn:
Ông đã không hiểu được,
Bổn tánh của tánh không,
Chẳng hiểu nghĩa lý không,
Nên hủy báng pháp ấy.
8.
Giáo pháp chư Phật thuyết,
Toàn đặt trên nhị đế:
Tục đế của thế gian.
“Nhất thiết tàng” thế đế
Và sau là chân đế.
9. Người nào chưa chứng ngộ,
Phân tỏ hai đế này,
Không thể đạt chân như
Chư Thế Tôn đã thuyết.
10. Nếu không nương tục đế,
Chẳng thể hiểu chân đế.
Chẳng chứng đệ nhất nghĩa,
Nên chẳng đắc Niết-bàn.
11.
Do tà kiến tánh không,
Kẻ độn căn tự hại.
Như kẻ ngu bắt rắn,
Người ngốc làm chú thuật.
12.
Vì biết rõ khó khăn
Người kém khó nhập vào,
Pháp thậm thâm vi diệu,
Nên tâm Thế Tôn ngại,
Chẳng muốn thuyết pháp này
13.
Kết luận về tánh không
Của ông sai, vô lý.
Luận cứ bác tánh không,
Theo tôi, chẳng hữu lý.
14.
Nên hiểu không là nhân
Tạo thành nhất thiết pháp.
Còn phủ nhận tánh không,
Là phủ nhận các pháp.
15. Ông quy lỗi cho tôi,
Thật ra, tự ông lỗi.
Như kỵ nhân cưỡi ngựa,
Mà quên ngựa đang cưỡi.
16. Nếu ông thấy chư pháp,
Hiện hữu bởi tự tánh,
Tức là thấy các pháp,
Chẳng có nhân và duyên.
17.
Chỉ vì thấy như thế,
Ông bác bỏ tất cả,
Nhân, quả, cùng tác giả,
Hành động và mục tiêu.
Sinh, diệt của vạn vật.
18. Các
pháp do duyên sinh,
Tôi nói chính là không,
Cũng gọi là giả danh,
Cũng là Trung Đạo nghĩa.
19. Chưa hề có pháp nào,
Chẳng do nhân duyên sinh.
Nên chẳng có pháp nào,
Mà chẳng phải là Không.
(v.v... cho đến hết kệ số 40).
Hai câu kệ nổi tiếng của Tổ Long Thụ số 18 và 19, đã được Ngài Cưu
Ma La Thập
dịch sang Hán văn rất là gọn và hay:
18. Chúng nhân duyên sinh pháp
Ngã thuyết tức thị không
Thị danh vi giả danh
Diệc danh Trung đạo nghĩa
19. Vị tằng hữu nhất pháp
Bất tùng nhân duyên sinh
Thị cố nhất thiết pháp
Vô bất thị không giả.
Khi hiểu được Duyên Khởi thì hiểu được Tánh Không và hiểu được Tánh
Không thì càng tuân thủ theo luật Nhân Quả. Kẻ hiểu sai Tánh Không
thì cho là không có ta thì không có nghiệp, và thấy là không có nhân
và không có quả, và do đó mà hành động phóng túng, tạo nghiệp bừa
bãi để rồi đọa xuống các nẻo ác do si mê tà kiến, hiểu sai Tánh
Không và Nhân Quả.
Do đó mà trong kinh Lễ Cúng Dường Đức Bổn Sư
của Mật Tông Tối Thượng, chúng ta cầu xin được ban cho trí tuệ thấu
hiểu Trung Quán Luận của Tổ Long Thụ, qua câu kệ số 108 như sau:
Luân hồi và Niết Bàn cũng còn thiếu một vi trần của tự tánh
Khi mà thuyết Nhân Quả và Tương Tức Duyên Khởi không bao giờ sai
Chúng con xin đươc sự hộ trì của đức Bổn Sư để nhận thức rõ ràng ý
nghĩa trong tư tưởng Trung Quán Luận của Bồ Tát Long Thụ
Đó là hai thuyết trên bổ sung, khế hợp nhau mà không hề đối nghịch.
Mật Tông Tây Tạng thường thiền quán Công Đức Điền (nghĩa là ruộng
công đức, đôi khi còn được dịch là Tổ Sư Thụ,)
tức là hình vẽ của tông chi của chư Tổ Sư (xem hình 3). Trong cuốn
“Giải Thoát Trong Lòng Tay”
(bản Anh ngữ, trang 300), có giải thích cặn kẽ về cách quán tưởng
Công Đức Điền. Như trong hình vẽ, Đức Bổn Sư (có thể quán là Đức Thế
Tôn Thích Ca Mâu Ni) ngồi chính giữa, bên tay phải của Ngài là Đức
Di Lặc và bên tay trái của Ngài là Đức Văn Thù Sư Lợi bao quanh bởi
toàn chư Phật, Bồ Tát và chư Tổ. Hai vị Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi và Di
Lặc tượng trưng cho hai dòng truyền thừa chính là Tri Kiến Thâm
Diệu và Hành Trì Quảng Đại,
nghĩa là hai cánh chim Trí và Bi, giúp ta có thể bay bổng trên vòm
trời của Giải Thoát Giác Ngộ. Tất cả mọi tông phái mang chánh pháp
của Tạng Mật đều phải đi xuống từ hai dòng truyền thừa này mới có
giá trị.
Công Đức Điền trong truyền thống Tạng Mật.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi truyền xuống cho Tổ Long Thụ (S.
Nāgārjuna),
và Bồ Tát Di Lặc truyền xuống cho Tổ Vô Trước (S.
Asaṅga).
Như vậy Tổ Long Thụ là vị Tổ trong dòng truyền thừa Tri Kiến Thâm
Diệu ban cho chúng ta trí tuệ và Tổ Vô Trước là vị Tổ trong dòng
truyền thừa Hành Trì Quảng Đại ban cho chúng ta từ bi.
Tóm lại,
Trung quán tông (C.
中觀宗,
hay
Trung luận tông,
C.
中論宗,
S.
Mādhyamika,
T.
Dbu
ma pa),
được
sáng lập ra bởi Tổ
Long Thụ (C.
龍樹,
S.
Nāgārjuna)
và
Thánh Thiên (C.
聖天,
S.
āryadeva),
truyền thừa liên tục tại Ấn Độ qua Lục Đại Pháp Vương.
Chư tổ đại diện
xuất sắc của
tông
phái này là
Phật Hộ
(S.
Buddhapalita,
thế kỷ thứ 5), Thanh Biện (S. Bhāvaviveka, thế kỷ thứ 6),
Nguyệt Xứng (S.
Candrakīrti,
thế kỉ
thứ
8),
Tịch Thiên Santideva (thế kỉ
7-8),
Tịch Hộ (C.
寂護,
S.
śāntarakṣita,
750-802,
thế kỷ
thứ
8) và
Liên Hoa Giới (S.
Kamalaśīla,
thế kỷ
thứ
8).
Tổ Long Thụ sáng lập tông Trung Quán qua các bài đại luận trên các
hệ kinh điển Bát Nhã. Ngài không đưa ra lý luận gì mà chỉ dùng biện
chứng pháp phủ định,
còn gọi là “Quy Mậu Luận Chứng” (L.
Reductio ad absurdum) để phá tà hiển chánh, nghĩa là dựa trên chính
lý luận của những kẻ vấn nạn mà dẫn dắt, đưa họ tự đi đến nghịch lý.
Phương pháp phủ định đó Phạn ngữ gọi là
Prasaṅga
nghĩa là hệ quả (E. Consequence, dẫn lý luận của kẻ vấn nạn đi đến
nghịch lý).
Tổ Phật Hộ đã dựa trên các bài luận đó mà viết cuốn “Phật Hộ Căn Bản
Trung Quán Luận Thích” (S.
Buddhapālita-mūlamadhyamaka-vṛtti).
Phương pháp phủ định
Prasaṅga
chỉ dùng sự “phủ định không bao hàm xác định”,
nghĩa là phủ định mà không đưa đến một hàm ý xác định nào, thí dụ
như câu tam đoạn luận
sau, “Từ
đó suy ra rằng tất cả mọi pháp đều bất sinh, bởi vì các pháp đều do
duyên khởi mà có”.
Sự phủ định này chỉ thuần chất phủ định, các pháp đều bất sinh, chấm
hết, không có thêm một hàm ý xác định nào bên trong.
Thế kỷ thứ 6 sau đó, Tổ Thanh Biện đã viết bài luận dựa trên
cuốn “Phật Hộ Căn Bản Trung Quán Luận Thích” để đưa ra những luận cứ
đề xướng “phủ định bao hàm xác định”,
thí dụ như
câu “Từ đó suy ra rằng tất cả mọi pháp đều tự
bản tánh bất sinh, bởi vì các pháp đều do duyên khởi mà có”,
câu này tuy phủ định “tự tánh sinh khởi”, nhưng đồng thời cũng ám
chỉ là trên phương diện tục đế của thế gian quy ước, các pháp có
sinh diệt (bởi vì nói rằng bất sinh ở trên phương diện chân đế, là
thắng nghĩa đế). Đó là lối lý luận dùng
phương pháp suy luận biện chứng
dựa
trên cơ sở
Nhân
minh học (S.
Hetuvidyā)
và Lượng
học (S.
Pramāṇavāda).
Sự khác biệt với phương pháp phủ định
Prasaṅga
bên trên là ở chỗ,
có thêm các
chữ “tự bản tánh” vào trong câu, như vậy bao
hàm thêm sự xác định ở bên trong sự phủ định.
Thế kỷ thứ 8, Tổ Nguyệt Xứng lại bác bỏ các luận cứ của Tổ Thanh
Biện biện hộ để đi trở về “Phương
pháp phủ định không xác định
Prasaṅga”,
và từ đó truyền thống Giới Đức (Gelug) do Tổ Tông Khách Ba đã đi
theo sát đến ngày nay.
Như vậy, sau Tổ Nguyệt Xứng và thế kỷ thứ 8 thì Trung Quán Tông phân
làm hai chi là Trung Quán Cụ Duyên Tông (中觀具緣
, S. Prasaṅgika,
cũng gọi là
Trung Quán Ứng Thành Tông, C.
中觀應成宗
, E. The Consequence School) và chi kia là Trung Quán Tự Ý Lập Tông
(C.
中觀自意立宗,
hay Trung quán-Y tự khởi tông, C.
中觀依自起宗
, S. Svātantrika,
E. The Self-Established School,
cũng dịch là
The Autonomy School).
Trong khi đó, cũng vào thế kỷ thứ 8, Tổ
Tịch Hộ (C.
寂護,
S. śāntarakṣita)
thì lại kết hợp Du Già Hành Tông (S.
Yogācāra, của Tổ Vô Trước, còn gọi là Duy Thức Tông)
và tông phái của Tổ Thanh Biện để thành lập tông phái Trung Quán Du
Già Hành Tông (mādhyamika-yogācāra,
hay còn gọi là Trung Quán Duy Thức Tông).
Trung Quán Cụ Duyên Tông (hay Trung Quán Ứng Thành Tông) mang tên đó
là do phạn ngữ “prasaṅga”
(và người theo Prasaṅga
gọi là Prasaṅgika)
có nghĩa Hệ Quả, bởi vì
chuyên dùng chính lý luận của đối phương để đưa họ đến một hệ quả (prasaṅga)
nghịch lý sau đó. Tông phái này là truyền thừa thẳng xuống từ Tổ
Nguyệt Xứng, và đề xướng Tánh Không, vô tự tánh của tất cả mọi pháp,
không đưa thêm luận cứ nào về Chân tánh (hay Phật tánh, E. Ultimate
nature) của Thắng nghĩa đế (hay Chân đế, E. Ultimate truth).
Trung Quán Tự Ý Lập Tông (hay Trung quán-Y tự Khởi tông) thì kết hợp
lý luận của Duy thức tông và Nhân minh học của Trần-na (C.
陳那,
S. Dignāga) để tự lập (self-established), tạo thành một tam
đoạn luận độc đáo của chính mình mà trong đó, cả ba mệnh đề (Tiền
đề, Trung đề và Kết luận) đưa ra một luận điểm tự lập, tự khởi, và
sau đó đi đến bác bỏ lập luận đối phương. Từ hai tông phái này mà
sau chuyển thành hai trường phái Tự Tánh Không (T. Rang-tong) và Tha
Tánh Không (Shen-tong), sẽ bàn qua ở phần sau.
Mật Tông được đưa sang Tây Tạng với toàn bộ giáo lý Tánh Không qua
Tổ Liên Hoa Sanh (Padmasambhava 732
- ?) và đi xuống qua các đại pháp vương
Marpa (thầy của Tổ Milarepa), Sakya Pandita, Dolpopa, Longchenpa,
Tsongkhapa, Tangtong Gyalpo, Taranatha, Jigme Lingpa, và các chư vị
khác, để rồi chuyển thành bốn đại tông phái hiện giờ là Cổ Mật
(Nyingma), Khẩu Truyền (Kagyu), Tát Già (Sakya) và Giới Đức (Gelug).
Đến đây thì Tánh Không tức là Trung Quán Tông lại phân ra làm hai
trường phái của Tây Tạng là Tự Tánh Không (T. Rang-tong, E.
Self-empty) và Tha Tánh Không (Shen-tong, E. Other-empty).
Tự Tánh Không đến từ các giáo thuyết của Tổ Long Thụ và Nguyệt Xứng,
cũng chính là truyền thừa từ Trung Quán Cụ Duyên Tông (Prasaṅgika).
Tha Tánh Không thoát thai từ Trung Quán Du Già Hành Tông (S.
Yogacara
Madhyamaka)
của Tổ Vô Trước và Tổ
Tịch Hộ. Sau này, do chính vị
Tổ Sư Dolpopa Sherab Gyeltsen (1292-1361) sáng lập ra tông phái Giác
Nang (C.
觉囊
, T. Jonang) đề xướng. Gần đây hơn nữa vào thế kỷ thứ 16, Tha Tánh
Không do đại sư Taranatha (tên này mang ý nghĩa là vị chuyên tu hành
trì pháp môn Phật Phổ Độ Mẫu, S. Tara), cổ súy.
Sơ lược thì Tự Tánh Không đề xướng là “nhất thiết chư pháp đều
hoàn toàn trống rỗng, không có tự tánh” và
ngoài ra không thừa nhận điều gì
khác.
Bởi vì Chân Tánh hay Phật tánh là điều không thể dùng khái niệm mà
diễn tả, vì trạng thái của Chân Tánh vốn bất khả thuyết, bất khả tư
nghì. Cho nên Tự Tánh Không đề xướng "Nhất Thiết Pháp Không", tất cả
mọi sự vật đều trống rỗng, không có tự tánh. Còn Chân Tánh thì vô
ngôn. Về điểm này, có điều tương đồng với Thiền Tông, và ta còn nhớ
lại những giai thoại trong Thiền môn, với các thí dụ nổi tiếng nhất
là "Vân Môn càn thỉ quyết", hay là "Triệu Châu đình tiền
bách thọ tử".
Còn Tha Tánh Không đề xướng:
bổn tánh của tâm “trống rỗng các thứ khác” (nghĩa là trống rỗng tất
cả mọi tánh chất ngoài cái tự tánh bất khả thuyết).
Theo Tha Tánh Không thì Chân Tánh Tối Hậu cũng có đặc điểm của Tánh
Không, nhưng Tánh Không của Chân Tánh Tối Hậu không thể nào có cùng
đặc tính với Tánh Không của các pháp hữu tướng, hữu vi.
Chúng ta hãy đọc những điều Đức Đạt lai Lạt Ma giảng về Tha Tánh
Không và Tự Tánh Không như sau (trích từ bài giảng Duyên Khởi):
“Bởi vì có một sự nhấn mạnh lớn trong hệ giáo lý Đại Viên Mãn trên
tu tập về bổn tâm Tịnh Quang bẩm sinh, nên có sự trình bày khác
thường về nhị đế. Vì thế nên gọi là nhị đế đặc biệt. Điều này có thể
giải thích sơ lược như sau, cái gọi là tánh căn bản và bẩm sinh
chính là chân đế, và bất cứ cái gì liên hệ đến những thứ ngoại lai,
đều là tục đế. Trên quan điểm này, bổn tâm Tịnh Quang bẩm sinh trống
rỗng không có tất cả những gì của tục đế, không có những pháp ngoại
lai, như thế có nghĩa là Tha-Tánh-Không,
là Tánh Không của những thứ khác (ngoài nó). Tuy vậy còn nói thêm là
cái bổn tâm Tịnh Quang bẩm sinh này có một bản tánh thuần thanh
tịnh, như thế, tâm ấy không vượt khỏi bản chất của Tánh Không, không
có hiện hữu tự tánh, đã được đề ra trong
kỳ chuyển pháp luân thứ hai
của Phật giáo.
Vì Tha-Tánh-Không này đã được đề ra trong ý hướng phù hợp với “Tánh
Không, không có hiện hữu tự tánh”
trong kỳ chuyển pháp luân thứ hai, như trong Trung Quán, có một số
học giả gọi đó là Tha-Tánh-Không đúng. Trong khi chư vị học giả đã
gọi
"cái giáo lý về Phật tánh, hay là bổn tâm Tịnh Quang, trong đó đã
nhìn hạ thấp kỳ chuyển pháp luân thứ hai xuống, để biện luận rằng
cái bổn tâm Tịnh Quang có tự tánh",
là loại tha-tánh không sai lầm. Rất nhiều chư vị trong các hệ phái
của Phật giáo Tây Tạng, Cổ Mật (Nying-ma), Khẩu Truyền (Ka-gyu), Tát
Già (Sa-kya), Giới Đức (Ge-lug) đã đặc biệt bác bỏ lối trình bày của
một vài cách nhìn cho rằng chân đế là có tự tánh. Chư vị cũng bác bỏ
lối trình bày của một số người cho rằng: “Tánh
Không, không có hiện hữu tự tánh”
giảng dạy trong hệ Trung Quán là một loại giáo lý thấp, và gọi đó là
một “Tự-Tánh Không” thấp kém. Loại giảng dạy như thế là không đúng.”
Và như thế thì cả hai Tha Tánh Không hay Tự Tánh Không cũng cùng một
tánh, chỉ là đứng trên quan điểm tu tập và hành trì khác nhau mà
giải thích, còn ý nghĩa tối hậu cũng đồng y như nhau.
6. Tinh Thần Bất Bộ Phái
Bất Bộ Phái dịch từ chữ “Ris-med” (đọc là ri-mê) của Tây
Tang. "Ris" nghĩa là theo một phe nhóm hay theo một bên, còn "med"
có nghĩa là không, là bất. Như vậy Bất Bộ Phái nghĩa đen là không
theo một phe nhóm nào.
Thực sự ra, tinh thần Bất Bộ Phái chẳng phải khởi xướng từ chư vị
tôn sư Jamyang Khyentse Wangpo và Jamgon Kongtrul đời thứ nhất,
Lodro Thaye. Ngay từ thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Ngài đã nghiêm
cấm đệ tử không được chỉ trích các giáo pháp và các vị tôn sư trong
các tôn giáo và văn hóa khác. Và lời răn dạy này mạnh mẽ đến độ Tổ
Nguyệt Xứng phải biện hộ cho bài luận về Trung Quán của tổ Long Thụ
và nói rằng: "Nếu trong khi tìm hiểu về chân lý, ta đã phá tan tà
kiến của một số người và do đó đồng thời làm cho một số học thuyết
bị sụp đổ, thì đó không thể nào gọi là chỉ trích các tông giáo khác”.
Một người Phật tử chân chính nên có tinh thần Bất Bộ Phái và hành xử
theo phong cách của Bất Bộ Phái.
Người ta thường hay nhầm lẫn, cho rằng Bất
Bộ Phái nghĩa là “mang tất cả các truyền thống tu tập khác nhau
trộn lại, hòa lại thành một” qua các điểm tương tự của các tông
phái đó. Ngược lại, Bất Bộ Phái nghĩa là nhận biết các sự khác biệt
của từng truyền thống, gìn giữ và bảo tồn tinh túy của từng truyền
thống của các tông phái khác nhau đó.
Bất Bộ Phái không có nghĩa là “không gìn giữ truyền thống tu tập
của mình”, Điểm quan trọng nhất là không được trộn lẫn các tu
tập của truyền thống này sang truyền thống khác. Điều này Đức Đạt
Lai Lạt Ma đã nhiều lần dặn dò chư tăng, là có thể tu theo các pháp
môn của các truyền thống khác nhau, nhưng tuyệt đối không lấy râu
ông nọ mà cắm cằm bà kia, nghĩa là phải giữ gìn từng các pháp môn ấy
nguyên chất và nguyên thủy. Các phần hành trì và các giai đoạn hành
trì của Pháp môn của tông phái khi học thế nào thì phải giữ y nguyên
tinh chất như thế.
Vậy Bất Bộ Phái là gì ?
Nói một cách đơn giản thì đó là
“không được si mê mù quáng chỉ trích các truyền thống khác là sai
lầm và nếu có sự hiểu lầm do vô minh nào thì phải giải tỏa nhẹ
nhàng sự hiểu lầm đó ngay lập tức”.
Vị tôn sư Jamgon Kongtrul có tóm tắt quan điểm của Ngài về Bất Bộ
Phái như sau:
"Chư tôn sư và chư vị đại thành tựu giả của các tông phái khác nhau
đã trình bày Phật Pháp theo từng quan điểm của chư vị. Mỗi tông phái
đều có đầy những điểm đặc thù tinh túy riêng và được hỗ trợ bởi các
luận cứ vững chắc. Nếu ta học kỹ càng truyền thống của mình và nắm
vững hệ giáo lý truyền thừa của mình cũng như có nền tảng vững chắc
trên các giáo pháp của dòng truyền thừa thì không có gì để mà phải
trở thành bộ phái si mê mù quáng. Ngược lại, nếu ta lẫn lộn giữa các
hệ tông phái khác nhau và kẹt trong từ ngữ thì có nghĩa là chính ta
chưa nắm vững được truyền thống của dòng truyền thừa của chính mình.
Như thế, ta sẽ cố sử dụng lẫn lộn các truyền thống khác nhau để minh
định cho sự hiểu biết của mình, và như thế càng ngày càng rối rắm
trầm trọng trong các giáo lý, trong các hành trì thiền định, trong
các giới hạnh và kết quả tu tập, y như một người thợ dệt vải vụng
về. Trừ phi có một sự hiểu biết chắc chắn trong truyền thống mình tu
tập, nếu không ta sẽ không thể dùng lý luận để hỗ trợ cho kinh điển,
và sẽ không thể bàn luận về điều mà những người khác khẳng định. Lý
luận của chúng ta sẽ trở thành hý luận dưới mắt nhìn của các chư
tôn. Vì thế, tốt hơn là phải học hỏi kỹ càng truyền thống giáo lý
của chính dòng truyền thừa của mình trước đã.
Sau cùng điểm tóm lại là ta phải thấy rõ tất cả mọi giáo pháp đều
không có gì đối nghịch nhau, và phải xem tất cả kinh điển là những
giáo pháp hành trì. Làm được như thế thì gốc rễ của đầu óc bộ phái
và các định kiến sẽ bị đánh bật ra khỏi tâm thức và giúp cho ta đứng
vững chắc trong nền tảng của giáo lý đạo Phật. Đạt đến chỗ này thì
hàng trăm cửa ngõ dẫn vào 84 000 pháp môn sẽ mở rộng cùng một lượt
cho chúng ta”.
7. Tổng Kết
Khi nhìn lại toàn bộ giáo pháp dưới quan điểm Tổng Hợp và theo tinh
thần Bất Bộ Phái thì chẳng thấy có phân biệt trên các giáo pháp, tất
cả giáo pháp cũng đều đưa đến cánh cửa Không Môn. Phật tánh chỉ có
một, cho dù là Thanh Văn, Duyên Giác hay Bồ Tát, cho dù là Tha Tánh
Không hay Tự Tánh Không, ngôn từ có khác biệt trên vị trí đứng nhìn
và trên giáo pháp phương tiện của sự hành trì khế lý và khế hợp với
từng căn cơ của mỗi chúng sinh, nhưng ý nghĩa chỉ là một vị duy
nhất: Duyên Khởi và Tánh Không.
Vì lý Duyên Khởi và Tánh Không là cột trụ của Phật Pháp, cho nên Đức
Đạt Lai Lạt Ma đã thuyết giảng Kệ Tán Thán Thuyết Duyên Khởi
của Tổ Tông Khách Ba, tại San Francisco vào tháng 04, 2007. Xin
trích các kệ số 4 và 5:
4.
Và vì là như thế, Ôi, thưa Đức Độ Sinh,
Ai người có thể tìm, Câu tán thán diệu kỳ
Hơn là [tán thán Ngài], Đã
dạy rằng sinh khởi
Vốn tùy thuộc nhân duyên.
5.
“Chúng nhân duyên sinh pháp,
Ngã thuyết tức thị không.”
Còn có giáo lý nào, Vô song và kỳ diệu
Hơn được cả hai câu, Đã tuyên thuyết ở trên ?
Và để tóm lại, Tánh Không khi nhìn dưới con mắt tổng hợp, toàn diện
thì chính là Tứ Diệu Đế, chính là Thập Nhị Nhân Duyên, chính là Nhân
Quả và nhất là, chính là Duyên Khởi.
Và Tánh Không như thế cũng chính là tâm Đại Bi, vì từ Tánh Không mà
khởi tâm Đại Bi.
Không Quán
Pháp danh Sonam Nyima Chân Giác
Tháng 12 năm 2008.
PhẦn PhỤ LỤc
Tóm lược các trước tác chính của chư Tổ trong Trung
Quán.
(trích từ Tự Điển Phật Học của Chân Nguyên )
Tổ Long Thụ (C.
龍樹
,
S.
Nāgārjuna,
150-250 ):
1.
Căn bản trung quán luận tụng
(S.
[mūla-] madhyamaka-kārikā), cũng được gọi là
Trung quán luận tụng, hoặc Trung quán luận (S.
madhyamaka-śāstra),
Cưu-ma-la-thập dịch Hán văn.
Còn
Phạn bản, E.
The Root of Wisdom;
2.
Căn bản trung quán luận thích vô uý chú
(S. mūlamādhyamikavṛtti-akutobhayā),
được gọi tắt là Vô uý chú, chỉ còn bản Tạng ngữ;
3.
Đại trí độ luận
(S. mahāprajñāpāramitā-śāstra, mahāprajñāpāramitopadeśa),
100 quyển, Cưu-ma-la-thập dịch;
4.
Thập nhị môn luận
(S. dvādaśanikāya-śāstra, dvādaśadvāra-śāstra),
Cưu-ma-la-thập dịch;
5.
Nhân duyên tâm luận tụng
(S. pratītyasamutpāda-hṛdaya-kārikā),
không biết người dịch; còn
Phạn bản;
6.
Đại thừa nhị thập tụng
(S. mahāyāna-viṃśikā),
Thí Hộ dịch;
7.
Bảo hành vương chính luận
(S. rājaparikathā-ratnāvalī, cũng được gọi là ratnāvalī,
hay Vòng bảo châu), 1 quyển,
Chân Đế (S. paramārtha)
dịch, còn
Phạn bản;
8.
Thất thập không tính luận
(S. śūnyatā-saptati), bản Tạng ngữ vẫn còn; còn
Phạn bản
9.
Thất thập không tính luận thích
(S. śūnyatā-saptativṛtti),
chú giải Thất thập không tính luận,
Nguyệt Xứng (S.
Candrakīrti) và Parahita cũng có soạn một tác phẩm dưới tên
này;
10.
Phương tiện tâm luận
(S. upāya-hṛdaya),
một tác phẩm về Luận lí học (nhân minh) được xem là của Sư, bản
dịch Hán vẫn còn do Cát-ca-dạ dịch;
11.
Tập kinh luận
(S. sūtrasamuccaya); có hai tập dưới tên này: một tác phẩm
có lẽ đã thất truyền của
Tịch Thiên (S.
śāntideva) và
một tác phẩm được xem là của Sư;
12.
Hồi tránh luận
(S. vigraha-vyāvartanī, vigrahavyāvartanīkārikā),
Tì-mục Trí Tiên và Cù-đàm Lưu-chi dịch chung; còn
Phạn bản;
13.
Hồi tránh luận thích
(S. vigraha-vyāvartanī-vṛtti);
14.
Long Thụ Bồ Tát khuyến giới vương tụng
(S. ārya-nāgārjunabodhisattva-suhṛllekha),
Nghĩa Tịnh dịch, còn
Phạn bản;
15.
Quảng phá kinh
(vaidalya-sūtra?), Quảng phá luận (vaidalyaprakaraṇa?),
bản dịch Hán và Tạng ngữ vẫn còn;
16.
Lục thập tụng như lí luận
(S. yukti-ṣaṣṭhikā),
Thí Hộ dịch, cũng có bản Tạng ngữ;
17.
Thập trụ tì-bà-sa luận
(S. daśabhūmi-vibhāṣā-śāstra),
17 quyển, Cưu-ma-la-thập dịch;
18.
Bồ-đề tâm ly tướng luận
(S. lakṣaṇavimukta-bodhihṛdaya-śāstra),
1 quyển, Thí Hộ dịch;
19.
Đại thừa phá hữu luận
(S. mahāyāna-bhavabheda-śāstra), 1 quyển, Đạt-ma-cấp-đa (S.
dharmagupta) dịch;
20.
Tán Pháp giới tụng
(S. dharmadhātu-stotra), 1 quyển, Thí Hộ dịch;
21.
Bồ-đề tư lương luận
(S. bodhisaṃbhāraka),
6 quyển, Đạt-ma-cấp-đa (S. dharmagupta) dịch.
Tổ Thánh Thiên (C.
圣天,
S. āryadeva,
khoảng thế kỷ thứ 3)
1.
Tứ bách luận (S. catuḥśataka);
2.
Bách tự luận (S.
akṣaraśataka);
3.
Chưởng trung luận (S.
tālāntaraka-śāstra hoặc hastavālaprakaraṇa),
Nghĩa Tịnh dịch.
(Có nghi vấn là quyển này do Tổ Trần-na viết).
Tổ
Trần-na (C.
陳那,
S. Mahā-Dignāga, Diṅnāga,
480-540)
1.
Phật mẫu bát-nhã-ba-la-mật-đa viên tập yếu nghĩa
luận
(S. buddhamatṛkā-prajñāpāramitāmahārthasaṅgītiśāstra,
có người xem là tác phẩm của Tam Bảo Tôn, S. triratnadāsa),
Thí Hộ dịch;
2.
Vô tướng tư trần luận,
1 quyển,
Chân Đế (S. paramārtha)
dịch;
3.
Chưởng trung luận
(S. tālāntaraka-śāstra hoặc
hastavālaprakaraṇa),
1 quyển,
Nghĩa Tịnh dịch;
4.
Thủ nhân giả thuyết luận
(S. prajñaptihetu-saṃgraha),
1 quyển, Nghĩa Tịnh dịch;
5.
Quán tổng tướng luận tụng
(S. sarvalakṣaṇadhyāna-śāstra-kārikā),
1 quyển, Nghĩa Tịnh dịch;
6.
Quán sở duyên duyên luận
(S. ālambanaparīkṣā,
ālambanaparīkṣā-vṛtti),
chú giải Vô tướng tư trần luận;
7.
A-tì-đạt-ma-câu-xá luận chú yếu nghĩa đăng
(S. abhidharmakośa-marmapradīpa[-nāma]), còn bản
Tạng ngữ;
8.
Nhập du-già luận
(S. yogāvatāra), còn bản Tạng ngữ;
9.
Nhân minh chính lí môn luận bản
(S. nyāyamukha, nyāyadvāra,
nyāyadvāratarka-śāstra), 1 quyển,
Huyền Trang dịch;
10.
Nhân minh chính lí môn luận
(S. nyāyadvāratarka-śāstra), 1 quyển,
Nghĩa Tịnh dịch;
11.
Tập lượng luận
(S. pramāṇasamuccaya
[-nāma-prakaraṇa]),
tác phẩm Nhân minh quan trọng nhất của Sư;
12.
Tập lượng luận thích
(S. pramāṇasamuccaya-vṛtti),
chú giải Tập lượng luận, chỉ có bản Tạng ngữ.
Tổ Thanh Biện (C.
清辯,
S. Bhāvaviveka, 500–578)
1.
Đại thừa chưởng trân luận
(S. mahāyānatālaratnaśāstra),
Huyền Trang dịch;
2.
Bát-nhã đăng luận thích
(S. prajñāpradīpa, cũng có tên
prajñāpradīpa-mūlamadhyamaka-vṛtti),
Ba-la-phả Mật-đa dịch;
3.
Trung quán tâm luận tụng
(S. madhyamakahṛdayakārikā),
Tạng ngữ;
4.
Trung quán tâm quang minh biện luận
(S. madhyamakahṛdayavṛttitarkajvālā),
chú giải Trung quán tâm luận tụng (S.
madhyamakahṛdayakārikā),
Tạng ngữ;
5.
Trung quán nhân duyên luận
(S. madhyamikapratītyasamutpāda-śāstra), Tạng ngữ;
6.
Nhập trung quán đăng luận
(S. madhyamakāvatārapradīpa), Tạng ngữ;
7.
Nhiếp trung quán nghĩa luận
(S. madhyamārtha-saṃgraha),
bản Tạng ngữ và Phạn ngữ;
8.
Dị bộ tông tinh thích
(S. nikāyabheda-vibhaṅgavyākhyāna),
chỉ còn lưu lại trong Tạng ngữ, nói về các tông phái Phật giáo sau
khi Phật diệt độ đến thời Thanh Biện, rất giống Dị bộ tông luân
luận (S. samayabhedavyūhacakraśāstra) của
Thế Hữu (S. Vasumitra).
Tổ
Tịch Hộ (C.
寂護,
S. śāntarakṣita,
750-802)
1.
Trung quán trang nghiêm luận
(C.
中觀莊嚴論,
S. madhyamakālaṃkāra)
2.
Nhiếp chân thật luận
(C.
攝真實論,
S. tattvasaṃgraha)
3.
Nhị thập luật nghi chú
(C.
二十律儀注,
S. saṃvara-vimśaka-vṛtti)
4.
Thế Tôn tán cát tường chấp kim cương ca quảng thích
(C.
世尊贊吉祥執金剛歌廣釋,
S. śrī-vajradharasaṃgītibhagavatstotra-ṭikā)
5.
Bát Như Lai tán
(C.
八如來贊,
S. aṣṭatathāgata-stotra)
6.
Nhị đế phân biệt nan ngữ thích
(C.
二諦分別難語釋,
S. satyadvayavibhaṅga-pañjikā)
Tổ Nguyệt Xứng (C.
月稱,
S. Candrakīrti, thế kỉ thứ 8)
Minh cú luận
(S. prasannapadā), gọi đủ là Trung quán minh cú luận
(S. madhyamakavṛtti-prasannapadā),
tác phẩm chú giải
Trung quán luận (S.
madhyamaka-śāstra) của Long Thụ (S. Nāgārjuna) duy nhất
bằng nguyên văn Phạn ngữ, còn bản Tạng ngữ;
Nhập trung quán luận
(S. madhyamakāvatāra), chỉ còn bản Tạng ngữ;
Nhập trung luận thích
(S. madhyamakāvatāra-bhāṣya),
chỉ còn bản Tạng ngữ;
Nhân duyên tâm luận thích
(S. pratītyasamutpāda-hṛdaya-vṛtti),
một tác phẩm chú giải Nhân duyên tâm luận tụng (S.
pratītyasamutpāda-hṛdaya-kārikā),
được xem là của Long Thụ, chỉ còn bản Tạng ngữ;
Thất thập không tính luận thích
(S. śūnyatā-saptativṛtti),
chú giải Thất thập không tính luận (S. śūnyatā-saptati)
của Long Thụ. Long Thụ (và Parahita) cũng có soạn một tác phẩm
dưới tên này. Chỉ còn bản Tạng ngữ;
Lục thập tụng như lí luận thích
(S. yukti-ṣaṣṭhikā-vṛtti),
luận giải Lục thập tụng như lí luận (S.
yukti-ṣaṣṭhikā),
một tác phẩm được xem là của Long Thụ, chỉ còn bản Tạng ngữ;
Bồ Tát du-già hành tứ bách luận thích
(S. bodhisattvayogācāra-catuḥśataka-ṭīkā),
chú thích bộ Tứ bách luận (S. catuḥśataka)
của Thánh Thiên (S. āryadeva), chỉ còn bản Tạng ngữ;
Trung quán luận tụng
(S. madhyamaka-śāstra-stuti).
Tổ Tịch Thiên
(C.
寂天,
S. śāntideva,
thế kỷ thứ 8)
1.
(Đại thừa) Tập Bồ Tát học luận (S.
śikṣāsamuccaya)
Nhập bồ-đề hành luận (S.
bodhicaryāvatāra);
2.
Tập kinh luận
(S. sūtrasamuccaya) đã thất truyền (theo Thánh Nghiêm thì
được dịch ra Hán ngữ dưới tên Đại thừa thật yếu nghĩa luận);
3.
Phiên dịch danh nghĩa đại
tập
(C.
翻譯名義大集,
S. mahāvyutpatti).
Tạng ngữ là Lam Rim Chen Mo
E. High-tech, C.
高科技, Cao Khoa
Kỹ, Cao Kỹ Thuật.
Xin giải thích thêm, ở đây, bài viết dùng chữ Tổng Hợp vì lý
do: 1. Khi mới tu thì phải nghe học , mới có thể tạo hiểu
biết (quá trình tu "văn"), 2. Từ đó mới thiền định
phân tích để thấu hiểu (quá trình tu "tư") 3. Từ đó
mới thiền định thâm nhập vào (quá trình tu "tu"), giai đoạn
tổng hợp và viên dung, đạt an vui tịch tĩnh.
Sách tham khảo của cuốn “Liberation in the Palm of Your Hand”,
Pabongka Rinpoche, trang 59-72. Bản Việt ngữ là “Giải Thoát
Trong Lòng Tay”, trang 100-126, ni sư Thích Nữ Trí Hải dịch.
Ở đây bài viết dùng chữ Tổng Hợp vì quá trình hành trì theo tam
học Văn Tư và Tu nói trên để đạt vào giai đoạn thiền định thâm
nhập Tánh Không: từ phân tích để thấu hiểu (quá trình tu
"tư") rồi vào thiền định thâm nhập (quá trình tu "tu"), đi đến
giai đoạn tổng hợp và viên dung, đạt an vui tịch tĩnh.
Do đó mà dùng chữ tổng hợp (nói về giai đoạn sau khi thiền định
phân tích), nương theo thiền chỉ, chuyển đổi cái nhìn của giai
đoạn phân tích, từ đó mà đạt vào tâm trạng "tổng hợp và viên
dung".
Xin kể lại câu chuyện
thiền sau: Một
vị sư sau 30
năm tu hành đã nói: "Sãi tôi ba mươi năm trước, khi chưa
đi tu, thấy núi là núi, thấy sông là sông; sau nhân theo bậc
thiện tri thức chỉ cho chỗ vào thì thấy núi chẳng phải núi, thấy
sông chẳng phải sông; rồi nay thể nhập chốn yên vui tịch tĩnh,
lại thấy núi là núi, thấy sông là sông."
Tham khảo tài liệu Đức Đạt Lai Lạt Ma giảng tại Nantes, Pháp
quốc: “Căn Bản Trung Quán Luận Tụng
(Mulamadhyamika-karika - Dbu ma rtsa ba'i
shes rab)”,
bản dịch Việt ngữ do Sonam Nyima Chân Giác và Diệu Hạnh Giao
Trinh,
bản Anh ngữ của dịch
giả Wulstan Fletcher. Xin xem trên mạng:
http://www.quangduc.com/mattong/305canbantrungluan.html
"Que cứt khô" (Càn thỉ
quyết, C.
乾
屎
橛, là một công
án Thiền). Một tăng sĩ hỏi tổ Vân Môn: "Phật là gì?" Tổ đáp:
"Que cứt khô".
"Cây
bách trước sân" (Đình tiền bách thọ tử, C.
庭前柏树子 là một
công án Thiền khác).
Khi có người hỏi “Như
hà thị Tổ Sư tây lai ý ?” (ý nghĩa tối yếu của việc Tổ Sư qua
Trung Hoa là gì ?), Sư Triệu Châu trả lời: "Cây bách ở trước
sân".
Shentong (Empty of What is Other)
view, also sometimes
called "Yogacara
Madhyamaka," is a
philosophical sub-school found in Tibetan Buddhism, holding that
the nature of mind is "empty of other" (i.e., empty of all
qualities other than an inherent, ineffable nature). According
to Shentong, the emptiness of ultimate reality should not be
characterized in the same way as the emptiness of apparent
phenomenon.
Tham khảo:
http://www.yogacara.net/rangtong.
Tham khảo bài “Duyên Khởi” do Sonam Nyima Chân Giác dịch từ
nguyên bản Anh ngữ, “Dependant Arising” Tenzin Gyatso, His
Holiness the Dalai Lama, London, 1984, dịch bởi
Jeffrey Hopkins.
|