Đức Đạt
Lai Lạt Ma,
vị thần tượng thời nay


Phu nhân
Tổng thống Pháp Carla Bruni-Sarkozy
tươi cười lúc đuợc diện kiến Đức Đạt Lai Lạt Ma. |
1. Mở đầu
Trong hai tháng vừa qua, tác giả đã có duyên may được mời làm thông
dịch viên Việt ngữ trong hai pháp hội lớn của ngài: một pháp hội tổ
chức tại đại học Lehigh University trong tháng bảy, 2008 với đề tài
"Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Luận "
ở tiểu bang Pensylvania và một pháp hội tháng tám, 2008 tổ chức tại
tỉnh Nantes, Pháp quốc với bốn đề tài chính
nói về "Tánh Không" trong Phật giáo. Sau hai pháp hội
đó, tác giả trở về đời sống của mình thường ngày với một tâm tư xúc
động và cảm tạ sâu xa. Ở mỗi pháp hội Đức Đạt Lai Lạt Ma đều đánh
dấu trên tâm tư của mọi người lòng cảm phục vô vàn. Bài viết này
không có ý tóm tắt về hai pháp hội mà chỉ có ý ghi lại lòng cảm xúc
sâu xa đó dưới khía cạnh Ngài là vị thần tượng của thế giới ngày
nay. Ngoài giải thưởng Nobel hòa bình, ở tất cả mọi nơi trên thế
giới, các vị lãnh đạo quốc gia, các trường đại học danh tiếng
nhất đều tán thán và trân quý đến con người của Ngài qua những bằng
tưởng lệ, huy chương hay công dân danh dự.
Với tác giả thì Ngài là vị thần tượng thời nay. Chữ thần tượng này
không được dùng trong ý nghĩa thần thánh hóa, vì Ngài luôn luôn nói
tôi chỉ đơn giản là một vị tỳ kheo Phật giáo. Thần tượng trong ý
nghĩa là Ngài thật sự sống cuộc đời đơn giản và bình dị, với hai bộ
áo tỳ kheo, một đôi giép cao su nhật bản qua tất cả mọi lần giao
tiếp chính thức với các vị lãnh đạo nguyên thủ của các cường quốc,
như mới đây chúng ta có thể nhìn hình trên các báo chí đăng tải buổi
diện kiến Ngài đã tiếp vị đệ nhất phu nhân Pháp quốc Carla Bruni
trong bộ áo tỳ kheo và đôi giép nhật bản. Hình Ngài thật là đơn
giản bình dị như thế bên cạnh vị đệ nhất phu nhân Carla Bruni thật
là sang trọng và chúng ta có thể nhận thấy rõ nụ cười nở trên đôi
môi của bà Tổng Thống Pháp quốc, chứng tỏ là bà đã hoan hỷ như thế
nào khi được ở bên Ngài.
Do đó chữ thần tượng ở đây không phải trong ý hướng thần thánh hóa,
mà thần tượng vì con người đơn giản bình dị của Ngài đã ban cho mỗi
chúng ta lòng hoan hỷ vô biên khi được sống bên Ngài, khi được nhìn
sự bình dị và tấm lòng rộng lớn bao la của Ngài lúc Ngài nói câu:
Cho đến khi thế giới và các chúng sinh còn tồn tại,
Tôi xin nguyện tồn tại để phục vụ cho tất cả chúng sinh....
Đời sống của Ngài là cả sự bình dị và lòng chân thật như Ngài đã
từng nói tại lần Ngài ghé thăm tu viện Ganden Ling của Dagpo
Rinpoche tại ngoại ô Paris: "Điều khổ tâm nhất là phải
đóng khuôn, làm vai trò giả tạo như thể mình là một vị đã đạt
được một cái gì, mà cho dù có cố đóng vai trò như thế cũng không thể
làm mãi mãi, vì chỉ một thời gian sau là sẽ trở thành vô cùng khổ
sở...."
2. Đời sống bình dị và lòng chân thật của Ngài ban ra niềm hạnh phúc
vô biên
Ở trong một thế giới hiện đại vô cùng của thế kỷ thứ 21 ngày nay, cả
thế giới lao đầu vào trong cuộc sống tiêu thụ và chạy đua không
ngừng nghỉ trong sự phung phí và tiện nghi. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã
từng cảnh cáo và răn dạy là hạnh phúc không nằm trong các tiện nghi
vật chất. Bởi vì càng có tiện nghi vật chất thì chúng ta càng phát
triển trí thông minh và từ đó phát sinh những nhu cầu và đòi hỏi tìm
kiếm về tâm linh. Nếu chúng ta không nhận chân ra là những tiện nghi
vật chất không thể giải quyết những vấn đề của tâm lý mà thể hiện
chính yếu qua lòng bất an sợ hãi thâm căn cố đế của mình thì chúng
ta sẽ chỉ càng ngày càng lâm vào những bế tắc của đời sống khi lao
đầu vào các cuộc chạy đua hưởng thụ tiện nghi vật chất. Thực vậy,
khi chúng ta còn nghèo khổ, phải đầu tắt mặt tối để lo tìm giải
quyết nhu cầu cơm áo thì những sự căng thẳng tâm lý không có cơ hội
phát triển. Nhưng khi bụng đã được no đủ, có nhà cao cửa rộng, xe
cộ tiện nghi thì những nhu cầu tâm lý và tâm linh phát triển mạnh mẽ
hơn nhiều. Thêm một điều nữa ta có thể thấy rõ là khi phải chịu các
sự khổ đau tinh thần thì tiện nghi vật chất không giúp ta được nhiều
gì để giảm thiểu các khổ đau đó. Nhưng khi chúng ta phải chịu khổ
đau vật chất hay khổ đau thể xác thì một thái độ an nhiên điềm tĩnh
sẽ giúp chúng ta vượt qua các khổ đau, đau đớn thể xác dễ dàng. Như
vậy thì tinh thần quan trọng hơn vật chất nhiều lắm, mặc dù các tiện
nghi vật chất thực ra cũng có giúp ta phần nào trong đời sống. Nhưng
trạng thái tinh thần của chúng ta mới thực sự là điều chính yếu để
mang lại hạnh phúc lâu dài.
Như vậy, khi nhận ra điều căn bản đó, là thực sự chúng ta không cần
nhiều nhặn gì lắm về đời sống vật chất, hai bữa cơm đơn giản một
ngày và một ít quần áo ấm thân là đủ, thì chúng ta bắt đầu thực sự
đi vào con đường tìm về hạnh phúc. Chúng ta thực sự cần săn sóc đời
sống tâm linh của mình nhiều hơn, để đi đến niềm hạnh phúc rất đơn
giản trong sự tri túc vật chất và an vui của tinh thần. Đây là điều
Ngài thường nhấn mạnh: hạnh phúc và an vui của tinh thần chỉ có thể
phát triển qua lòng nhân ái từ bi, an hưởng trong niềm vui sướng khi
mình nhìn thấy những việc làm của mình giúp cho những người khác đạt
được an vui...
Nhưng thế nào mới là làm cho những người khác an vui... Mang lại an
vui cho người có phải là ban cho họ những tiền bạc của cải hay sự
thành công rực rỡ và quyền lực?
Trên thực tế, chúng ta nhận thấy là không phải như vậy. Tiền bạc của
cải danh tiếng chẳng thể ban cho mọi người lòng an vui. Bởi vì nếu
tiền bạc của cải danh tiếng quyền lực mang đến sự an vui thì có lẽ
những vị vua chúa hay là các vị lãnh đạo nguyên thủ đều được an vui.
Trong khi ngược lại, chúng ta thấy những vị đó đều thường ăn ngủ
không yên, lo lắng quá độ như ngồi trên lò lửa đốt, hoặc là làm việc
quá độ và căng thẳng đến mức sinh ra bệnh tật như là đau tim và tiết
ra nhiều chất cholesterol gây xơ cứng động mạch, tai biến mạch máu
não và bại xuội.
Ngược lại, chúng ta sẽ hưởng nhiều sự an vui bên một người đầy đức
hạnh mà lại thật là bình dị. Như là hình ảnh tươi cười của bà Tổng
Thống Pháp quốc khi được diện kiến bên Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Chỉ cần được sống gần Đức Đạt Lai Lạt Ma để nhìn thấy đức hạnh và
lòng nhân ái thật là sống động của Ngài sẽ mang lại niềm hoan hỷ
tuyệt vời đó. Những điều tự mình mắt thấy tai nghe về lòng nhân ái
và bình dị đó sẽ trở thành những bài học ghi tâm khắc cốt cho chúng
ta, làm thành những bài học thân giáo
qua các hành động thực sự tự nhiên của Ngài. Trong hai pháp hội vừa
qua đã có không biết bao nhiêu nhũng bài học sống động đó mà chúng
ta có thể ghi chép lại một ít sau đây.
3. Lòng nhân ái và từ bi
Trong pháp hội tại Saint Herblain, tỉnh Nantes, một hôm Ngài đang
thuyết giảng trên ngai, bỗng ngưng lại và chỉ vào hai vị nhân viên
an ninh đang đứng bên dưới sân khấu và yêu cầu Ban Tổ Chức mang đến
hai ghế ngồi cho các nhân viên đó vì Ngài nhận thấy họ đã đứng liên
tục trong mấy ngày pháp hội để bảo đảm an ninh cho toàn thể hội
trường. Ngài nói là hãy mang cho họ ghế ngồi để được thoải mái trong
việc làm của họ, và như thế họ sẽ có đầu óc tỉnh táo hơn để làm việc
được vui vẻ và hữu hiệu hơn. Hai vị nhân viên an ninh sung sướng
ngồi thoải mái và rất cám ơn Ngài, một cử chỉ tuy nhỏ, nhưng đã
chứng tỏ là Ngài để ý và rất quan tâm đến niềm phúc lạc của người
khác qua các sự để ý thật vi tế và chi tiết.
Một hôm khác, Ngài được ông thị trưởng tỉnh
Nantes
tên là Jean-Marc Ayrault mời đến tòa thị sảnh để dự tiệc chiêu đãi.
Hôm ấy, ông thị trưởng vừa mới đọc diễn văn xong, đi xuống về chỗ
ngồi của mình trong khi Đức Đạt Lai Lạt Ma lên nói vài lời với khán
giả. Ngài chưa kịp nói gì thì bỗng nghe ồn ào, ông thị trưởng kéo
ghế ngồi chẳng ngờ vì lính quýnh thế nào mà kéo ghế quá ra phía sau
cho nên chân ghế lọt ra ngoài sàn sân khấu và ông ta bị ngã nhào.
Khán giả thấy cảnh hoạt náo của ông thị trưởng cũng bật cười. Lúc
ấy, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nhanh nhẹn đi xuống và định đỡ ông thị
trưởng lên thì các hộ vệ viên đã nâng ông đứng giậy. Nhưng Ngài cũng
thân chinh mang lại một cái ghế và đặt ở giữa khán đài, đè nhấn
xuống thử để xem có chắc không, rồi vừa cười vừa chỉ cái ghế và
mời ông thị trưởng "an tọa!", và nói: “Trong các buổi họp
long trọng thế này tôi thuờng thấy không khí quá nghiêm trọng và hay
cố tìm cách làm cho mọi người thư giãn vui vẻ hơn. Nhưng mà
may quá, lần này thì tôi không cần cố vì nhờ ông thị trưởng đã
chuyển đổi không khí thành thoải mái và vui hơn nhiều cho chúng ta”.
Mọi người lại được dịp cười ồ lên và bầu không khí chuyển thành
vui vẻ, rất là thân mật, không còn nghiêm trọng như trước
Lòng nhân ái và từ bi của Đức Đạt Lai Lạt Ma thật là vi tế, nhưng
lại thật là đơn giản, không màu mè, không có tâm ý cố tạo, hoàn toàn
"vô tâm" và "vô cầu", làm cho tất cả các người gần gũi Ngài đều cảm
thấy tự nhiên, trừ bỏ hẳn các tâm cạnh tranh và giành giựt.
Con đường tu tập thực sự phải là tự “tạo dựng công đức mà
không tạo dựng công đức, đó mới là thực sự tạo dựng công đức ”.
Đó là ý nghĩa của "vô tâm" và "vô cầu" trong tất cả các hành trì
tích tụ công đức qua các hạnh từ bi nhân ái. Tích mà vô tâm vô cầu
nên không có người tích, không có kẻ thọ báo công đức vì dù sao cũng
đã hành hạnh Thập Hồi Hướng toàn bộ công đức đến mọi chúng sinh hữu
tình. Cho nên khi chúng ta ở bên người tu tập mà "vô tâm" "vô cầu"
thì sẽ cảm thấy vô cùng thoải mái hoan hỷ và cùng nhau hành trì để
tất cả đều trọn thành Phật đạo.
4. Lòng bình dị và chân thật
Đức Đạt Lai Lạt Ma đi đâu cũng toát ra một tâm thức thực sự bình dị
và chân thật. Sự bình dị và chân thật luôn được thể hiện qua các
cung cách đối thoại và trả lời dí dỏm của Ngài đối với các câu hỏi
của mọi người đặt ra. Trong cả hai pháp hội ở Lehigh University cũng
như tại Nantes, Ngài đã cho một khoảng thời gian để trả lời các câu
hỏi, và những câu trả lời của Ngài đã chứng tỏ tâm thức bình dị và
chân thật của Ngài. Mọi người, ai cũng vô cùng thần tượng và thánh
hóa Đức Đạt Lai Lạt Ma. Đôi khi những câu trả lời của Ngài đã xóa
những cách nhìn quá xa vời về Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Có một câu hỏi rất thú vị đã được đặt ra như sau: "Thưa Ngài, có khi
nào Ngài mất lòng kiên nhẫn không (His Hollines, have you ever been
loosing your patience) ?". Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mỉm cười và trả lời
câu hỏi ấy qua một câu chuyện có thực về Ngài.
Đức Đạt Lai Lạt Ma kể lại: "Tôi có từng quen biết một vị phụ nữ
người Mỹ và là một nhà báo của của tờ Nữu Ước Thời Báo (New York
Time). Bà ta rất thích Phật giáo và hành trì theo Phật giáo.
Một lần, bà ấy đã đến gặp tôi và hỏi: Khi ra đi thì Ngài để lại cho
chúng con một cái gia tài gì? (What legacy you leave to us when you
depart from this life?). Tôi trả lời cho bà là tôi không cần phải
nghĩ về gia tài để lại, vì như thế không đúng với giới nguyện của
tôi, mà tôi chỉ hành trì đạo. Rồi bà ta lại hỏi câu ấy trong vài lần
khác, và tôi cũng trả lời thêm nữa y như vậy. Sau đó bà lại đến và
đặt một câu hỏi như thế, nhưng theo một kiểu khác, và lúc đó thì tôi
đã không giữ được bình tĩnh nữa (nguyên văn: and I lost my temper) ".
Toàn hội trường bật cười lên ầm ỹ trước câu trả lời thật dí dỏm của
Đức Đạt Lai Lạt Ma. Câu trả lời thật bình dị và chân thật, thẳng
thắn đến độ làm người nghe đôi khi cảm thấy thấy ngỡ ngàng, hồn
nhiên và thú vị trước sự chân thật đó, ("và tôi đã không giữ được
bình tĩnh ...and I lost my temper").
Tôi cũng ôm bụng cười lăn trước máy vi âm. Ở đây, bạn đọc thực sự
cần phải sống ngay tại hội trường lúc đó mới hiểu được cung cách trả
lời của Ngài, mới nhìn thẳng được vào tâm bình dị và dí dỏm của
Ngài. Một sự chân thật tự nhiên thẳng thắn không hề mang cái tâm
chê trách người đối diện, và nhất là không tự thần thánh hóa hay
đóng vai thánh thiện, nói là mình không bao giờ mất bình tĩnh. Câu
trả lời của Ngài chỉ như là một lời nhắc nhở thương yêu: hãy đừng
chấp trước như thế, vì như vậy là si ngốc. Như người mẹ mắng yêu đứa
con dại dột của mình: sao con lại dại ngốc thế, đâu cần phải lo lắng
như vậy....
5. Lòng tôn trọng và hòa hài với các tôn giáo khác
Giữa lúc thế giới đi vào trạng thái phân hóa trầm trọng. Trước sự
chia cách và bạo động tôn giáo qua những hành động của một nhóm quá
khích Taliban đã đặt chất nổ tàn phá tượng Phật lớn, cao 150 bộ anh
và cổ xưa đến 1700 năm trong vùng núi Hindu Kush của Afghanistan,
Đức Đạt Lai Lạt Ma vẫn kêu gọi sự tôn trọng và hòa hài tôn giáo.
Ngài vẫn thường tranh đấu cho Hồi giáo và luôn luôn tuyên bố:
"Tuy có các khác biệt, nhưng tựu chung, tất cả các truyền thống tôn
giáo đều có cùng một căn bản, đó là kêu gọi phát triển lòng thương,
lòng nhân ái đến tất cả mọi người".
Trong cả hai pháp hội vừa qua, Đức Đạt Lai Lạt Ma đều tha thiết kêu
gọi phát triển lòng tha thứ và hòa hài tôn giáo, tôn trọng tất cả
các truyền thống tôn giáo khác nhau. Ở mọi nơi, Ngài luôn luôn
khuyên bảo hãy tôn trọng và thông cảm lẫn nhau. Đức Đạt Lai Lạt Ma
không bao giờ khuyến khích ai cải đạo. Ngài luôn luôn nói, hãy giữ
truyền thông tôn giáo gia đình của quý vị, và tránh gây ra những sự
xáo trộn, rối loạn tâm linh. Nhất là khi vào lúc cuối đời, ở trong
tình trạng lâm chung mà bị khủng hoảng nguồn cội tâm linh (identity
crisis) thì là một điều rất nguy hiểm cho thần thức người chết.
Điển hình nhất của lòng tôn trọng và hòa hài này là câu chuyện Đức
Đạt Lai Lạt Ma thường kể trong các pháp hội. Ngài nói: "Tôi có
quen biết một người bạn Âu Mỹ tu trong truyền thống Thiên Chúa Giáo
của giòng tu Phan Xi Canh, một giòng tu kín và thường hay nhập ẩn
tu, để trầm tư mặc tưởng (thiền theo lối Thiên Chúa Giáo). Một hôm,
trong lúc nói chuyện, tôi hỏi thăm là khi ông nhập ẩn tu như vậy để
mặc tưởng thì ông thiền định về điều gì? Ông ta nói rằng chỉ để
thiền định về lòng
nhân từ
(nhân
ái-từ bi) .
Tôi thật là thích thú nhận ra rằng căn bản của các tôn giáo vẫn là
lòng từ bi. Sau một thời gian quen biết và trao đổi các kinh nghiệm
tu tập, ông ta càng ngày càng thích về Phật giáo. Rồi đến một hôm,
ông đến gặp tôi nói rằng, thưa Ngài, tôi bây giờ đang tìm hiểu về
Tánh Không. Tôi bèn cười và nói với ông ta: đấy không phải là chuyện
của ông (that is none of your business)".
Đức Đạt Lai Lạt Ma giải thích là vì ông ta từ xưa đến giờ vẫn tu
trong truyền thống tôn giáo hữu thần, nghĩa là đặt trọng tâm trên
lòng tin vào đấng Thượng Đế Toàn Năng. Nếu bây giờ tìm hiểu vào Tánh
Không của Phật giáo sẽ phải loại bỏ ý niệm và lòng tin vào đấng
Thượng Đế, vì Tánh Không đồng nghĩa với Nhân Quả và Duyên Khởi, nói
rằng không có đấng Tạo Hóa nào sinh ra mọi sự vật, mà tất cả chỉ là
do nhân duyên, tùy thuộc vào nhau mà khởi sinh. Nếu tìm học thêm như
thế, ông ta sẽ có nguy cơ bị mất lòng tin vào Thượng Đế và sẽ lâm
vào tình rạng rối loạn tâm linh, đó là một điều rất nguy hiểm cho
người tu sĩ.
Nhưng điều cực kỳ hay ở đây là Đức Đạt Lai Lạt Ma đã khéo léo trả
lời một cách thật là dí dỏm và bình dị: "đấy không phải là chuyện
của ông (that is none of your business)". Và Ngài đã cười phá
lên thật là thoải mái.
6. Tâm siêu thế gian và không màng đến quyền lợi chính trị
Trong một chương trình bình luận chính trị mới đây xảy ra trên đài
truyền hình France 2 tại Paris, Pháp quốc, nhân lúc thời sự đang
nóng bỏng về vấn đề Thế Vận Hội Quốc Tế
tại Bắc Kinh, liên hệ cả đến sự bất tôn trọng nhân quyền của và đàn
áp Tây Tạng của Trung Cộng, một bình luận gia chuyên môn và nổi
tiếng của Paris đã phân tích lý do tại sao Trung Cộng lại sợ hãi Đức
Đạt Lai Lạt Ma như thế.
Ông ta đã giải thích cặn kẽ lý do tại sao mà Trung Cộng lại sợ hãi
và nhất định không chịu công nhận quyền tự trị của Tây Tạng (Tibet
autonomy), mặc dù Đức Đạt Lai Lạt Ma chỉ xin được có quyền tự trị và
chấp nhận giải pháp Tây Tạng vẫn thuộc về nước Trung Cộng chứ không
đòi độc lập thành quốc gia riêng rẽ. Đó là vì một lý do chủ yếu: Đức
Đạt Lai Lạt Ma không màng đến quyền lực thế gian. Ngài nói rằng một
khi được công nhận quyền tự trị, Đức Đạt Lai Lạt Ma sẽ từ chức
nguyên thủ của chính phủ Tây Tạng và thiết lập một chính quyền hoàn
toàn tự do dân chủ qua những cuộc bầu cử quốc hội và Thủ Tướng Tây
Tạng. Còn Ngài thì sẽ tự mình rút lui về cương vị một tu sĩ Phật
giáo đơn thuần và chuyên hành trì mà thôi.
Trung Cộng vốn là một nước đặt căn bản điều hành trên sự thống trị
bằng đàn áp phi dân chủ. Những lần chính quyền Trung Cộng đã đàn áp
đẫm máu trên chính người dân đồng bào của họ như vụ biểu tình của
Thiên An Môn năm 1989 đã chứng tỏ điều đó.
Ngay cả trong lần Thế Vận Hội vừa qua, người ta cũng có thể thấy rõ
sự điều hành của Trung Cộng đặt toàn diện trên hệ thống quân đội và
công an để giữ sự thống trị trên dân chúng và áp đặt quyền hành.
Trên các đài truyền hình, chúng ta đã thấy cảnh các người dân oan
kêu khóc vì bị tước đoạt nhà cửa làm Thế Vận Hội mà không được bồi
thường thỏa đáng.
Do đó chính quyền Trung Cộng rất sợ hãi lòng tôn trọng dân chủ không
màng đến quyền lợi chính trị của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Vị bình luận
viên trên đài truyền hình France 2 còn nói rằng, với đức hạnh và
tinh thần siêu thế gian, không màng đến quyền lợi chính trị, nếu Đức
Đạt Lai Lạt Ma thực hiện được quyền tự trị Tây Tạng sẽ làm khởi sắc
lại phong trào tranh đấu cho dân chủ tại Trung Cộng, lôi kéo theo
các phong trào đòi quyền tự trị khác của các vùng Tân Cương, vùng xứ
Hồi, vùng Tráng tộc và Nội Mông. Một vị Đạt Lai Lạt Ma trở về được
xứ Tây Tạng tự trị, tranh đấu xây dựng cho nền dân chủ của Tây Tạng
và không màng đến quyền lợi chính trị sẽ được tất cả các sắc dân
Trung Hoa hướng về và chiêm ngưỡng, để từ đó sẽ khởi sắc những phong
trào tranh đấu cho tự do dân chủ mạnh mẽ hơn cả phong trào Thiên An
Môn năm 1989.
Như thế, đó mới là điều Trung Cộng sợ hãi, Đức Đạt Lai Lạt Ma và các
đức hạnh của Ngài, hơn bao giờ hết.
7. Đức Đạt Lai Lạt Ma, vị thần tượng bình dị trong lòng chúng ta
Đức Đạt Lai Lạt Ma là vị thần tượng của thời đại chúng ta, cái thời
đại mà những giá trị của lòng nhân ái, của lòng vị tha đã bị đời
sống tiêu thụ và vật chất đẩy vào quên lãng. Thời nay, tất cả đều
hướng sự sống về lòng vị kỷ, cho cá nhân của riêng mình. Gia đình,
cha mẹ, con cái đều quay cuồng trong cuộc sống chạy theo đồng tiền
và sự thành công danh tiếng.
Thế nhưng, cho dù sống trong trào lưu tiêu thụ và vật chất đó, nhân
cách của Ngài đã sáng chói qua bộ áo tu bình dị và đôi giép nhật bản
cố hữu. Ngài đã nổi bật lên qua đời sống bình dị và lòng chân thật
của mình khi đi khắp nơi trên thế giới thuyết pháp và tranh đấu cho
nhân quyền, cho lòng nhân ái, lòng vị tha và tha thứ.
Mọi nơi đều hướng về Đức Đạt Lai Lạt Ma với lòng thành kính vô biên
và chia sẻ sự tranh đấu bất bạo động cao quý của Ngài.
Một người bạn đã từng hỏi tôi: "Tại sao anh không đóng góp, làm
chùa, in kinh sách cho Phật giáo Việt Nam mà lại làm việc tích cực
và tu tập tích cực theo truyền thống Mật tông Tây Tạng và sùng kính
Đức Đạt Lai Lạt Ma?" Tôi trả lời: "Phật giáo giảng dạy giáo
lý và hành trì để đạt giác ngộ. Nơi đâu có đấng giác ngộ thì mình
hướng về nơi đó tu tập. Ngày xưa Đức Phật Thích Ca thành đạo và tất
cả chúng ta bây giờ đều tu tập pháp của Ngài. Bằng chứng là chúng ta
luôn luôn tụng đức Thích Ca là vị bổn sư qua câu Nam Mô Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni Phật. Đức Thích Ca cũng là người Ấn độ chứ có phải là
người Việt Nam đâu? Là người xứ nào, đâu phải là điều ta nên phân
biệt, tổ Huệ Năng ngày xưa có nói: Phật tánh đâu có phân biệt nam
bắc".
Lần khác bạn tôi bảo là, có người nói một câu như sau: "Tôi tu
theo truyền thống Việt Nam vì không thích hợp truyền thống Mật tông
Tây Tạng với các màu sắc sặc sỡ hoa hoè hoa sói, và hỏi tôi nghĩ sao
về câu này". Tôi trả lời: "Một lần nữa, tu học Phật giáo là
để đạt giác ngộ, do đó giác ngộ là điều chính yếu chứ không nên mắc
kẹt vào những màu sắc để rồi quên mục đích chính là giác ngộ. Do đó,
tuy màu sắc hoa hoè mà có giác ngộ thì cứ tu theo thôi, không nên
chỉ vì kẹt thấy cái màu sắc đó mà bỏ cái cốt lõi là giác ngộ bên
trong. Còn nếu không có màu sắc hoa hoè mà lõi bên trong không có
giác ngộ thì tu theo cũng đâu có ích gì. Tóm lại, giác ngộ mới là
chính yếu, đừng quan tâm đến chuyện phụ (màu sắc) mà quên đi là mình
đang đi tìm về giác ngộ. Không nên bị ngăn ngại vì chuyện phụ đó. Vả
lại, theo tôi biết thì chính người nói câu không thích màu sắc hoa
hoè đó cũng tu theo Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, mà lại quên
rằng chính bổn sư của mình là người Ấn độ và mặc quần áo hoa
hoè của người Ấn độ thời xưa, và như thế đã tự mình mâu thuẫn với
chính lập luận của mình.”
Và sự thực thì không thể nào phủ nhận: Đức Đạt Lai Lạt Ma là vị thần
tượng của thời nay. Thế giới hướng về vị thần tượng không vì thần
thánh hóa, mà do sự ban phát niềm vui hạnh phúc khi được gần Ngài và
sống với nhân cách cao quý đầy đức hạnh, nhưng lại thật là bình dị
và chân thật của Ngài.
Không Quán
27 /08/2008
Tạng ngữ là Lam Rim Chen Mo.
Trang nhà
http://www.dalailamajuly2008.com/Welcome.html.
Cùng ý nghĩa trong kinh Kim Cang.
Pháp ngữ là miséricorde, miséricordieux, Anh ngữ là
graciousness, mercy, merciful.
|
|

Tên thật
là Bùi Xuân Lý.
Cư ngụ tại
Montreal, Canada. Du học khỏi Việt nam từ năm 1970.
Đã từng
cộng tác trong các tờ báo ở Canada như Làng Văn, Tự Do qua bút hiệu
Trương Chi và đôi lần bút hiệu Thu Vũ.
Năm 1995
xuất bản thi phẩm đầu tay Phong Trần.
Pháp danh
: Sonam Nyima Chân Giác.
|
|