Phạm Công thiện, ông là ai? Có nhiều người đã hỏi như thế.
Triết gia? Thiền sư? Thi sĩ? Văn sĩ ? Hay là một người lang
thang rong chơi trong cuộc đời? Hay là nghệ sĩ với ước vọng
thành một tài năng lớn của thế giới? Hoặc là một người đang
trong cơn mộng du suốt cả đời?
Vào những năm thập niên 60 ở Sài gòn, Phạm Công Thiện xuất hiện
như một hiện tượng. Sách vở của ông đã được đón đọc nồng nhiệt
và trong giới sinh viên học sinh đọc sách của ông là một thời
thượng. Họ thích nói về “Ý thức mới trong văn nghệ & triết học”.
Họ tán thưởng “Ngày sinh của rắn”. Có người thú nhận thích đọc
ông dù chẳng hiểu bao nhiêu. Và trong cái gọi là “họ” ấy có tôi.
Một cậu sinh viên mê sách vở và tràn ứ mơ mộng lãng mạn.
Lúc đó, tôi đã nghĩ Phạm Công Thiện là một người viết phê bình
như viết tùy bút và viết tùy bút như viết bằng thơ. Tóm lại, với
tôi, ông là một thi sĩ dù ông làm thơ không nhiều lắm.
Đọc lại những bài viết về những nhà thơ của ông, tôi thấy điều
đó tới bây giờ vẫn còn chính xác. Ông viết về thơ với cả tâm hồn
mình, và với những thi sĩ, ông cũng đồng cảm trong cái chia sẻ
không cùng của những sợi đàn rung cộng hưởng vì chung tần số.
Tôi đọc thử một đoạn viết về Cung Trầm Tưởng để dẫn tới thơ tình
yêu của Appollinaire. Những trang sách cũ đã ố vàng của “Ý thức
mới trong văn nghệ và triết học”.
“... Tôi ngạc nhiên. Tim tôi máy động. Cung Trầm Tưởng là ai mà
làm thơ tài hoa vậy. Tôi mơ màng. Tôi hình dung những chiếc lá
rơi. Tôi nhìn thấy dòng sông Seine lững lờ trôi chảy.
Kia là tả ngạn River Gauche… Kia là đường phố Aumont - Thieville
và L’ Avenue des Ternes… Kia là những quán cà phê và những kẻ tứ
chiếng giang hồ... Kia là cầu Mirabeau… Kia là mùa thu mưa rơi…
kia là Pont Neuf. Ôi. Paris. Souvenir. Souvenir. Remember to
remember…
Cung Trầm Tưởng làm tôi nhớ đến Appollinaire. Ừ, chỉ có
Appollinaire mới có những dòng thơ bất tuyệt để làm sống lại
Paris. Nói đến Paris là nói đến Kỷ Niệm, là nói đến Nghệ sĩ, là
nói đến tình yêu và tuổi trẻ. Paris là thành phố của những kẻ tứ
chiếng giang hồ, của những clochards, của những femmes de joie,
của những Henry Miller, những Hemingway, những Gertrude Stein,
những Picasso, những Appollinaire…
Mùa thu nơi đâu
Người em mắt nâu
Tóc vàng sợi nhỏ
Mong em chín dỏ trái sầu.
Cung Trầm Tưởng làm tôi nhớ đến Appollinaire:
J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps Brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends
Cũng vào mùa thu, Cung Trầm Tưởng ngóng chờ người yêu ”kiên khổ
phút giờ” và “chín đỏ trái sầu” ngóng chờ mong đợi như
Appollinaire đã ngóng chờ mong đợi giữa hương thời gian và mùi
lá cỏ
Odeur du temps Brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends
Trời đã tối hẳn rồi. Tôi bước vào giường nằm ngủ, mắt nhắm lại,
những dòng thơ của Hàn, của Cung, của Appollinaire chan hòa
thướt tha đưa tôi vào giấc ngủ triền miên...
Viết về thơ, theo như Phạm Công Thiện không phải là phê bình xếp
loại mà phải là ca tụng khen ngợi thơ. Ông khẳng định ”Nói
đến Thơ không khác gì nói đến Thượng Đế. Phê bình Thơ là làm
việc phạm thánh là blasphème.
Những thi sĩ không phải là loài người họ là những Thiên Thần,
những thánh hoặc những quỉ ma. Nếu ta không chấp nhận họ được
thì ta phải im lặng; còn nếu chấp nhận họ thì ta phải ca tụng
cho hết lời. Ta không được quyền có thái độ của học giả hoặc
giáo sư hoặc nhà phê bình. Phải giết hết những nhà phê bình để
cho Keats sống, để cho Chatterton đừng chết lúc mới 18 tuổi
xanh.
Anh không thể cảm thơ của người ta thì anh hãy im lặng; còn nếu
cảm được thì anh hãy thiết tha ca ngợi, đừng e dè giữ gìn gì cả.
Không nên có những nhà phê bình thơ mà chỉ nên có những kẻ ca
tụng thơ. Thơ là của riêng từng người; không có ai làm thầy ai
cả. Phê bình văn nghệ ư? Buồn lắm…”
Thi sĩ ca tụng thi sĩ? Đúng
quá rồi. Và trong cái bí nhiệm như của một tôn giáo, thi ca đã
làm cho chúng ta luôn luôn mơ mộng và suy tư.
Như khi nhìn những con sông cạn cợt của quận Cam…
Không hiểu sao mỗi lần lái xe đi ngang qua những con sông cạn ở
thành phố Westminster hay Santa Ana tôi lại thấy bồi hồi. Có một
liên tưởng nào từ lòng sông tráng xi măng ở giữa chơ vơ một dòng
nước chảy nhỏ nhoi cạn cợt. Cái cảm giác của thiên nhiên bị
khuất phục ấy của một dòng nước mùa nắng nhắc tôi tới nguồn nước
ào ào sục sôi sau những cơn mưa. Một thi sĩ đã viết :
“Ừ, ta bây giờ như sông cạn
Nước vũng làm sao thành biển khơi
Chí lớn dưng không thành chuyện vãn
Mỉm cười còn mất chuyện muôn đời…”
Có hay không, cái tượng hình của Dịch Kinh, hà trung vô thủy?
Sông mà không có nước, có phải là sông không? Hay chỉ là gợi ý
tới những đi mà không đến. Một câu thơ của Seamus Heaney, thi sĩ
giải Nobel văn chương năm 1995 trong thi tập The Haw Lantern,
chỉ có hai câu :
“The riverbed, dried up, half full of leaves.
Us, listening to a river in the trees.
(Lòng sông, cạn khô, một nửa phủ đầy những chiếc lá
Cho chúng ta, đang lắng nghe một dòng sông chảy trong cây)
Thi sĩ Phạm Công Thiện đã viết như sau về hình ảnh sông cạn rất
thơ mộng này mà chúng ta nhiều khi ít quan tâm khi ngang qua
trong nhịp đời hối hả mỗi ngày :
“… Tiếng nói của thơ là dòng nước tuôn chảy bất tận, dù lòng
sông có cạn khô chăng nữa thì hồn sông vẫn chảy mãi trên cao…
Sông đang chảy trên cây và trong cây lá, và sự lắng nghe ở đây
đã nhập lưu (sơ ư văn trung / nhập lưu vong sở), không phải
chúng ta lắng nghe dòng sông mà chính dòng sông đã chảy vào
trong thi nhân, lòng sông khô cạn ở dưới đã nhập vào con sông
chảy trên cây; lòng sông khô cạn nửa đầy những chiếc lá thả hồn
rào rạt với sông lá trên cao (Hồ Dzếnh: ”có một nghìn cây rũ
rượi buồn / Một nghìn sông rét vạn hoàng hôn. Vũ hoàng Chương
“Đáy sông bừng dựng Lầu Thơ? Giấc mơ Hồ Điệp chẳng mơ cũng
thành”… Tại sao phải làm thơ? Tại sao phải lắng nghe một lần như
chưa từng biết nghe trọn đời? Tại sao phải nhìn thấy được một
lần duy nhất như chưa từng biết thấy bao giờ? Thi nhân đã một
lần nhìn thấy; còn chúng ta thì hãy lắng nghe một dòng sông chảy
bất tận trong rặng cây rào rạt chiều hôm nay… “
Phạm công Thiện khi viết về kỷ niệm với nhà văn Võ Hồng, trong
tập thơ Ngày Sinh Của Rắn có hai câu thơ, tả cảnh mà tả tình,
đẹp một cách đơn giản như phong vị của những câu Hai-Ku:
“Mưa chiều thứ bảy tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết bông”
Và, hình như từ hai câu thơ này, Võ Hồng đã viết truyện ngắn
”Hoa khế lưng đồi” như một cách thế đáp tạ người tri kỷ.
Trong một lá thư gửi cho tác giả “Hoài Cố Nhân”, thiền sư thi sĩ
họ Phạm viết:
...”Anh V.H. ạ, anh có cần gì phải thuyết giảng philo? Tất cả
những trang văn anh, những trang văn rất từ tốn khiêm nhượng kia
đều tiềm tàng những tư tưởng triết học rất sống. Nó cao hơn
philo nữa, bởi nó là sagesse của quả tim.
Và một Triệu trang giấy Triết Học cũng không đáng giá bằng một
tiếng đập của con tim. Anh có nghe rõ chưa? Tôi muốn hét to lên
như vậy.
Anh có nghe tim con người đập trong những trang “Xuất hành năm
mới”, trong “Trận đòn hòa giải”? “Xuất hành năm mới” còn cảm
động muôn vạn lần hơn những chuyện mà người ta cho rằng buồn
nhất! Những đứa nhỏ Hằng, Hào, và Thủy trong “Xuất hành năm mới”
và “Trận đòn hòa giải” là những hình ảnh đau thương nhất trên
đời, là những hình ảnh tượng trưng cho tất cả những đứa trẻ ở
trần gian này…”.
Phạm Công Thiện tâm sự như thế, dù trong ngôn ngữ của ông có một
chút gì hơi phấn khích nhưng cũng khá thành thật.
Phạm Công Thiện là một khuôn dáng văn chương rất có ảnh hưởng
với những lớp sinh viên học sinh ở miền Nam của thập niên 70,
80. Thời gian ấy, những cuốn sách như “Ý Thức Mới trong Văn Nghệ
và Triết Học”, “Hố Thẳm của Tư Tưởng“, “Ngày Sanh của Rắn “,… là
những cuốn sách cầm tay của giới trẻ. Từ tác phẩm của ông, mở ra
nhiều những cánh cửa. Trước hết, ông là một người sáng tạo nhiều
suy tư về cái Mới, về những ngã đường có thể khá lạ lùng đến khi
kỳ dị nhưng hấp dẫn. Văn học sẽ phải có những thay đổi, nhất là
trong hoàn cảnh một đất nước chiến tranh như Việt nam. Ngay cả
khi làm thơ, thi sĩ như người của hành tinh lạ lạc đến, với ngôn
từ khá lạ lùng như đoạn VI của tập “Ngày Sanh của Rắn”
“tôi chấp chới
đắng giọng
giữa tháng ngày mơ mộng
nốt ruồi của hương
hay nốt ruồi của rigvéda
tôi mửa máu đen
trên nửa đêm Paris
tôi giao cấu mặt trời sinh ra mặt trăng
tôi thủ dâm thượng đế sinh ra loài người
cho quế hương nằm ở nhà thương điên của trí nhớ
mặt trời có thai!
Mặt trời có thai!
Sinh cho tôi một đứa con trai mù mắt “
Nếu bảo giải thích từng câu từng chữ thì có lẽ chính cả tác giả
cũng lúng túng. Thơ là những hình ảnh rải rác, thoạt tưởng không
liên quan với nhau nhưng trong trình tự cảm nhận lại có một ý
nghĩa nào len vào bất chợt những liên tưởng. Có người cho rằng
những từ ngữ như thủ dâm thương đế, giao cấu mặt trời, mặt trời
có thai,,, tạo ra cảm giác tức thì với hình tượng có hơi dung
tục ấy. Đó là một cảm nhận. Nhưng, ngay ở thời điểm bây giờ, đọc
lại câu thơ, chúng ta vẫn có thể bắt gặp được nét khai phá một
cách rõ ràng. Thơ là một cái gì, khác thường lắm, có lúc rất gần
cận cuộc sống mà có lúc lại xa nghìn trùng…
Tôi nhớ có lần nhà thơ Phạm Công Thiện nói chuyện với tôi về
kinh nghiệm đọc thơ của ông. Lúc ấy, đêm đã khuya và ông có ngôn
ngữ của một Lưu Linh đang trong cơn đồng thiếp. Ông đọc thơ
Pháp, thơ Anh, thơ La tinh, thơ Việt Nam tiền chiến và hiện đại.
Đọc xong rồi bình, hình như văn chương đã lôi ông vào một cơn
mộng.
Nói về kinh nghiệm để có thể tiếp cận với thơ, ông đọc một bài
thơ thật nhiều lần và sau mỗi lần đọc như thế đều tìm ra những
cảm nhận khác nhau. Cảm nhận ấy bắt nguồn từ giây phút rất
thiêng liêng để con người bắt gặp được những sáng ngời lộng lẫy.
Sự kiện ấy James Joyce đã gọi là “a sudden spiritual
manifestation” (biểu hiện tâm linh bất ngờ) hay “epiphany” (sự
linh hiện). Tương tự, như Xuân Diệu : “phất phơ hồn của bông
hường / trong hơi phiêu bạc còn vương máu hồng / nghe chừng gió
thoáng qua song... “ đó, chính là hồn của thơ, của những giây
phút linh hiện mà chỉ có những người tài tử cảm nhận được.
Ở Phạm công Thiện, cái chất thơ đã thành nét đặc thù tinh tế cho
văn chương ông. Viết khảo luận, ông mang cái kiến thức rộng lớn
tích tụ từ sách vở cùng với hồn thơ để thành những bước đi lãng
mạn vượt qua những khô khan câu thúc. Là một triết gia, cái nhận
thức để thành những trang giấy cũng có chút thi ca bồng bềnh vào
để thành một triết gia thi sĩ. Cái chất lãng tử trong văn chương
là một nét thấy rõ. Phạm Công Thiện viết :
“… tất cả đời sống văn xuôi tẻ nhạt, những công thức, những
danh vọng, những khuôn mòn lối cũ, những địa vị xã hội, những
mẫu mực khuôn xếp đã thụt lùi ra đằng sau, chỉ còn lại nước chảy
của dòng sông và mây chiều của đại dương: mây ở trên cao trôi
dưới dòng nước rong rêu của khe biển nhỏ. Thi nhân từ bỏ tất cả
lại đằng sau lưng và bước tới trước băng qua cây cầu gỗ mong
manh…”
Viết về thơ Seamus Heaney, nhưng trong dòng chữ có cảm khái
riêng của một người mà thi ca đã thành máu xương da thịt cho đời
sống. Viết những cuốn sách triết học giữa hồn thơ lai láng, cũng
giống như viết những trang tùy bút mà chữ nghĩa đã thành những
trân trọng nâng niu nhất. Cầm cây bút trong trạng thái tuy phong
trần từng trải nhưng vẫn còn sót nét ngây thơ của một người tin
tưởng vào những điều nghĩ rằng cần phải tìm kiếm được bằng suy
tưởng. Với đời thường, ông sống như lạc lõng bất kể. Nhưng với
văn chương, ông là người tinh tế và có can đảm rủ bỏ tất cả để
đi lại những bước khởi đầu.
Nhà thơ Nguyên Sa đã có bài thơ vẽ lại chân dung của một nhà thơ
tiêu biểu cho một phong cách sống đặc biệt của một người cũng
đặc biệt trong một thời kỳ văn học mà sự khao khát những phương
trời mới những vóc dáng mới đã thành động lực mạnh mẽ cho sáng
tạo. Bài thơ “Nói chuyện phải quấy với Phạm Công Thiện:
“Người vào tịnh thất sống ba năm
cất tiếng không lời để nói năng
buổi sáng thinh không chiều tới chậm
tiền kiếp chen vô cạnh chỗ nằm
Ta muốn cùng người một tối nay
Đầu sông uống rượu cuối sông say
Người từ trên núi ta từ biển
Từ giấc mơ nào đã tới đây
Dưới bóng tường im, giữa nhạc không
Đời như phía trước bỗng mông lung
Thơ như hữu thể mà vô thể
Có cũng xong mà không cũng xong
Sáng dậy ta nhìn tục lụy ta
Những đi không tới đến không ngờ
Xóa luôn thì dứt nhưng tâm thức
Kinh Pháp Hoa nào dậy cách xa?
Trong chín ngàn âm có hải triều
Còn thêm một kiếp nữa phiêu lưu
Này người bỏ sóng sang thuyền tĩnh
Nhớ đứng chờ ta ở cõi siêu…”
Nhưng không phải tất cả thơ ông chỉ chuyên chở ý tưởng. Mà, còn
chuyên chở cảm giác nữa. Thơ để mang tới những giây phút linh
hiện, để người đọc thơ và làm thơ một giây phút tình cờ nào đó
gặp nhau trong giao thoa cảm xúc. Có một bài thơ trong tập thơ
mỏng về số trang nhưng dầy về ý tưởng, Ngày sanh của rắn, VIII,
có những hình ảnh nối liền nhau để thành một chuỗi sinh động
liên tưởng luôn biến dịch. Gió, như một cuộc hành trình đi qua
đồi tây, đồi đông, đi qua những chặng thời gian tưởng ngắn như
một sát na nhưng dài vô tận. Thế mà, trong cái lãng đãng tâm
thức ấy, ngôn ngữ nhẹ nhàng như một hồi tưởng để níu kéo cảm
nhận của người đọc trong một cảnh giới mơ hồ :
“Mười năm qua gió thổi đồi tây
tôi long đong theo bóng chim gầy
một sớm em về ru giấc ngủ
bông trời bay trắng cả rừng cây
Gió thổi đồi tây hay đồi đông
Hiu hắt quê hương bến cỏ bồng
Trong mơ em vẫn còn bên cửa
Tôi đứng trên đồi mây trổ bông
Gió thổi đồi thu qua đồi thông
Mưa hạ ly hương nước ngược dòng
Tôi đau trong tiếng gà xơ xác
Một sớm bông hồng nở cửa đông”
Với suy nghĩ của tôi, Phạm công Thiện là một thi sĩ nghệ sĩ.
Klhông phải là cung cách một phù thủy chữ nghĩa hoa tay bùa chú
vào hư vô để thành một văn phong khúc mắc khó hiểu. Mà, là một
người ôm tất cả những rộng khắp vào lòng và đi vòng quanh để tìm
chân lý. Cái tâm thức vốn tịch lặng của một người thâm cứu Phật
Giáo pha trộn vào ý thức muốn nổi loạn phá bỏ cung cách cũ khiến
văn chương trở thành một hành trình của một người luôn xông tới
đằng trước và không dừng lại. Trong đời sống, phong cách du tử,
làm những điều mình thích khiến ông thành một người luôn thấy
đêm ngày là hoang vu...
Trần Tuấn Kiệt trong một bài viết trong “Tác Giả Tác Phẩm“, xuất
bản cách nay gần bốn chục năm, cũng nói về chân dung người thi
sĩ rất mực nghệ sĩ này:
“Sinh ngày 1-6-1941 tại Mỹ Tho. Trong gia đình, Thiện là người
anh cả “Người anh không giúp ích gì được cho gia đình, nhìn thấy
mọi người cha mẹ em út đang lâm vào cảnh sa sút túng bấn. Mà
mình thì lận đận lao đao chẳng giúp ích được gì.”
Đó cũng là một lý do, khiến có lúc Thiện bỏ đi tu ngoài Nha
Trang. Thiện đã có lần cùng chúng tôi đem bán từng va ly “Anh
Ngữ Tinh Âm” của anh soạn để lấy tiền ăn bánh mì trong những lúc
đói rách nhất. Mặc dầu lúc đó báo Phổ thông và Dân ta của Nguyễn
Vỹ bán chạy, lương của Thiện trên mười lăm ngàn (bằng khoảng
150 ngàn đồng bây giờ mỗi tháng) tiền lãnh ra, Thiện đem uống
rượu say rồi gọi tất cả đám trẻ nít đánh giày, các bọn bán báo
nghèo đói lại phân phát tất cả cho chúng trong một khắc đã hết
sạch. Qua ngày hôm sau, kiếm lại vài chục uống cà phê là sự
thường…”
Có người cho ông là thần đồng, soạn “Anh Ngữ Tinh Âm“ lúc 16
tuổi. Có người cho ông là một triết gia, tư tưởng gia luôn luôn
vật vã với suy tư. Có người cho ông có hiểu biết rộng, thông
hiểu nhiều ngoại ngữ. Có người cho ông là một người đọc sách
chuyên cần với óc thông minh và nhớ lâu không quên. Cũng như có
người gọi ông là lãng tử, là một người thích gì làm nấy và luôn
miệt mài trên con đường độc hành tìm kiếm những điều bất khả
trong cuiộc sống…
Với tôi, ông là một thi sĩ và là người viết về thi ca mà tôi yêu
thích. Dù, ông “đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất” để tìm
“ý thức mới trong văn nghệ và triết học“ qua “hố thẳm của tư
tưởng“ để “im lặng hố thẳm“ và, cứ thế hành trình…
|