Ngày … tháng 6
Tháng 6. Mấy ngày hôm nay trời rộ nóng. Trời xanh thăm thẳm vút
cao những tầng mây. Những cơn mưa đã qua. Mùa hạ tới. Một buổi
chiều cuối tuần, nhìn cuốn lịch treo tường, giở trang sách, đọc
bài thơ. Ngày 4 tháng 6 năm 1989, biến cố Thiên An Môn. Hồng
quân Trung Hoa xả súng bắn vào đoàn biểu tình và cả ngàn người
bị thương vong. Hình ảnh một người sinh viên hiên ngang đứng
chặn trước một đoàn xe tăng đã thành một biểu hiện sống động cho
những người không sợ chết liều mình tranh đấu cho lý tưởng dân
chủ tự do.
Bei Dao, một nhà thơ Trung Hoa lưu vong đã viết để nhắc nhở đến
một thời điểm khó quên của lịch sử nhân loại. Tháng 6 năm 1989,
máu đã chảy trước mũi súng bạo tàn của một chế độ độc tài chuyên
chính. Tháng 6, có lẽ là ký ức chẳng thể nào quên của nhiều
người trong đó có Bei Dao:
Tháng sáu
“Gió ở bên tai nhắc Tháng sáu
Tháng sáu là sổ đen tôi trượt qua
Lúc đó.
Ghi chú rằng đó là một cách nói giã biệt
Thở phào trong những ngôn từ
Ghi chú từ những giải thích
Những bông hoa nhựa không nguôi
Trên những bờ gạch của thần chết
Quảng trường xi măng như trải rộng ra
Từ những hàng chữ viết về.
Bây giờ
Tôi chạy từ lúc khởi viết
Như thấy tiếng búa đập trên đe
Ngọn cờ che phủ đại dương
Và loa phóng thanh trung tín vang vọng biển
Lời trầm trầm sâu sắc nhắc tháng sáu”
Bây giờ, tháng 6 năm 2008, vẫn có người nhắc đến biến cố Thiên
An Môn như một dấu hiệu bạo tàn của chế độ đỏ. Nhưng thêm vào
đó, là hành động đàn áp muốn diệt chủng dân tộc Tây Tạng. Cả thế
giới phẫn nộ và nhiều nước tẩy chay Thế Vận Hội Bắc kinh. Nhưng
kẻ ác vẫn hình như không có một chút gì động tâm. Bàn tay dấy
máu của những sát thủ tàn ác vẫn chưa run tay.
Thế mà, ở đất nước tôi, lại có một chế độ hèn hạ đến mức đáng
khinh, khiếp nhược đến mức đáng tởm. Ngày rước đuốc Thế Vận ở
Sài Gòn công an và lực lượng an ninh đàn áp những người Việt yêu
nước biểu tình phản đối những hành động lấn chiếm lãnh thổ áp
bức dân tộc của Trung Cộng một cách thô bạo nhưng lại bảo vệ cho
vài trăm chú Chệt diệu võ dương oai phất cờ gióng trống trên
đường phố Sài Gòn.
Cái châm ngôn “Không có gì quý hơn độc lập tự do“ sao mà mai
mỉa!!!
Tháng sáu Bei Dao còn làm thơ chiêu niệm cho hàng ngàn nạn nhân
bị thảm sát. Bài thơ cầu hồn Requiem như một nhắc nhở cho hậu
thế nhớ đến ngày 4 tháng 6 ô nhục:
”Không phải sự sống mà là nỗi chết
Dưới bầu trời tím ngắt của buổi tận thế
Những đoàn người đi
Thống khổ dẫn đường về đằng trước khốn khổ
Tận cùng của căm hờn là nỗi hờn căm
Mùa xuân khô hạn trôi qua
Đại họa căng ra không dứt
Con đường trở về
Có khi là những bước biệt xứ
Không phải thượng đế
Mà chính là tuổi trẻ thơ
Giữa âm vọng dọa đe của những bóng nón sắt
Ngỏ lời nguyện cầu
Những tay mẹ hiền nuôi dưỡng ánh sáng
Bóng tối làm họ đứt hơi
Đá tảng lộn nhào, kim đồng hồ quay ngược
Mặt trời méo mó hình bầu dục tuyệt đối ngự trị
Không phải thân xác các bạn mà chính linh hồn các bạn.
Cùng chung hưởng ngày kỷ niệm mỗi năm
như các bạn đồng niên tuế
yêu thương hình thành từ nỗi chết
trong miên viễn bước đồng hành
các bạn ôm nhau xiết chặt nhau
cuộc thảm nạn ghi tên tử biệt…”
Bei Dao là bút hiệu của một sinh viên Trung Hoa Zhao Zhenkai, là
một nhà văn, nhà thơ rất nổi tiếng trên thế giới. Ông là một
người có tên tuổi được ghi trong danh sách những nhà văn có hy
vọng đoạt giải Nobel văn chương của Hàn Lâm Viện Thụy Điển trong
nhiều năm. Bút hiệu Bei Dao có nghĩa là Bắc Đảo là một trong
những bút danh mà ông đã dùng ở Trung Hoa để tránh sự theo dõi
của chế độ Cộng sản. Ông là một trong những lãnh tụ sinh viên đã
tham dự những cuộc biểu tình của nhiều nhóm lao động, trí thức,
đòi hỏi nhân quyền và thay đổi thể chế chính trị hiện hữu. Cuộc
biểu tình bắt đầu là ngày lễ truy điệu Hu Yaobang (Hồ Diệu Bang)
gồm cả trăm ngàn sinh viên ở quảng trường Thiên An Môn đòi hỏi
phải thay đổi cái nhìn chính trị với ông này và sau lan rộng ra
ở nhiều nơi, như Thượng Hải, nhưng mạnh mẽ nhất là ở Thiên An
Môn từ tháng tư tới tháng sáu. Ngày mùng bốn tháng sáu, Hồng
quân Trung Hoa nổ súng vào đám biểu tình và gây ra 200 người tử
vong (theo báo cáo của nhà nước Trung hoa) nhưng theo New York
Times thì lên tới khoảng 800 người chết và theo hội Hồng Thập Tự
quốc tế hay những chứng nhân chạy thoát ra ngoại quốc thì khoảng
2000 đến 3000 người là nạn nhân.
Biến cố Thiên An Môn đã gây chấn động trên thế giới và rúng động
ngay trong hàng ngũ lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Trung Hoa. Tổng
Bí Thư Đảng Zhao Ziyang (Triệu Tử Dương) đã bị quản thúc tại gia
vì không tán thành đường lối xử sự của chính quyền đỏ Trung Hoa.
Những lãnh tụ sinh viên bị bắt như Wang Dan, Chai ling, Zhao
Changqing, Wuer Kaixi,… Bei Dao trốn thoát ra ngoại quốc và đã
cất tiếng nói của một chứng nhân về một biến cố như một vết nhơ
của lịch sử Trung Hoa…
Mười năm sau ngày tàn sát ở Thiên An Môn ấy, có một tiểu thuyết
ghi lại những dữ kiện bi thảm của ngày 4 tháng 6 năm 1989 với
tất cả những chi tiết sống động lồng trong một mối tình lãng
mạn. Đó là tiểu thuyết “Song of Tianmen Square” của David Rice.
Tác giả đã ghi chép để tái tạo lại những biểu hiện, những âm
vọng cuồng nộ, những mùi vị sắt máu, và tất cả những xúc cảm rất
người. Lúc biến cố xảy ra, David Rice đang ở Bắc kinh nên đã
nhìn thấy và là một chứng nhân để kể lại cho cả thế giới biết về
những sự thực đau thương cũng như sự tàn ác dã man của những
người đã hạ lệnh tàn sát... Mối tình giữa Song Lan, cô gái Trung
Hoa và PJO’Connor pha trôn giữa lòng trung thành và sự phản bội,
cũng như một thảm kịch mà trong đó khát vọng dân chủ và sự đối
kháng giữa chế độ độc tài toàn trị và những người tranh đấu biểu
hiện.
Tác giả “Song of Tianmen Square” sinh quán ở Bắc Ireland, đã
hành nghề ký giả ở ba đại lục: Nam Mỹ, Bắc Mỹ và Châu Á. Năm
1989 ông được mời tới Bắc Kinh để huấn luyện cho các nhân viên
của thông tấn xã chính thức của Trung Cộng và ông viết cho báo
China Features. Ông ở bắc kinh trong thời gian đó và đã bí mật
phỏng vấn hơn 400 người trẻ có tham dự vào biến cố Thiên An Môn.
Trong bức điện thư gửi cho độc giả, Rice viết:
”Đặt tên là “Song of Tianmen Square”, cuốn sách có nỗi bí ẩn là
dùng thể loại tiểu thuyết để tiếp cận với khối độc giả đông đảo
trên thế giới và nói về cuộc tàn sát. Khi câu chuyện biến thành
tiểu thuyết hóa, nhưng tuyệt đối không có hư cấu nào trong những
dữ kiện của biến cố. Có thể nói, trong một đường lối không chủ
định trước, sự khủng khiếp được diễn tả bằng cách dùng tiểu
thuyết để dụng công làm cho những dữ kiện sinh động hơn trong
tâm tưởng người đọc...”
Ngày … Tháng
6
Lại một bài thơ khác của tháng sáu. Tác giả Shi Tao, một tù nhân
với cái tội là đăng bài thơ kỷ niệm Thiên An Môn. Bài thơ June :
“Nguyên cuộc đời toy
sẽ không bao giơ sống qua được tháng sáu
tháng sáu khi trái tim tôi ngừng đập
khi thơ tôi ngưng thở
khi người tôi yêu dấu
chết trong vũng máu đang mơ
Tháng sáu mặt trời lửa dãi thiêu cháy làn da
Xé toang sự thật tự nhiên của thương tích toy
Tháng sáu con cá lao khỏi biển máu đỏ
Trôi tấp vào chốn khác của giấc đông miên
Tháng sáu, trái đất quặn mình, sông rạch lặng tiếng
Chồng chất ngàn ngàn lá thư
không thể gửi đến cho những người đã chết”
Shi Tao là một nhà văn, nhà thơ, ký giả Trung Hoa bị kết án mười
năm tù với tội danh là tiết lộ những bí mật quốc gia của chế độ
Cộng sản ra ngoại quốc. Ông bị bắt ngày 24 tháng 10 năm 2004 khi
đang làm công việc biên tập tại Dangdai Shang Bao (Giao Dịch
Hiện Đại Tân Báo). Ông cũng đã viết nhiều bài luận thuyết nêu rõ
ý nguyện muốn đổi mới thể chế chính trị đã được “posted” trên
nhiều trang web của các phong trào tranh đấu cho dân chủ ở ngoại
quốc.
Shi Tao bị bắt và kết án vì đã viết thơ văn đề cập tới ngày kỷ
niệm 15 năm Hồng quân Trung Hoa đàn áp và tàn sát những người
biểu tình ở quảng trường Thiên An Môn.
Việc bắt giữ này cho thấy chủ trương của chế độ Cộng sản muốn
kiểm soát hệ thống Internet. Theo báo cáo thì có tới 42 ký giả
bị bắt trong năm 2004 mà hơn phân nửa là những người xử dụng
Internet để chống chế độ. Ngày 20 tháng 4 năm 2004, chính quyền
Trung Cộng phổ biến một chỉ thị thông báo sự cảnh giác về tình
trạng những người đòi dân chủ và bị lưu đầy ra hải ngoại sẽ tái
hiện trong nước để có hành động nhân ngày kỷ niệm 15 năm biến cố
Thiên An Môn. Chỉ thị này cũng ra lệnh cho tất cả các ký giả
trong nước tuyệt đối không được đề cập hoặc nhắc nhở đến ngày “4
tháng 6 năm 1989”.
Shi Tao bất chấp lệnh cấm trên và viết rồi dùng Yahoo email của
mình gửi cho các website của phong trào ”Asia Democracy
Foundation”
Chính quyền Trung Cộng phát giác ra sự kiện trên và nỗ lực kiếm
tìm ai là người đã làm công việc đó. Họ đòi hỏi những dữ kiện
như account number và IP adress của người gửi từ văn phòng của
công ty Yahoo có văn phòng ở Hong Kong. Văn phòng này cung cấp
ngay mà không cần biết để làm gì. Và, công an đã tìm ra Shi Tao
và bắt giam ông.
Luật sư của Shi Tao, Guo Guoting, đã chứng minh trước tòa án là
việc bắt giữ Shi Tao là trái luật lệ và xâm phạm đến những quyền
tự do căn bản của con người. Kết quả là chứng chỉ hành nghề luật
sư của ông bị Bộ tư pháp ở Thượng Hải rút lại một năm và bị quản
thúc tại gia.
Những tổ chức nhân quyền trên thế giới nỗ lực can thiệp nhưng
xem ra chẳng có kết quả gì. Công ty diện toán Yahoo cũng bị phê
bình gay gắt và tạo ra một trường hợp có thể tạo thành tiền lệ
giúp các chế độ độc tài truy đuổi những người dùng Internet để
nói lên nguyện vọng của mình. Những công ty như Google, MSN,
Yahoo... đã bị những phê bình về vấn đề trên.
Ngày 28 tháng 8 năm 2007. Nghị viện Hoa Kỳ đã có một buổi điều
trần của Jerry Yang, người sáng lập của công ty Yahoo và đã bị
chất vấn khá nghiêm khắc. Hành động cung cấp những dữ kiện cá
nhân như email account hoặc IP address cho công an là hành động
vô lý không tha thứ hoặc chấp nhận được.
Tổ chức World Organization for Human Rights đã kiện công ty
Yahoo vì việc tiết lộ dữ kiện điện thư đã làm Shi Tao bị cầm tù
ở Trung Quốc.
Jerry Yang của công ty Yahoo đã viết thư cho bộ trưởng ngoại
giao Trung Quốc Yang Jiechi để xin ân xá cho Shi Tao và Wang
Xiaoning.
Nhưng, chưa có kết quả và cả hai người chiến sĩ tranh đấu cho tự
do dân chủ vẫn còn bị ngồi tù…
Trở lại với bài thơ Tháng sáu của Shi Tao. Ông ghi lại những cảm
xúc của mình, nghĩ về những người đã chết. Ở một trường hợp nào
đó, thơ đã thành một vũ khí để tấn công giặc ác. Dù chẳng phải
“ở trong thơ có thép” mà chỉ có những giọt lệ bùi ngùi, chỉ có
sự tưởng niệm thành kính nhưng thơ đã đi vào lòng người và là
biểu hiện của kẻ sĩ không khuất phục cường quyền…
Ngày … Tháng 6
Lại tháng sáu. Tháng của những ngày mà các trường đại học tại
Hoa Kỳ tổ chức lễ tốt nghiệp. Dù trong bối cảnh ảm đạm của nền
kinh tế đang bị trì trệ nhưng xem ra, niềm hy vọng vào một tương
lai tốt đẹp vẫn còn, nhất là trong giới trẻ. Những nụ cười tươi,
những ánh mắt long lanh của những tân khoa là những nét sống
động nhất cho ngày mai của thế hệ kế tiếp. Những bài diễn văn
cũng là một dịp để đối chiếu giữa thực tế và sách vở, và biết
bao nhiêu nhân vật tài ba thành công đã truyền lại những kinh
nghiệm quý giá của đời mình làm thành kiến thức cho lớp hậu
sinh.
Làm việc ở trường học, mỗi năm chứng kiến những cuộc khởi hành
vào đời của bao nhiêu sinh viên, thấy rằng học vấn cần thiết
biết bao cho đời sống con người. Buổi sáng, buổi trưa, buổi
chiều, trong cái yên vắng của campus những ngày hè, tự nhiên lại
thấy mình có một chút gì nao nao. Nắng vẫn rực rỡ, cây cỏ vẫn
xinh tươi, những chú chim vẫn vô tư chuyền cành, cuộc đời vẫn
trôi qua. Nhưng trong những chu kỳ ấy, vẫn ngoi lên những mộng
ước và tự nhiên cảm thấy đời sống phong phú và mênh mông biết
dường nào. Xứ sở này phải nói là xứ sở của giấc mộng đầy hy
vọng. Mà giáo dục chính là con đường đi để tiến đến những phương
trời xa đầy mộng tưởng.
Nhìn xem những gia đình Việt Nam tị nạn, mới có một vài thập
niên mà đã có những thành đạt đáng kể. Gần gũi với những người
trẻ tôi thấy họ có khác biệt nhiều so với thế hệ chúng tôi. Họ
tự tin hơn, sòng phẳng hơn và có những mơ ước mà thế hệ chúng
tôi ít có. Với chúng tôi, đời sống hiện tại có lẫn lộn của quá
khứ, của quãng đời đã qua. Còn với những người trẻ, họ sống với
hiện tại và tương lai nhiều hơn. Tôi đã gặp nhiều em, muốn gia
nhập binh ngũ hoặc đi các nước chậm tiến xa xôi để làm việc xã
hội hoặc giáo dục giúp đỡ người và coi như một cuộc dấn thân vì
tha nhân riêng họ. Xứ sở này đã tạo rất nhiều cơ hội để tao dựng
lại đời sống và nếu quyết tâm và kiên nhẫn thì nhất định sẽ
thành công. Nhìn lại bản thân mình, nếu còn kẹt lại ở Việt nam
thì không hiểu cuộc sống mình sẽ ra sao, và tự nhiên, lại có một
chút nao nao, một chút buồn buồn khi nhìn quay lại những quãng
đường đời đã đi qua…
Nhưng trong cái bồi hồi ấy, từ đất nước người lại nhớ về đất
nước mình. Được hưởng những tiện nghi của nền giáo dục tiên tiến
bao nhiêu thì lại càng buồn cho sự dạy dỗ đào tạo nhân tài của
đất nước mình. Một phá sản khủng khiếp và hơn bao giờ hết, cái
chủ điểm duy lợi, tiền bạc trên hết đã tàn phá mạnh mẽ hơn bất
cứ những ruỗng mục xã hội nào…
Nền giáo dục Việt Nam hiện nay đang ở trong tình trạng khủng
hoảng nặng nề. Theo World Development Report 2006 thì cả nước
chỉ có vỏn vẹn 2% dân số tốt nghiệp bậc trung học phổ thông và
trong 2% ấy chỉ có 10% tốt ngiệp đại học. Tỉ lệ học sinh bỏ học
rất lớn vì đời sống khó khăn, lo ăn mặc chưa đủ nói chi đến học
hành. Vẫn còn bị chỉ đạo bởi một định hướng xã hội chủ nghĩa vừa
sai lầm vừa lỗi thời, giáo dục chỉ có mục đích là củng cố quyền
lực của Đảng Cộng Sản.
Bộ Giáo Dục và Đào Tạo đã phổ biến trên báo diện tử của mình:
“… Nhằm mục đích gia tăng sự lãnh đạo của Đảng trong giáo dục,
Hội đồng Đảng từ trung ương đến địa phương phải hướng dẫn và
thường xuyên kiểm soát sự áp dụng các chính sách giáo dục đặc
biệt là sự tham gia của xã hội trong giáo dục, chính trị học và
chủ nghĩa Mác-Lê, sự xây dựng một hệ thống có trật tự, kỷ luật
và phải xem sự phát triển cùng gia tăng chất lượng giáo dục như
dấu hiệu xây dựng một Đảng bao trùm và mạnh mẽ. Phaỉ kết nạp
thêm nhiều đảng viên, thanh lọc và kiên cố hóa tổ chức đảng nâng
đảng thành hạt nhân lãnh đạo trong mọi trường học.”
Chính sách thì hạn hẹp một chiếu mà thực hành thì tùy tiện bê
bối nên Liên Hiệp Quốc đã đánh giá rất thấp nền giáo dục ấy.
Theo báo còa thì 96% học sinh nhập học lớp 1 nhưng chỉ có 89% là
học đến lớp 5 nghĩa là xong bậc tiểu học. Chính sách “xã hội hóa
giáo dục” với chủ trương bắt học trò mọi cấp phải chịu học phí
và phụ phí đã làm nhiều học sinh phải bỏ học vì gia đình không
thể chu toàn tiền bạc cho con. Giáo sư Hoàng Tụy nguyên Khoa
Trưởng khoa Toán tại Việt Nam đã cho rằng đây là một hình thức
của vô trách nhiệm mà chính quyền lạm dụng để đẩy gánh nặng tài
chánh cho dân chúng.
Nguyễn Thiện Nhân, bộ trưởng giáo dục và đào tạo cũng thừa nhận
sự thiếu hiệu quả của nền giáo dục như sự trì hoãn trong việc
cải tổ bộ máy nhà nước trong sự thay đổi cách quản lý kinh tế,
quản lý tài chánh, sử dụng lao động và chính sách lương bổng là
nguyên do chính ngăn cản hiệu quả cho các giải pháp cho vấn đề
giáo dục, hay lương tâm nghề nghiệp của một số cán bộ quản trị
và thầy cô đã bị băng hoại... Ông Nguyễn Thiện Nhân cũng nêu lên
trường hợp một công ty Đài Loan thành lập hai nhà máy ở Bắc
Giang và Bắc Ninh với nhu cầu hàng chục ngàn kỹ sư và chuyên
viên các cấp mà Việt Nam không thể cung ứng nên hãng này đã phải
quyết định huấn luyện chuyên nghiệp ở ngoại quốc vừa bất tiện
vừa tốn kém hơn…
Rất nhiều người có nhiều kinh nghiệm trong lãnh vực giáo dục đã
phê bình mà tựu chung vào những điểm như giáo dục mà kiểm soát
tư tưởng và thiếu tự do ngôn luận tạo cho học sinh tinh thần nô
lệ và thiếu tinh thần tìm tòi sáng tạo. Đã vậy làm việc tùy
tiện, ngân quỹ sử dụng lãng phí và tham nhũng tạo gánh nặng tài
chính cho quốc gia. Chính sách thu học phí đã tạo sự bất bình
đẳng trong giáo dục cũng như tinh thần đạo đức và tư cách công
dân không được coi trọng, chủ trương học để kiếm tiền tạo sự
băng hoại cho xã hội và đất nước. Rồi sách giáo khoa cũng được
soạn thảo và in ấn với một chủ trương vừa chậm tiến vừa lỗi
thời, là một môi trường béo bở cho tham nhũng và các học sinh
chịu thiệt thòi nhất. Tất cả những yếu tố ấy làm cho người dân
không tin tưởng vào hệ thống giáo dục trong nước và vì thế chất
xám bị hao hụt mất cả phẩm chất lẫn số lượng…
Có nhiều người nói tôi hay phê bình và mang những bất toàn trong
nước ra để khai thác. Thực ra, đây chỉ là những suy nghĩ riêng
tư nhưng thành thật của một người luôn mong mỏi sự tươi sáng của
đất nước. Thấy đất nước mình băng hoại, xã hội suy đồi, chính
tình rối ren, ai mà không đau đớn... Viết, không phải là xoáy
sâu vào những bi kịch của đất nước, với tôi. Mà, viết là để có
cái nhìn rõ ràng hơn, những suy nghĩ chính xác hơn, những đường
hướng chính đáng hơn. Dẫu rằng, ở vị trí của một người viết lách
nhỏ nhoi, chắc cũng chẳng có tác dụng gì mấy. Nhưng, vẫn phải
viết để thanh thản với chính tâm hồn mình…
Ngày…Tháng…
Có người hỏi tôi đã đọc Đào Hiếu chưa? Tôi nhớ đã đọc cuốn tiểu
thuyết “Nổi loạn“ của tác giả này. Hình như cuốn truyện này có
mô tả vài nhân vật cán bộ Cộng sản có những ám ảnh tình dục bệnh
hoạn và những hành động bất thường. Nếu có thể ví von, là một
mẫu hình người vừa có tính khôi hài đen vừa có tính giáo điều
của một xã hội băng hoại và lụn rã từ ngay căn bản gia đình. Tôi
nhớ, truyện này có lối viết khá cường điệu và nhiều kịch tính.
Và, theo tôi biết, thì cuốn sách này bị cấm phát hành và gây ra
rắc rối cho người viết ra nó.
Tôi có người bạn vừa sang định cư ở Hoa kỳ. Ở Sài gòn anh cũng
biết khá nhiều về những nhân vật viết lách. Khi hỏi đến Đào Hiếu
thì anh cho biết là ông này có một thời làm báo Tuổi Trẻ và là
một người lớn lên từ chế độ Cộng hòa nhưng lại đi theo Cộng sản.
Thời gian gần đây, một cuốn sách của tác giả Đào Hiếu được in ở
hải ngoại. Cuốn “Lạc Đường”, mà nhiều người đã đọc qua cho rằng
có tính cách phê phán chế độ và tính phản kháng vì bất mãn. Tôi
đọc và tự nhiên muốn viết một vài nhận xét chủ quan của mình. Dù
có lúc cũng khá ngại ngần, bởi sự thành thực của mình nhiều khi
bị cho là có ý này ý khác. Viết mà có thiên kiến thì khó lòng mà
chính xác được tôi cũng hiểu điều ấy. Tôi không muốn làm một
người ở bên này để suy nghĩ và nhận xét về một người ở bên kia.
Cái chiến tuyến đáng lẽ phải dẹp bỏ sau khi cuộc chiến kết thúc
đã hơn ba chục năm…
Trong bài phỏng vấn Đào Hiếu của Đặng phú Phong, tác giả “Lạc
Đường“ đã giải thích về nhan đề tiểu thuyết của mình khi người
phỏng vấn hỏi “xin hỏi ông : tại sao là lạc đường mà không là
lầm đường? Lạc đường và lầm đường khác nhau như thế nào?” : “Lạc
đường nghe hay hơn lầm đường. Lạc đường là chọn một con đường
nào đó nhưng khi đến thì lại đến chỗ khác. Còn lầm đường thì
chọn sai ngay từ đầu”
Như vậy, Đào Hiếu cho rằng mình theo Cộng sản vì muốn làm cách
mạng dân tộc vì tính lãng mạn và đọc sách hiện sinh của Sartre
và Albert Camus. Và ông cho rằng mình chọn đúng hướng đi cho
cuộc đời mình: đánh Mỹ, chấm dứt chiến tranh, thống nhất đất
nước. Hình như, Cộng sản rất dị ứng với triết học hiện sinh mà
Đào Hiếu vì đọc tiểu thuyết của các tác giả hiện sinh mà theo
Cộng thì chuyện ấy với tôi có vẻ hơi mâu thuẫn ít chất hợp lý.
Hình như lúc Đào Hiếu sống và lớn lên ở miền Nam thì triết học
hiện sinh thành một mốt thời thượng và nhiều người nói như một
con vẹt, nói để có cảm tưởng mình thông thái… Chuyện đánh Mỹ,
chấm dứt chiến tranh thống nhất đất nước thì giống y như chiêu
bài của miền bắc. Họ gây ra chiến tranh tại miền Nam, nhờ vào
giúp đỡ của khối Cộng sản quốc tế và mục đích là thôn tính miền
Nam. Đáng lẽ, sau sự sụp đổ của nhiều chế độ Cộng sản trên thế
giới thì Đào Hiếu cũng nên hiểu rằng chủ nghĩa Cộng sản lỗi thời
đã bị dào thải. Khi ông nói rằng mình không hề lạc đường và chỉ
có lịch sử đã lạc đường, tôi có cảm giác được nghe câu nói của
một người nói để mà nói, nghe huề vốn và hơi lẩn thẩn..
“Lạc đường“ là một tự truyện kể lại cuộc đời của một người lớn
lên ở miền Nam, đi lính với cấp bậc binh nhì ở Đại đôi 22 trinh
sát, rồi trốn vào Sài gòn, gia nhập đặc công Việt Cộng rồi bị
bắt. Với lối bố cục nhảy cóc, người đọc khó có thể theo dõi liên
tục cuộc đời của tác giả, xen vào đó pha trộn nhiều lời thuyết
giảng từ sách vở kim cổ và với cá nhân tôi khi đọc Lạc Đường có
cảm giác là đọc một loạt bài luận thuyết hơn là một tự truyện.
Ông mang Trang Tử với Nam Hoa Kinh, Eckhart Tolle với The Power
of Now, Albert Camus với L’Etranger, John Perkins với
”Confession of an Economic Hit Man”, Micheal Moore với phim
”Fareinheit 9/11” rồi Kinh Dịch, Kinh Phật, nhồi nhét vào truyện
để thành những lời thuyết giảng gượng gạo vu vơ. Có lẽ, rút gọn
những “râu ria“ này thì cuốn sách dễ đọc hơn
Phê bình về một chế độ xã hội mà chỉ qua lăng kính một cuốn sách
và một phim ảnh liệu có chính xác không? Nhất là tác giả này
chưa có một kinh nghiệm sống nào, chưa một ngày quen thuộc và
vật lộn với sinh kế thì liệu những môi trường sống như vậy có
thuyết phục được độc giả không? Tôi nghĩ có lẽ là không!!! Như
một trường hợp là ông Hoàng Ngọc Hiến được dịp ra hải ngoại 6
tháng để viết về văn học tại hải ngoại. Và trong bài tổng kết
ông nói rằng chỉ cần đọc một vài tác phẩm tiêu biểu là có thể
biết và phác họa được một nền văn học đó một cách không khó
khăn. Có lẽ vì như vậy nên ông đã có một bài viết khập khiễng
đầy chủ quan và thiên kiến.
Đào Hiếu có nhiều hình tích vóc dáng. Lúc thì ông la người lãng
mạn hiện sinh, lúc là người Cộng sản trung kiên. Khi là người
sinh viên tranh đấu, lúc đóng vai người binh nhì của đại đội 22
trinh sát, rồi lại thành anh đặc công Việt cộng mang chất nổ đi
phá hoại để thành một đảng viên sau chiến công đầu. Sau năm 1975
thành anh nhà báo tiên phong của tờ báo Tuổi trẻ, rồi lại thành
anh nhà văn có vấn đề vì viết cuốn sách gây nhạy cảm cho giới
lãnh đạo. Nhưng dù thế nào chăng nữa, Đào Hiếu vẫn không bị cấm
viết, vẫn có tác phẩm in ra và vẫn được đi xuất ngoại đều đều
như đã mô tả trong các trang sách khi kể những cuộc rong chơi ở
Châu Âu, ở Liên Xô, ở Châu Mỹ. Ông có số phận may mắn hơn những
nhà văn Nhân Văn Giai Phẩm thuở xưa và những nhà văn nhà thơ
tranh đấu cho tự do dân chủ bây giờ chăng?
Đọc xong cuốn sách, gấp lại, một câu hỏi vẫn còn trong trí óc
tôi. Đào Hiếu, ông là ai? Tôi phải lựa chọn chân dung nào thích
hợp nhất trong những hình tích vừa kể? Một công việc dễ mà khó,
khó mà dễ!…
Đào Hiếu cũng phê bình chế độ, ông không có mục đích nhắm vào
những căn bản gây ra tình trạng lụn bại hiện nay mà ông đề cập
đến những cá nhân mà ông ví von : “Trước đây, chúng không phải
là ruồi, chúng là bạn tôi. Về sau, vì ăn tạp, chúng bị đột biến
gen và hóa thành ruồi”.
Rồi Đào Hiếu nhận dạng từng con ruồi, từ ruồi cái đến ruồi đực,
từ con thứ nhất đến thứ một ngàn, hai ngàn,… Thí dụ như con ruồi
cái thứ nhất:
”Đầu tiên là một ruồi cái. Cái mắt nó bự, mắt
là một thứ lăng kính nhiều mặt. Tay chân nó đầy lông, bụng nó
phình ra như cái trống. Hồi còn là sinh viên tướng tá nó đã ngầu
như vậy. Bộ ngực đồ sộ như trái bí đao. Khi ở tù nó được tụi cai
ngục đặt cho cái hỗn danh ”Con ma vú dài khám Chí Hòa”
Tôi không ở tù chung với nó nên không biết trong tù nó có ngon
lành không (muốn biết cứ giở những tờ khẩu cung còn lưu trong
Tổng nha thì rõ) nhưng ngoài đời nó thường ăn nói đốp chát đanh
đá. Chồng của ma vú dài thì tôi biết vì tôi ở tù chung với anh
ta. Nhưng đó là chuyện trong tù, còn chuyện “kinh tế thị trường”
thì lại khác. Chẳng biết hai vợ chồng đớp hít vơ vét cỡ nào mà
phải bỏ nhiệm sở trốn. Chạy đi cầu cứu hết ông lãnh đạo nọ đến
ông kia. Một bữa ma Vú Dài tình cờ gặp tôi. Nó nói:
“Mình có cái đồn điền cà phê mấy chục mẫu, Ông mua mình bán cho”
Tôi chỉ ngón tay vào giữa hai đùi của mình và nói : “làm nhà văn
chỉ có mỗi cây bút bi này, tiền đâu mà mua?”
Không biết sau đó nó bán đồn điền cho ai. Nhưng đồn điền cà phê
có là cái quái gì với nó. Nó làm sếp tàu biển. Mỗi lần tàu há
mồm là nuốt cả xe hơi, biệt thự. Dù nó có bỏ nhiệm sở mà trốn
thì cũng đã gởi cả núi tiền ở các ngân hàng Thụy Sĩ rồi”
Đại khái các con ruồi mà Đào Hiếu tả cũng đều na ná như thế. Ăn
cắp, tham những, lường gạt, nịnh hót, theo thời, gian ác,… đầy
đủ của những con người ham tiền sa đọa.
Nhưng, mô tả như thế có phải là đối kháng không? Theo tôi, nhiều
nhà văn Cộng sản son sắt nhất cũng có những mô tả tương tự.
Nhưng, họ cho đó chỉ là hiện tượng thôi chứ không phải là bản
chất chế độ. Chế độ vẫn tốt, chỉ có người thi hành sai, nên nêu
ra những sai sót có khi làm chế độ sạch sẽ hơn. Thành ra, nhiều
khi cứ viết thả dàn, có lúc còn cường điệu cũng chẳng sao. Tôi
không biết rõ sự việc nên không dám có kết luận bởi nếu không đủ
yếu tố
để đoan quyết có thể thành sự nông nổi và làm tai hại cho người
khác. Nhưng, dù sao vẫn phải phân tích cho rõ ngọn ngành hơn.
Nhân vật của Đào Hiếu có thực mà cũng có trong hư cấu. Có thực
như Huỳnh Tấn Mẫm, như Dương Văn Đầy, như Cao thị Quế Hương, như
Phạm Chánh Trực, như Nguyễn Tấn Tài, Sơn Nam, như vợ chồng Võ
Thị Thắng –Trần Quốc Thuận … Cũng có cải danh đôi chút như Vô
Hạnh ( Vũ Hạnh), như Hột Xoàn (Kim Cương)... Những nhân vật được
nhắc đến thường thêm thắt vào một vài kỷ niệm với tác giả,
thường là những lỗi lầm, những xấu sa hơn là lời khen tặng.
Nhưng có một nhân vật đặc biệt, khi thì độc thoại, khi thì đối
thoại, làm có lúc người ta tưởng Đào Hiếu – Dã Nhân là một. Nhân
vật này dường như lúc nào cũng uống say rượu Bầu Đá tha hồ bốc
phét chuyện trên trời dưới biển, chuyện sách vở kinh điển,
chuyện đời chuyện đảng, chuyện gió chuyện mây. Có lúc người đọc
có cảm giác như tác giả muốn nói nhưng ngại ngùng nên mượn nhân
vật nói giùm. Thực tình tôi không hiểu nhân vật này có thực hay
không, nhưng chuyện ấy cũng chẳng quan trọng. Chỉ biết rằng
trong truyện, nhân vật Dã nhân đã đóng vai phát ngôn biên cho
tác giả ở những điều mà chính tác giả khó biện bạch.
Đọc Lạc Đường, tôi suýt nữa cũng bị Lạc Đường theo. Khởi hành
theo một con đường đến chỗ đã định nhưng lại đến một chỗ khác.
Không biết có phải vì cái màn mù mù nhân ảnh của một chế độ mà
sự giả trá thành châm ngôn để cứu cánh biện minh cho phương tiện
chăng? |