Ngày … Tháng …
Tháng bảy năm nay dường như trời ít nóng hơn mọi năm. Cái khí
hậu có vẻ bất thường ấy không biết có phải vì bầu khí quyển bị ô
nhiễm hay không hoặc là những điềm lạ báo hiệu một tương lai nào
đó cho nhân loại? Thời tiết bây giờ có vẻ còn vương vấn của mùa
xuân và mùa hạ đến ngập ngừng với vài ngày nóng e dè khác hẳn
với cái khí hậu hừng hực nhiệt độ của các năm trước.
Buổi trưa, nhìn lên bầu trời xanh ngắt lại nhớ đến buổi trưa
thuở nào lúc còn bé. Những bài học thuộc lòng giở trên cánh
võng. Những câu thơ một thời khi còn học tiểu học. Cuốn sách
“Tân Quốc Văn“ ấp trên ngực. Những câu thơ đến bây giờ gần năm
chục năm sau còn nhớ.
Tôi, trong buổi trưa xứ người hôm nay, đọc, để thấy lòng cũng
rung động theo từng cảm xúc. Đọc, để thấy mình yêu một thời đã
qua, khi còn bé di cư vào nam học lớp nhì, lớp nhất. Từ khi là
cậu bé con, cũng đã biết căm thù quân cướp nước và kính trọng
các anh hùng liệt sĩ hy sinh vì nước.
”…Gió
căm hờn rền rỉ tiếng gào than
Từ khung trời sương trắng phủ màn tang
Ánh mờ nhạt của bình minh rắc nhẹ
Trên Yên Báy âu sầu và lặng lẽ
Giữa mấy hàng gươm súng tỏa hào quang
Mười ba người liệt sĩ Việt hiên ngang
Thong thả tiến đến trước đài Danh Dự
Trong quần chúng đứng cúi đầu ủ rũ
Vài cụ già tóc bạc lệ tàn rơi
Ngất người sau tiếng rú ới con ơi
Nét u buồn chợt mơ màng thoáng gợn
Trên khóe mắt đã từng khinh đau đớn
Của những trang anh kiệt sắp lìa đời
Nhưng chỉ trong giây lát vẻ tươi cười
Lại xuất hiện trên mặt người quắc thước
Đã là kẻ hiến thân đền nợ nước
Tình thân yêu quyến thuộc phải xem thường
Éo Le
thay! Muốn phụng sự quê hương
Phải dẫm nát bao lòng mình quí mến
Nhưng này đây, phút thiêng liêng đã đến
Sau cái nhìn chào non nước bi ai
Họ thản nhiên lần lượt bước lên đài
Và dõng dạc buông tiếng hô hùng dũng
“Việt Nam muôn năm”. Một đầu rơi rụng
“Việt Nam muôn năm!” Người kế tiến lên
Và tử thần kính cẩn đứng ghi tên
Những liệt sĩ vào bia người tuẫn quốc …”
Nhà thơ Đằng Phương (tức giáo sư Nguyễn Ngọc Huy) đã viết cho
dân tộc và cho tuổi thơ chúng tôi những vần thơ đi vào tim óc để
thành những lời trong tâm khảm một đời. Hơn mười tuổi đầu mà đã
nghe rưng rưng trong tâm những cảm xúc. Bài thơ viết về ngày 17
tháng 6 năm 1930, khi thực dân Pháp xử chém 13 liệt sĩ Việt Nam
Quốc Dân Đảng sau cuộc khởi nghĩa võ trang trên toàn quốc thất
bại. Bọn thực dân tưởng rằng với chính sách khủng bố như ném bom
triệt hạ làng Cổ Am hay xử chém các lãnh tụ VNQDĐ sẽ làm tan rã
ý chí đối kháng cũng như tinh thần yêu nước của dân tộc Việt.
Nhưng ngược lại, chính những sự kiện ấy đã hun đúc một tinh thần
của truyền thống hào hùng dân tộc.
Đảng trưởng
Nguyễn Thái Học |
VNQDĐ từ khi thành lập đã có chủ trương rất rõ ràng: chống thực
dân Pháp, đòi độc lập tự do cho đất nước bằng biện pháp quân sự.
Chiều 30 tết năm Mậu thìn (ngày 9 tháng 2 năm 1929) ba đảng viên
Nguyễn Văn Viên, Nguyễn Văn Lân và Nguyễn Đức Lung đã ám sát tên
trùm thực dân là cò Bazin tại phố chợ Hôm Hà Nội đã làm rúng
động cả nước và sau đó là những đợt truy lung trả thù khốc liệt
của thực dân Pháp.
Ngày 10 tháng 2 năm 1930, VNQDĐ tổng khởi nghĩa, đồng loạt tấn
công các đồn binh của Pháp tại Yên Bái, Lâm Thao, Hưng Hóa, cảm
tử ném bom tại Hà Nội, tấn công quân Pháp trên cầu Long biên,
đánh Đáp Cầu, Phả Lại, Phụ Dực, Vĩnh Bảo, Kiến An, xử tử tên tri
huyện Vĩnh Bảo Hoàng Gia Mô là cháu Hoàng Cao Khải, và là một
sâu dân mọt nước tay sai đắc lực của thực dân.
Tổng khởi nghĩa bị thất bại vì tương quan lực lượng quá chênh
lệch. Ngày 20 tháng 2 năm 1930, đảng trưởng Nguyễn Thái Học bị
bắt tại làng Cổ Vịt. Và ngày 17 tháng 6 năm 1930 ông và cùng 12
đồng chí khác bị lên đoạn đầu đài. Sau đó hơn 30 đảng viên khác
bị xử tử hình và hàng ngàn người bị tù khổ sai lưu đầy biệt xứ.
Cô Giang tức Nguyễn thị Giang, người yêu của đảng trưởng Nguyễn
Thái Học cũng tuẫn tiết theo.
Bài học lịch sử ấy đã được nhắc lại từ những câu thơ mà hồi nhỏ
tôi thuộc lòng. Hùng tráng quá và cao cả quá! Những anh hùng dân
tộc coi tính mạng mình như lông hồng và coi cái chết là chuyện
thường tình như câu nói của Nguyễn Thái Học đã nói với người
linh mục Tây Dương khi ông này đòi làm phép thánh cho ông :
“Chết vì Tổ Quốc cái chết vinh quang, lòng ta vui sướng, trí ta
nhẹ nhàng…”
Dòng tộc tôi có nhiều người là đảng viên Việt Quốc. Bố tôi
thường nhắc đến một thời kỳ bắt đầu chiến tranh và dù có một kẻ
thù chung là Pháp nhưng hai phe Quốc và Cộng đã có những mâu
thuẫn sâu sắc. Bố tôi lúc đó thường đến khu Ngũ Xã để lấy về đọc
tờ báo Việt Nam của các lực lượng Việt Quốc và Việt Cách mà thời
đó phải đọc giấu diếm vì sợ bị Việt Minh theo dõi và bắt bớ.
Dù đã có thời kỳ tham gia chính phủ liên hiệp nhưng sau Việt
Minh Cộng sản đã tấn công các lực lượng quốc gia và một số lãnh
tụ phải lưu vong sang Hoa Nam. Những người ở lại bị thủ tiêu,
giam cầm như nhà văn Khái Hưng chẳng hạn.
Nhất Linh
Nguyễn Tường Tam |
Trong số các người lưu vong có nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường
Tam. Ông bị lên án và tuyên truyền rằng đã ăn cắp một số tiền là
ba triệu đồng của ngân quỹ bộ ngoại giao và những vở kịch bôi
nhọ được trình diễn khắp nơi mà người đã xem vở kịch ấy là hai
anh em nhà văn Duy Lam và Thế Uyên đã kể lại trong các bài viết
nhiều lần.
Với tôi, tôi rất khoái cái tâm cảm làm cách mạng của Dũng trong
tiểu thuyết Đôi Bạn của Nhất Linh. Lãng mạn, đầy chất nghệ sĩ và
nhiều cá tính, có lẽ đó là nhân dáng dấn thân một thời của những
người chấp nhận gian nguy sương gió. Từ nhỏ tôi đã coi ông như
một thần tượng với những hào quang hơn người như dù nhà nghèo
nhưng học giỏi được du học bên Pháp hay là một nhà văn có lý
tưởng hoặc là một nhà cách mạng có tâm huyết. Học Việt Văn ở
trung học, hiểu biết đôi chút về văn học Việt Nam mà nổi bật là
Tự Lực Văn Đoàn, tôi đã đọc và đã học ở trung học nên chịu ảnh
hưởng khá nhiều trong suy nghĩ cũng như trong cuộc sống.
Năm 1963, khi cuộc tranh đấu chống lại chế độ của tổng thống Ngô
Đình Diệm của Phật Giáo lên đến độ cao nhất thì đúng ngày Song
thất kỷ niệm ngày chấp chánh của tổng thống Ngô Đình Diệm, ngày
7 tháng 7 năm 1963, nhà văn Nhất Linh tự tử vì không muốn bị tòa
án của chế độ kết án khi xử vụ đảo chính ngày 11 tháng 11 năm
1960 với tội trạng bị cáo buộc là có tham dự vào cuộc phản loạn.
Khi tự vẫn ông đã để lại một di chúc chính trị mà ý nghĩa của nó
vẫn còn ảnh hưởng đến tận cho những thế hệ sau:
”Đời tôi để lịch sử xử, tôi không chịu để ai xử cả. Sự bắt bớ
và xử tội tất cả các phần tử đối lập quốc gia là một tội nặng,
sẽ làm cho nước mất về tay Cộng sản.
Tôi chống đối sự đó và tự hủy mình, cũng như Hòa thượng Thích
Quảng Đức tự thiêu để cảnh cáo những người chà đạp lên mọi thứ
tự do.
Nhất Linh Nguyễn Tường Tam –7/7/1963.”
Cái chết của ông là một chấn động làm rung rinh cả chế độ Ngô
Đình Diệm cả trong dư luận trong nước và quốc tế. Sau Hòa thượng
Thích Quảng Đức tự thiêu đến nhà văn Nhất Linh tuẫn tiết, rồi
những cuộc biểu tình bãi khóa của sinh viên học sinh chống chế
độ dẫn đến cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963.
Lúc còn là học sinh, tôi cũng là một người tham gia biểu tình
bãi khóa và khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ đã tham gia lễ
tưởng niệm nhà văn Nhất Linh với sự kính trọng của một kẻ hậu
sinh. Tôi nhớ lại buổi lễ tưởng niệm ở sân vận động Tao Đàn vào
năm 1964. một cuộc lễ trang trọng mà không phải chỉ có đảng
VNQDĐ mà hầu như tất cả mọi người dân mà trong đó giới trẻ sinh
viên học sinh chiếm đa số.
Bây giờ nhìn lại tình hình chính trị thời ấy, tôi nghĩ rằng tổng
thống Ngô Đình Diệm đã có công gầy dựng được một chính quyền
vững vàng ở miền Nam nhưng chính cái lề lối cai trị độc đoán đàn
áp đối lập đã khiến nhiều người trước ủng hộ ông nay quay ra
chống đối. Và cộng thêm với sự Hoa kỳ muốn can thiệp sâu hơn vào
nội tình Việt Nam nên hai anh em tổng thống và cố vấn bị thảm
sát.
Nhà văn Duy Lam đã kể lại một chuyện khi nhà văn Nhất Linh thực
hiện giai phẩm Văn Hóa Ngày Nay thì số ra mắt đề ngày 17 tháng 6
năm 1958 là ngày kỷ niệm 13 liệt sĩ VNQDĐ lên đoạn đầu đài ở Yên
Bái. Thế mà Bộ Thông Tin bắt xóa hàng chữ để ngày tháng nói trên
viện cớ Văn Hóa Ngày Nay là một giai phẩm không định kỳ nên
không có quyền để ngày tháng. Và như thế số ra mắt của giai phẩm
Văn Hóa Ngày Nay do Nhất Linh chủ trương có một hàng chữ bị bôi
đen trên bìa báo. Sự kiện ấy chứng tỏ sự trù dập kỳ thị của hệ
thống kiểm duyệt lúc đó…
Cái chết của một nhà văn, một nhà chính trị lớn đã ảnh hưởng
nhiều vào thời cuộc. Ngay sau đó và cho đến bây giờ, có nhiều
giả thuyết về cái chết của Nhà văn Nhất Linh. Có người cho rằng
cái chết ấy để cảnh tỉnh dân tộc và chế độ, là một phương cách
tranh đấu cho tự do dân chủ bất bạo động. Có người lại nêu lên
cái triết lý sống tuyệt hảo của nhà văn qua cái chết. Cũng như
có người đã coi ông là thần tượng về văn học đã đành mà còn là
thần tượng chính trị nữa.
Không những ở miền Nam mà cả ở miền Bắc cũng đề cập nhiều đến
cái chết của ông. Nhà thơ trào phúng Tú Mỡ, một thành viên của
tự Lực Văn Đoàn và là người thân cận với ông suốt một thời gian
dài thì cho rằng tâm thần của nhà văn Nhất Linh hay bị dao động
nhiều vì những biến cố chính trị trong đời và có lúc phải đi nhà
thương chữa bệnh tâm trí. Nhiều người ở miền Bắc cũng tán đồng
và nêu ra sự tự sát của ông là hệ quả tất yếu của một con người
không bình thường đã nhuốm sẵn tính bi quan trong cuộc sống. Sự
việc lờ đi không nhắc tới Tự lực Văn Đoàn trong văn học sử cũng
như nhận định một chiều để hạ giá trị những lãnh tụ quốc gia như
Nhất Linh là một điều rõ ràng trong thực tế.
Thời gian qua đi. Đến nay đã gần nửa thế kỷ, vẫn có nhiều nhận
định về con người văn hóa hoặc con người chính trị của nhà văn
Nhất Linh mà tiêu biểu nhất là về cái chết của ông. Thời gian
qua đi để có một khoảng cách làm những xúc cảm lắng đi và những
nhận định không bị ảnh hưởng vì thiên kiến. Tưởng như vậy, nhưng
vẫn có những nhận định trái ngược nhau mà căn bản là phát xuất
từ cảm quan khác nhau, vị trí quan sát khác nhau…
Gần đây nhất là ông Nguyễn Văn Lục đã viết về cái chết của nhà
văn Nhất Linh và cho rằng cái chết của ông là một cái chết định
sẵn gặp đúng thời điểm và hội tụ nhiều dữ kiện tương hợp tạo
thành chứ không phải là một cái chết mà nguyên do là phản ứng
của kẻ sĩ dùng sinh mạng mình để tranh đấu cho tự do dân chủ. Để
hỗ trợ cho lý luận của mình ông Lục đã mang những điều nhà văn
Nhất Linh viết cũng như lời các người thân thuộc với nhà văn để
kết luận rằng cái chết của ông là một cái chết định sẵn của một
người mang bệnh hoạn chứ không phải của một người bình thường
sáng suốt dùng cái chết để cảnh tỉnh chế độ…
Xem Vũ Cầm :
Mưu tính đưa Nhất Linh vào nhà thương điên
Tôi đọc tất cả những bài báo viết về đề tài kể trên và mặc dù đã
gần nửa thế kỷ qua, mà tấm lòng của một kẻ hậu sinh như tôi vẫn
y nguyên sự thán phục về con người và nhân cách của văn hào Nhất
Linh. Dù là một người làm chính trị nhiều thất bại nhưng cho đến
khi cuối đời ông vẫn chưa bày tỏ sự đầu hàng cho dù là cả trong
cái chết của mình. Viết chúc thư chính trị, và muốn nó được phổ
biến tới công luận cả thế giới không phải là một việc làm trong
sự rối loạn thần kinh được. Cũng như, ông cũng hiểu được câu nói
của đảng trưởng Nguyễn Thái Học “không thành công thì thành
nhân” và chính cái câu “Đời tôi để lịch sử xử“ đã thành lời nói
của một vóc dáng nhân cách lớn.
Tôi suy nghĩ về cái chết của nhà văn Nhất Linh và tự hỏi liệu cứ
căn cứ vào những tiểu thuyết của ông viết về cái chết hoặc những
nhân vật như Trương trong Bướm Trắng hoặc những câu văn mà ông
viết trong bản chúc thư văn học năm 1953 để xác dịnh căn nguyên
cái chết của ông được không? Nếu nói ông xử dụng cái chết của
mình để thành một phương tiện tranh đấu liệu có chính xác không.
Và, bao nhiêu người từ trước đến nay đã tưởng nhớ đã viết bài
tưởng niệm có phải là việc làm theo thời với lý do cá nhân
không? Hỏi, nhưng hình như câu trả lời đã có sẵn.
Ông Nguyễn Văn Lục đề cập tới những bài viết tưởng niệm những
người đã mất : “loại văn chương ai điếu, thứ văn chương mà hễ có
nhân vật nổi danh nào nằm xuống là phải có sẵn một bài tụng niệm
sáo ngữ, để nhập cái chết của ông vào cuộc tranh đấu của Phật
giáo chống chính quyền Ngô Đình Diệm... Đó chỉ là thứ kèn trống
đám ma, nói thì nghe xôn xao rộn rã nhưng không biết mình nói
gì, viết gì!!…
Thật ra, không phải tất cả các bài viết tưởng niệm đều là rỗng
tuếch sáo ngữ. Trong đám tang của nhà văn Nhất Linh đã có những
người trong sự đe dọa bị giam cầm bắt bớ của mật vụ vẫn thốt lên
những lời khẳng khái nói rõ quan điểm chính trị và văn học của
mình. Như nhà văn Nhật Tiến đã đọc lời ai điếu cho một thần
tượng mà ông quý mến bất chấp đe dọa của chế độ :
”… Trọn một đời gian khổ, không ngại khó khăn, không màng
danh vọng văn hào đã tận tụy hy sinh từ bỏ mọi quyền lợi riêng
để tranh đấu cho lý tưởng tự do cho cuộc sống hạnh phúc của dân
tộc.
Văn hào đã hoàn thành sứ mạng của người cầm bút. Văn hào đã nêu
cao sĩ khí bất khuất của truyền thống những nhà văn chân chính.
Cái chết của văn hào sẽ, mãi mãi là bó đuốc soi sáng con đường
tăm tối của chúng tôi đang đi, là niềm khích lệ lớn lao cho
những nỗi khổ nhục mà chúng tôi sẽ gặp gỡ, là một tấm gương sáng
láng mà mãi mãi những kẻ cầm bút đi sau như chúng tôi phải soi
vào để suy ngẫm…”
Riêng tôi khi nhìn vào những công việc về văn hóa và chính trị
của cả cuộc đời ông đã có nhận thức rằng đây là một con người
thật nhiều nét lý tưởng. Ông có nét lãng mạn của một nghệ sĩ
nhưng cũng có nét của một chiến sĩ. Nếu đừng nghĩ thành bại luận
anh hùng, nếu cứ trong suy xét của một người Việt yêu nước, thì
một cậu bé con nhà dân giả thanh bạch, đã cố gắng để được du học
để thu góp kiến thức ở xứ người, đã theo đuổi một con đường văn
học đầy nét sáng tạo, đã hoạt động chính trị đến lúc cuối đời,
và cả đến cái chết cũng là một vận dụng tranh đấu tuyệt hảo. Nếu
nói cái chết của ông là một cái chết của người bệnh tâm thần thì
không hiểu những dữ kiện mà những
người thân thuộc viết về tâm cảm cũng như đời sống của ông hoặc
những câu văn trong Chúc thư văn học có đủ sức thuyết phục không
để kết luận rằng cái chết của ông đã được định sẵn vì những suy
sụp tinh thần?
Mượn lời nhà thơ Đông Hồ Lâm Tấn Phác, đôi câu đối viếng hương
hồn văn hào Nhất Linh :
“Một thời còn nức thanh danh, nền xã hội canh tân sắp sẵn,
trào lưu khơi rộng ngõ tâm tình; trước rồi sau Phong Hóa, Ngày
Nay, đoàn Tự Lực gây nên bút tài hoa lỗi lạc, mũi thép sắc ngòi,
làng báo đàn văn tay lãnh tụ.
Nấm đất không chôn sự nghiệp, tòa cường quyền án chuyên chế đừng
tuyên, xét công tội để cho phần lịch sử, khinh với trọng lòng
non Thái, nghĩa thành nhân chọn lấy, tiệc chánh khí huy hoàng,
rượu đời cạn chén, đường mây nẻo gió bước thung dung.”
Tháng bảy xứ người. Từ những câu thơ Đằng Phương về ngày tang
Yên Bái đến phút giây suy nghĩ về ngày tuẫn tiết của một nhà
văn, tôi thấy mình như một người hành hương về chân trời cũ, về
nơi chốn cũ xưa. Từ thuở là một cậu học sinh trung học nhìn đời
thật lý tưởng, coi mọi sự đơn giản đen trắng phân minh đến lúc
bước vào đời, gặp bao nhiêu chuyện thật giả khó phân minh, tôi
vẫn đinh ninh một điều là hãy nhìn vào cái đẹp để nâng niu còn
hơn là dày vò nó khi cầm cây bút viết lên những hàng chữ. Dĩ
nhiên, đó chỉ là của cá nhân tôi. Dù rằng cái đẹp với muôn người
bao giờ cũng sẽ thành muôn năm miên viễn…
Ngày
… Tháng …
Nhà văn Micheal McGaha đã viết trong San Francisco ChronicLê :
”Bạn có thể chưa bao giờ nghe đến tên
Nam Lê nhưng với ấn bản của tuyển tập truyện ngắn đầu tiên “The
Boat” bạn có thể trông đợi sẽ nghe nói nhiều hơn về bút danh này
trong tương lai. Nam Lê sinh trưởng ở Việt Nam, lớn lên ở xứ Úc
và đã làm công việc luật sư trong một tổ hợp luật trước khi qua
Hoa Kỳ để học lớp viết văn của trường đại học Iowa... Chưa tới
30 tuổi, anh đã hoàn tất một cách thật đặc biệt và cũng thật đầy
năng lực chương trình học để đào tạo thành một nhà văn…”
Hiếm có một nhà văn nào, dù là người bản xứ viết bằng ngôn ngữ
mẹ đẻ trong tác phẩm đầu tiên, được sự đón nhận của giới phê
bình văn học trên thế giới như thế. The Boat là một tuyển tập
240 trang do nhà xuất bản Knopf gồm 7 truyện ngắn được coi như
là một tác phẩm tuyệt hảo của năm 2008. Là người đoạt giải
thưởng Pushcat Prize. Nam Lê đã tập trung vào những chủ đề như
sự dời đổi của cuộc sống con người, những hiểm nguy cũng như cái
giá phải trả của cuộc sống trong những xoay chuyển của thời thế.
7 truyện ngắn là bảy đề tài khác nhau, thời gian khác nhau, tính
chất khác nhau và môi trường địa lý cũng khác nhau. Những nhân
vật ấy sống ở Hoa Kỳ, Úc, Colombia, Iran và Việt Nam có những
nền văn hóa khác nhau. những cuộc sống khác nhau và tâm tư cũng
khác nhau biểu lộ những mẫu nhân vật không thể trộn lẫn và cũng
thật khó nhòa phai trong tâm tư người đọc.
Nam Lê có lối viết tả tình, tả cảnh sinh động. Những phong cảnh
cũng như những nhân dáng được lột tả đẹp và có nhiều chất lãng
mạn thơ mộng. Nhưng, trong những truyện ngắn ấy chứa đựng nhiều
biến cố, nhiều dữ kiện bất ngờ và nhiều khi đẫm chất dục tình
hoặc bạo lực.
Truyện ngắn cuối được chọn làm nhan đề cho tuyển tập “The Boat”
là một truyện ngắn viết về thuyền nhân. Nhân vật chính là Quyên
mang theo đứa con tên Trương vượt biển tìm tự do. Trương là đứa
con của Quyên với người cha không thừa nhận nên vì sợ điều tiếng
xầm xì nên gửi thân nhân nuôi nấng con. Do đó, tình mẹ con có
một chút gì nhạt nhẽo một chút gì lấn cấn. Quyên thì trong cuộc
hải hành cứ mải suy nghĩ về sự liên hệ lỏng lẻo giữa mẹ và con
trong khi Trương thì cứ suy nghĩ và tưởng tượng ra người cha
vắng mặt với những điệu hát câu ru buồn thảm. Trong thuyền,
Trương có vẻ thân với Mai một cô gái đi chung chuyến tàu. Khi
Trương bị bệnh nặng, Nó thấy trên tàu vắng dần đi vì những người
bị chết vì đói, vì khát, vì nắng bỏng cháy da, vì kiệt sức bởi
ói mửa. Những người chết bị thủy táng, thân thể vứt xuống biển
và làm mồi cho bầy cá mập lởn vởn bơi quanh. Trong cái không khí
hãi hùng chờ chết ấy, người mẹ trẻ là Quyên cũng nghĩ đến lúc
phải thủy táng đứa con vào lòng biển. Cuộc hải trình 13 ngày
trên biển và những thuyền nhân khốn khổ gần như hầu hết bị kiệt
sức khi đến đất liền.
Cái bi thảm không phải chỉ có trong The Boat mà còn ở trong 5
câu chuyện khác, từ cậu bé 14 tuổi người Colombia đến người họa
sĩ trưởng thành và đau khổ ở NewYork, trong cô bé trong tuổi
teen-age ở Úc, trong cô bé gái Nhật Bản 8 tuổi ở Hiroshima vào
tháng 8 năm 1945 và trong người luật sư Hoa Kỳ đi thăm người bạn
Iran ở Tehran. Những mức độ của tính chất cá biệt ít thông dụng
mấy nhưng những điều đáng lưu ý và là bản chất thực của những
truyện ngắn là ngôn ngữ và mức vang vọng ở mức tuyệt hảo ở từng
truyện. Tác giả đã dùng những tiếng lóng của băng đảng Colombia,
những thành ngữ ca dao của Việt Nam hay những ngôn từ biểu
dương lòng ái quốc của Nhật Bản trong thời kỳ chiến tranh, tùy
mỗi trường hợp để làm nổi bật cá tính. Bảy truyện ngắn là bảy
văn phong, bảy ngôn ngữ khác nhau, bảy không khí truyện khác
nhau đã làm người đọc khó tưởng tượng được rằng một tác giả mà
viết được những truyện ngắn khác biệt và phong phú như vậy. Cái
tính chất chung của truyện ngắn Nam Lê là biểu tượng được sức
sống của lòng kiên nhẫn ngoi lên từ những nghịch cảnh và trong
cái sâu thẳm đầy ắp tính nhân bản ấy, ngầm chứa những mối quan
hệ của người trẻ với người già, đối chiếu giữa đạo đức và vô đạo
đức, cũng như phân định giữa cái còn và cái mất của mỗi đời
người trong một môi trường sống và một nền văn hóa khác nhau.
Micheal Gaha đã so sánh giữa William Faulkner và Nam Lê khi mà
tiếng nói của họ không những là ghi nhận từ những nét nhân bản
của con người mà còn giúp được chúng ta chịu đựng và kiên nhẫn
trước những thảm nạn của cuộc sống. Nam Lê có tầm nhìn hướng về
phía trước, của những tương lai hứa hẹn cho nên những thảm trạng
đã thành quá khứ để một lúc nào đó chuyển biến thành kinh nghiệm
để có sự vững vàng của hành trang bước vào đời.
Truyện ngắn đầu tiên của tuyển tập có nhan đề khá dài ”Love and
honour and pity and pride and compassion and sacrifice”. Bà
Michiko Kakutani, một phê bình gia nồng cốt của mục điểm sách
của The Newyork Times đã nhận xét đây là một truyện ngắn hay
nhất của tập truyện này. Nhân vật chính trong truyện là một
người có nhiều nét giống với tác giả, cũng tên Nam, cũng hành
nghề luật sư ở Úc trước khi qua Mỹ để học trong lớp dạy viết văn
tại đại học Iowa trong một học trình tương đương với những lớp
cao học. Anh tuy đang học viết văn nhưng lại bị bế tắc khi sáng
tác dù đã cố gắng thay đổi nhiều phương cách, tỉ dụ như thay vì
dùng máy computer thì lại dùng máy chữ bởi vì viết bằng máy
computer có thể sửa chữa được nên không có sự chú tâm còn viết
với máy đánh chữ thì không thể bôi xóa sửa chữa nên dễ dàng để
tập trung tâm lực hơn. Trong khi ngày thi gần kề Nam phải hoàn
tất một truyện ngắn có tính quyết định của khóa học trong vòng
ba ngày mà trang giấy còn trắng nguyên. Khi đang chấm bài cho
sinh viên thì lại nhận được tin cha anh sẽ đến thăm anh trong
hoàn cảnh anh không muốn biết cha anh biết mình có người yêu là
cô gái người bản xứ da trắng tóc vàng.
Nam không muốn viết về đề tài chủng tộc và những xung đột văn
hóa vì anh cho rằng chỉ cần nửa trang giấy với vài ẩn dụ cũng
như vài nét đặc thù văn hóa là có thể dễ dàng viết thành một
truyện như vậy. Anh bế tắc đề tài và sau phải xoay về quá khứ
với cuộc đời của người cha mà có lần anh nghe kể lại rằng ông là
người sống sót trong thảm nạn ở Mỹ Lai nhờ nằm dưới thân hình
của vợ ông che chở. Ông cũng là một sĩ quan của quân đội miền
Nam và đã bị ba năm tù cải tạo sau vượt biển đến Úc định cư.
Ông thực tình không muốn con mình theo nghề viết văn và đôi khi
đọc những truyện ngắn của Nam về thuyền nhân mặc dù đươc bạn bè
và những người chung quanh khen tặng nhưng ông vẫn phê bình là
chưa phải là truyện hay bởi vì vẫn chưa lột tả được sự thật.
Cha của Nam là một người bố nghiêm khắc có lần đã đánh đòn Nam
khiến anh bỏ nhà đến sống với người bạn gái nghiện hút. Mẹ Nam
thương con lén chu cấp cho con, cha Nam biết được giận dữ cãi
lẩy và hai người ly thân. Mẹ Nam khuyên con trở về nhà và cha
của Nam cũng chấp nhận và hứa rằng không bao giờ nhắc đến chuyện
đã qua nữa. Vì thế tình cha con đã có nhiều rạn nứt.
Khi thăm con ở Iowa, hai cha con nói chuyện suốt đêm và với
những thu lượm ấy Nam hoàn tất truyện ngắn mà anh rất cần thiết
ngay sau khi người cha đi ngủ. Anh hoàn thành truyện ngắn khi
trời gần sáng và ngủ thiếp
đi. Sáng dậy Nam không thấy người cha
và bản thảo truyện ngắn vừa viết xong cũng biến mất. Anh đi kiếm
và khi gặp người cha thì ông đã mang bản thảo truyện ngắn ấy vào
thùng đốt lửa để sưởi của một ông già homeless.
Nam quá tức giận vì người cha đã phá hủy một truyện ngắn cực kỳ
quan trọng như vậy. Anh đã nói với cha rằng ước gì ông đừng đến
thăm và ông không phải là cha của anh…
Sự thâm trầm trong cách diễn tả đã phác họa được chân dung người
cha, đã trải qua những giây phút sống sót khi nằm dưới sự che
chở của thân thể người vợ dưới làn đạn bắn như mưa và cũng đã
qua trại tù Cộng sản, đã qua những ngày vượt biên sóng gió nên
ông muốn cuộc đời còn lại phải có ý nghĩa và thực hiện được
những việc đáng kể để không uổng phí những kinh nghiệm đắt giá
của cuộc sống. Vì thế ông nghiêm khắc
với con và bắt Nam vào khuôn khổ để hoàn thành những ý nguyện
của ông. Nhưng Nam lại ở một thế hệ khác, có môi trường sống
khác mà tự do cá nhân được tôn trọng. Thành ra giữa cha và con
có sự xung đột, mà chính là sự xung đột của hai nền văn hóa, hai
đời sống khác nhau. Sự phá hủy bản thảo của người cha có biểu
tượng gì trong dụng tâm của Nam Lê? Có phải là một hành động đốt
bỏ đi một quá khứ? Hay là để khởi đầu cho một hứa hẹn đúng nghĩa
về sau? Dù sao, đó cũng là một bất ngờ cho độc giả…
Trong tạp chí Luna Park số mùa xuân năm 2008, Nam Lê đã nói một
phần về con đường viết văn của mình khi được hỏi : Anh đã phác
họa đầu tiên như thế nào để viết tiểu thuyết một cách chuyên
nghiệp? Nói khác hơn, anh có thể giải thích một cách ngắn gọn
tại sao anh lại chuyển từ công việc của một luật sư để áp dụng
(và ở cái nhiều hơn những gì hấp thụ được) vào chương trình học
của Iowa Writers’ Workshop -rồi xuất hiện trong văn chương đại
loại như trong các tạp chí văn học như Zoetrope, A Public Space,
Harward Review và One Story? Điều ấy dường như làm anh đã đi xa
hơn từ vị trí của một người đi lang thang- là người đọc mới theo
dõi những gì anh viết tôi đã ngạc nhiên rằng anh có thời giờ để
vào giường ngủ không?
Và Nam Lê trả lời :
“Tôi tuyệt nhiên không nghĩ là mình sẽ viết tiểu thuyết một
cách chuyên nghiệp. Tôi luôn luôn chỉ muốn làm người viết, và
khởi từ ít năm gần đây, tôi đã chú tâm về thi ca. Tôi bắt đầu
viết một cách thật “nghiêm chỉnh” tiểu thuyết (một danh xưng đã
được áp dung để chỉ một giới hạn làm việc) trong một năm lơ đễnh
thành thiếu sót trong lãnh vực luật. Tôi độ chừng rằng ông có
thể nói tôi đã phác họa, trong thời điểm ấy, để thổi một mộng
ước là trở thành một nhà văn chuyên nghiệp.
Iowa đến như một may mắn cho tôi và xuất hiện trong đúng thời
điểm. Gần đây tôi vừa hoàn tất một bài viết và khi đọc trong mục
điểm sách của John Murray ”A few short notes on tropical
butterflies” thấy một đoạn tin ngắn về chương trình này. Đó là
vào năm 2003. Tôi tìm hiểu, gửi một chương của tiểu thuyết đang
dở dang rồi được khuyến khích hoàn tất nó, và kết cuộc thật tốt
và tôi đã đạt được nhiều cái tôi có như hiện nay...”
Khi có câu hỏi Nam Lê về một truyện ngắn “Meeting Elise” (truyện
về người cha và đứa con gái từ nỗi hối hận về sự ruồng bỏ cũng
như lối suy nghĩ loay hoay theo lối riêng minh của người cha về
đứa con) đại khái là những ý tưởng khi bắt đầu viết thì anh đã
trả lời về phương cách viết của mình :
“Tôi phỏng chừng từ những phương pháp mà mình thu lượm được
hơn là những công thức mà tôi thường dùng. Tôi tự hỏi thế nào là
những nỗi đau đớn nhất mà một người nào đó cảm thấy (hình dung
khi tôi đã nhảy qua được từ điểm có thể thu hẹp đến tối thiểu
khoảng cách tôi tự biến mình thành độc giả với sự tác động để
lôi cuốn). Như tôi nghĩ về nỗi buồn của cha mẹ khi bị mất đứa
con. Rồi tôi nghĩ ngược lại nếu đứa con còn sống thì sẽ ra sao?
Phương cách ấy sẽ không thay đổi và tiếp tục khai triển về nỗi
đau đớn. Rồi tôi lại nghĩ điều gì sẽ xảy ra khi tôi tạo ra trên
giấy một anh chàng nào đó không cảm xúc trơ trơ trước nỗi đau và
có phải là tôi đã cố gắng để làm phức tạp hơn để ảnh hưởng tới
sự theo dõi của độc giả. Những suy nghĩ ấy đã làm thay đổi hình
ảnh cuối cùng người cha nhìn đứa con gái đang trên sân khấu dần
xa -đang nhảy múa hoặc có thể trong màn trình diễn- và trong
giây phút cảm nhận (một lần nữa khẳng định sự hiệu quả) tất cả
mọi chuyện và tôi đã nhảy được từ hình ảnh nhiều người thành
hiện thực một người”.
Đọc truyện của Nam Lê tôi thấy sự cố gắng một cách có suy nghĩ
để tìm những điều mới lạ trong văn chương anh. Từ những mẫu nhân
vật đến môi trường sống, từ suy nghĩ của con người từ những
không gian thời gian khác nhau nhưng cùng có một điểm chung là
mong mỏi khám phá được những góc cạnh sâu thẳm của nội tâm con
người. Ngay như những truyện viết về những thuyền nhân Việt Nam
hay từ những nhân vật có nhiều nét tương tự bản thân tác giả,
người đọc là tôi đã tìm được nhiều nét mà các tác giả khai thác
chung một đề tài chưa đề cập tới. Chưa hẳn là phức tạp, chưa hẳn
là cảm giác chung chung, mà chính là sự tìm kiếm để tạo thành
những bất ngờ và những tầm nhìn khá độc đáo. Làm thuyền nhân, dĩ
nhiên là đối diện với nguy hiểm, với đói khát, với bệnh tật,
nhưng ngoài những điều đó, còn những gì khác? Có phải là từ
những mảnh đời khác nhau, từ những suy cảm khác nhau để nói lên
một điều gì đó không phải là lời đồng ca đã bị thành nhàm chán?
Hoặc là như nhân vật người cha, là nạn nhân sống sót của một
cuộc tàn sát, là một người tù cải tạo, là một người mong mỏi làm
được một việc gì đó cho đời nhưng vô vọng, nhân vật ấy có nhiều
trong đời thường. Nhưng chỉ thế thôi thì đã thành quen thuộc nên
hành động đốt bản thảo của đứa con đã tạo cho độc giả nhiều liên
tưởng. Tại sao? Có phải vì muốn đoạn tuyệt quá khứ? Hay cho rằng
chữ nghĩa cũng chưa đủ để chuyên chở nỗi đau? Hoặc là biểu hiện
cho sự xung khác giữa người cũ và người mới, giữa quá khứ và
hiện tại?
Nhà phê bình Michiko Kakutani đã viết về Nam Lê và tác phẩm The
Boat:
”Không những anh viết với một cách thế có thẩm quyền từ những
phát biểu đầy tự tín rất hiếm thấy mà ngay cả chính những người
cầm bút lâu năm vẫn chưa có được, anh còn thể hiện tài năng khi
phác họa hiện thực được những xung đột nội tâm của những người
khi họ chứng kiến mộng ước hoặc nguyện vọng của mình bị chà đạp
bởi những ràng buộc của gia đình hay từ sức mạnh lôi theo của
vòng quay lịch sử tàn khốc”.
Và, viết nhận xét như vậy không phải là quá lời, dù Nam Lê mới
bước vào văn nghiệp! Không phải chỉ riêng có Michiko Kakutani
nhận xét như vậy mà còn có nhiều cây bút cự phách khác của The
New York Times như Patrica Cohen hay John Freeman của Charleston
City Paper... cũng hết lời khen tặng. Người viết vừa đoạt giải
Pulitzer là Junot Diaz cũng nhận xét rằng The Boat là một tác
phẩm phi thường hiếm có.
Nam Lê rất còn trẻ, tên thật là
Lê Hữu Phục Nam sinh năm 1979 và
khi ba tháng tuổi đã được mẹ bồng đi để vượt biên, đến định cư
tại Úc. Dù với căn cước lý lịch của người Việt tị nạn nhưng Nam
Lê có tham vọng muốn trở thành một nhà văn khai phá đa dạng.
Những truyện ngắn của anh có khuynh hướng muốn trải rộng ra
những môi trường sống, muốn tìm kiếm trong những nền văn hóa
khác nhau chân dung của con người muôn thuở. Xem ra, anh chỉ
trong bước khởi đầu nhưng từ tác phẩm đầu tiên đã là những bước
đi vững chắc khá ngoạn mục.
Ngày … Tháng…
Có bài thơ, được viết như một kỷ niệm. Bài thơ đánh dấu 19 năm
cuộc đời chồng vợ. Có một bài thơ gửi em, với trái tim còn chưa
nguôi cảm xúc. Ngày 1 tháng 7, ngày của chúng mình…
Gửi nhau. Chiếc nhẫn trao tay
Mười chín năm, tưởng phút giây một đời
Yêu ai nắng núi mưa đồi
Về vô tận đợt sóng dồi quẩn quanh
Vườn ai nụ ớt mầm chanh
Tưởng như quê cũ đã gần chốn đây.
Ngõ xưa con én họp bầy
Sông xa vờn mặt nước đầy mông mênh
Chung nhau, đỉnh thác ngọn ghềnh
Tình sông nghĩa biển
đinh ninh cuối đời
Vẫn ngàn năm bóng trăng soi
Tay trong tay tưởng đất trời trong ta
Chung nhau, ấm lạnh thịt da
Vòng tay ôm để mượt mà xác thân
Tháng bảy, nắng nõn ngoài sân
Vuông áo lụa, bỗng tần ngần mắt ai…
|