.

PSN
BỘ MỚI 2008
HỘP THƯ

                            TRANG CHÍNH

" Không có tự do Sáng Tác, thì Văn Nghệ Sĩ sẽ bị biến thành Thợ Viết, Thợ Vẽ, ... cho một ông chủ nào đó mà thôi ! " (LN)


bút
việt
hồn
quê

BIÊN TẬP

Thích Phước An | Trần Đỗ Cung | Kiều Mỹ Duyên | Trần Trung Đạo | Minh Triết TRẦN THIỆN ĐẠT | Trần Kiêm Đoàn | Phổ Đồng | Tâm Hải Đức | Võ Thị Trúc Giang | Trần Đan Hà | Nhất Hạnh | Tuệ Chương - Hoàng Long Hải | Vĩnh Hảo | Chiêu Hoàng | Đại Lãn | Lặng Lẽ | Lâm Kim Loan | Trần Quan Long | Phạm Trọng Luật | Miêng | Diệu Trân | Không Quán | Phan Quân | Đặng Văn Sinh | Tuệ Sỹ | Ninh Hạ - Nguyễn Đức Tâm | Phong Thu | Nguyễn Mạnh Trinh | Lê Khánh Thọ | Trần Đình Thu | Trần Khải Thanh Thuỷ | Anh Thư | Tiểu Tử | Nguyễn Ước | T. Vấn | Hiền Vy | Tịnh Ý | Tác Giả Khác ....

GIAI THOẠI

Bùi Giáng | Hữu Loan | Giang Hữu Tuyên |

 

 

  Nguyễn Mạnh Trinh

Hội nhập văn học?
những câu hỏi khó

  • PSN - 27.07.2008

Lúc này người ta hay đề cập đến hội nhập văn học của người Việt ở hải ngoại. Có rất nhiều bài viết, có nhiều ý kiến đôi khi đối chọi nhau và có cả những lời kêu gọi. Như chiến tranh đã qua rồi, thời ghìm súng với nhau đã hết, sao vẫn còn giữ những thái độ không thông cảm với nhau. Hòa giải rồi hòa hợp, hãy quên quá khứ để nghĩ đến hiện tại và tương lai. Nghe trên lý thuyết thì có vẻ xuôi tai lắm. Ừ, cùng là người Việt với nhau hãy cùng xây dựng đất nước, kẻ thù với nhau là Hoa K và Việt Cộng sản còn bắt tay được với nhau mà. Hãy trở về, trở về,…

Tôi có đọc một bài viết khá dài của ông Tô Nhuận Vỹ ”Nhà văn Việt Nam : Đổi mới và Hội nhập”. Ông viết khá tâm tình, tỏ ra là một người tuy ở trong nước nhưng đã có ra nước ngoài và có ý hướng muốn kêu gọi sự hội nhập của những nhà văn ở hải ngoại. Ông kể nhiều sự kiện ở trong nước và ở hải ngoại về một tình trạng chia rẽ không chịu “ngồi chung chiếu” của cả văn nghệ sĩ ở trong và ngoài nước. Ông nêu lên những phức tạp, những khó khăn của hai bên. Và kết luận là lời kêu gọi, một kiểu “chiêu hồi” những nhà văn hải ngoại :

“... Cả thế giới đang tiến bộ mau chóng, từng ngày, chẳng lẽ chúng ta không day dứt trước cảnh “ăn sau chạy dọi“ của đt nước mình. Nếu thực sự có tấm lòng với đất nước mỗi nhà văn ở trong nước sẽ làm được. Các nhà văn các nghệ sĩ các trí thức Việt Nam ở nước ngoài sẽ làm được cho dù chỉ là một phần như Lê Bá Đảng, như Điềm Phùng Thị đã làm. Như Trần Văn Khê, Phạm Duy, Tôn Thất Tiết, Nguyễn Thiện Đạo, đã làm. Như Nguyễn Đức Tùng đã bày tỏ trong cuộc gặp gỡ với các nhà thơ Nguyễn Thụy Kha, Nguyễn Trọng Tạo, Du Tử Lê, Thanh Thảo, Trần Mạnh Hảo.

“Tôi hy vọng rằng một ngày kia tất cả những người ra đi sẽ về lại bên nhau đầy đủ, dù ở Huế, Hà Nội, Sài Gòn, mang theo cả những người không bao giờ còn có thể về lại được nữa. Chia sẻ và thấu hiểu, kính trọng và tha thứ. Trên chiếc chiếu của tình tự dân tộc và của thơ ca Việt Nam”

Tôi xin mượn ý kiến của giáo sư Cao Huy Thuần để kết thúc bài viết này:

“Văn nghệ sĩ hãy làm đi, đừng chờ đợi ai khác. Tự mình mở ra không gian cho mình. Nếu bây giờ mà văn nghệ sĩ không cùng nhau “khoán” được một xã hội dân sự văn học để làm cái chuyện thông cảm nhau, đọc nhau như anh đề nghị thì chúng ta còn làm cái gì được nữa? Chuyện đó nhà nước coi bộ cũng muốn cũng thấy cần thiết. Nhà nước đã muốn anh sáng tạo ra bước đi, đó chẳng phải là chức năng của anh sao? Anh chớ ai?”

Tôi đọc đoạn văn ấy và tự nhiên nảy ra nhiều cảm nghĩ. Ông Cao Huy Thuần một trí thức thiên tả sống ở Pháp đã quả quyết rằng nhà nước muốn văn nghệ sĩ “khoán được một xã hội dân sự văn học để làm cái chuyện thông cảm nhau !”. Thật ra hình dung và định nghĩa được cái “xã hội dân sự văn học” cũng khá là dài dòng và có thể hiểu được theo tùy định kiến của mỗi người. Nhưng, tôi có đọc ”Nghị quyết về xây dựng và phát triển văn học trong thời kỳ mới” của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt nam, cơ quan cao cấp nhất lãnh đạo cả nước, do tổng bí thư Nông Đức Mạnh ký ngày 6 tháng 6 năm 2008 và cố gắng tìm kiếm cái mà ông Cao Huy Thuần nói là “nhà nước muốn“ mà tìm hoài chẳng thấy. Mà lại thấy những điều chỏi ngược lại như khi đề cập đến “mục tiêu, quan điểm, chỉ đạo, chủ trương và giải pháp tiếp tục xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới”:

”để thực hiện mục tiêu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải tiến hành một cuộc đấu tranh gian khổ và phức tạp giữa cái mới và cái cũ, cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa tốt và xấu, cao thượng và thấp hèn. Hiện thực đó là mảnh đất giàu tiềm năng cho những tìm tòi sáng tạo của văn nghệ sĩ để tiếp tục xây đắp một nền văn học nghệ thuật ngày càng lớn mạnh với những tác giả tác phẩm có tầm vóc xứng đáng với dân tộc.

Quá trình hội nhập quốc tế, giao lưu văn hóa có khả năng tạo ra những biến đổi lớn về diện mạo, đặc điểm, loại hình văn nghệ nước nhà, đồng thời, sự bùng nổ của các phương tiện truyền bá sản phẩm văn nghệ, của công nghệ giải trí cũng có thể tác động cả tích cực và tiêu cực đến đời sống và công chúng văn nghệ. Mặt khác, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh âm mưu và thủ đoạn diễn tiến hòa bình nhằm tạo ra sự tự diễn biến trên lãnh vực tư tưởng, văn hóa, đạo đức trong nội bộ ta.”

Và cả trong bản nghị quyết, thì văn học chỉ là một phương tiện phục vụ cho chính trị mà Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Trong cơ chế ấy, nhà văn ở trong nước làm được gì huống hồ nhà văn ở hải ngoại. Con ruột còn bị kẹp thì con ghẻ đâu có tránh được kềm?

Tô Nhuận Vỹ cũng phê phán một số người mà ông cho rằng còn căm thù còn bị ảnh hưởng bởi cuộc chiến đã qua nên đã không chịu hòa giải và hòa hợp. Ông cho rằng họ vẫn còn bị ảnh hưởng quá nhiều của quá khứ của thời chiến tranh…

Nhưng tôi nghĩ không giống như vậy. Không phải vì quá khứ mà phát sinh ra những hiện tượng chia rẽ nhau. Mà ngay ở hiện tại cũng đầy những nguyên do cho sự thiếu đoàn kết của dân tộc. Mà, nguyên do chính là vì sự tồn tại của chế độ đang cai trị trong nước. Một chế độ của thiểu số một nhúm đảng viên mà bắt cả 80 triệu người tòng phục. Xét về mọi phương diện, chế độ ấy đầy dẫy những khiếm khuyết, tràn đầy những bất công. Nào dân oan khiếu kiện bị đàn áp, nào của cải đất đai của người dân lương thiện bị ăn cướp trắng trợn. Nào ngoại xâm lấn chiếm đất đai biển trời mà khiếp nhược cam chịu để cố giữ địa vị. Nào tham nhũng hoành hành, tạo thành lớp tư bản đỏ, ăn chơi sa đọa trong khi toàn dân thì nghèo nàn chạy cơm từng bữa toát mồ hôi. Giáo dục thì lạc hậu, với chủ trương chạy theo tiền bạc lợi nhuận mà bất kể đạo đức. Còn về văn học, thì chỉ là một phương tiện phục vụ cho chế độ, người viết văn hết bị trói rồi cởi trói rồi trói lại như câu ví von của nhà thơ Nguyên Sa “nhà văn là con người chứ đâu phải chó lợn mà hết trói rồi lại cởi trói.”

Thành ra, nếu còn chế độ ấy, thì cả nhà văn trong nước và những nhà văn hải ngoại bị vòng kiềm tỏa chỉ là một công cụ. Những chiêu bài hay đẹp sẽ được vẽ ra, nhưng thực tế cũng chỉ là những âm mưu được thực hiện do chế độ hiện tại bày ra để lừa phỉnh những người nhẹ dạ.

Đời sống thường có những câu hỏi. Có hay không một nền văn học lưu vong ở hải ngoại? Cũng như, những người cầm bút ở hải ngoại nghĩ thế nào về sự giao lưu và hội nhập? Mà hội nhập thế nào, hội nhập vào văn học dòng chính ở nước họ định cư, cũng như hội nhập vào dòng văn học trong nước?

Hội nhập vào văn học ở những nước mà họ sinh sống nổi bật nhất ở những thế hệ một rưỡi hoặc thứ hai. Họ viết bằng Anh ngữ hoặc Pháp Ngữ và hình như dù họ viết với tâm cảm Việt Nam nhưng đối tượng độc giả có lẽ không phải chỉ riêng người Việt mà còn cả những người bản xứ. Thực tế, họ đã tạo được sự để ý của giới xuất bản cũng như phê bình và cũng chiếm được nhiều giải văn học. Họ là Linda Le viết Pháp ngữ, là Monique Trương, Aimee Phan, Lan Cao, Andrew Lam, Kien Nguyen, Le thi Diem Thuy, Đao Strom, Nguyen Minh Bich, Mộng Lan,… viết Anh Ngữ.

Còn một chiều hướng khác, hội nhập vào văn học trong nước. Từ một câu hỏi, văn học hải ngoại còn là một nền văn học lưu vong mà yếu tính của nó là sự phản kháng chế độ đương quyền trong nước, có thể là một tiền đề cho câu trả lời có và không. Một khi chế độ đương thời vẫn còn là một chế độ độc tài toàn trị, thì liệu sự hội nhập ấy có ý nghĩa gì không?

Theo tôi, giữa nhà văn trong nước với nhà văn hải ngoại không hề có sự đối kháng cũng như giữa những người dân ở hải ngoại và trong nước không có sự dị biệt nào để hòa đồng. Nếu có đối kháng chăng là giữa chế độ và người dân, kẻ cai trị và người bị trị. Thành ra, đặt ra vấn đề hòa giải giữa những nhà văn trong nước và hải ngoại là một chuyện dư thừa. Là người cầm bút với nhau, chắc sẽ cùng tâm cảm và ước vọng với đất nước nên nếu có trường hợp gặp gỡ thì cũng là nối giây thân hữu. Hơn nữa ngay mối liên hệ giữa nhà văn và nhà cầm quyền cũng còn nhiều trường hợp trục trặc. Như nhà thơ Trần Dần tuy được giải thưởng loại văn học bậc quốc gia nhưng vẫn bị dè chừng, tuyển tập thơ bị cắt xén, xuất bản bị làm khó dễ đến mức cấm cản. Thì nói gì đến những nhà văn hải ngoại dù “lý lịch” có sạch sẽ thế nào chăng nữa cũng không khỏi bị nghi ngờ là những người sẽ gây mầm mống chống đối chế độ.

Thực tế cho thấy, ở trong nước ngay cả trên mặt văn hóa, cũng có sự chỉ đạo của công an. Một thí dụ gần đây, trong nhóm đi tịch thu cuốn sách “Thơ Trần Dần” ở nhà xuất bản Nhã Nam bên cạnh các nhân viên của tuyên huấn, của cục xuất bản, của công an địa phương còn có sự có mặt của A25, một thứ công an văn hóa và là bộ phận có tiếng nói quyết định.

Hội nhập. Có rất nhiều người bàn bạc đến, thậm chí còn đặt câu hỏi sẽ phải hội nhập như thế nào nữa. Viết xong một tác phẩm, lẽ ra là hoàn tất công việc của một nhà văn, nhưng thực tế thì không hẳn vậy. Những thắc mắc luôn đè nặng. Dư âm của cuộc chiến vẫn còn và chiến tuyến vô hình không phải ngày một ngày hai mà hết. Nó vẫn còn và những suy tư, những đau thương có khi là những đề tài cho văn chương và phản ánh một thời đại mà con lốc lịch sử đã đổi chiều đến độ khốc liệt.

Là nhà văn, ai cũng muốn có nhiều độc giả, nhất là ở hải ngoại muốn có độc giả từ trong nước, khi số lượng người đọc Việt ngữ càng ngày càng giảm đi. Nhưng, khi trong nước vẫn còn những hệ thống không kiểm duyệt mà siêu kiểm duyệt thì chuyện có sách được in trong nước đối với những người không có thế thần hoặc không quen xin xỏ chạy chọt khó lòng chen vào được. Thành ra, trong hiện tại, sách từ trong nước thì bán đầy ở hải ngoại mà những cuốn sách của các nhà văn hải ngoại thì ít ỏi và hiếm vắng ở trong nước. Những sách của các tác giả có “lý lịch xấu“ ở trong nước còn bị đầy đọa huống chi những người ở hải ngoại mà lúc nào chính quyền cũng dè chừng là sẽ “chuyển lửa về quê hương”.

Những câu hỏi làm thế nào để hòa giải hòa hợp, để giao lưu, để hội nhập,… đều bị một vấn nạn chính phát xuất từ chế độ đang cầm quyền hiện nay. Từ chuyện đổi mới, cởi trói rồi trói lại rồi cởi ra, nhà văn ở trong nước chạy theo đã hụt hơi huống chi người ở ngoài.

Trên lý thuyết, thì mục đích của các suy nghĩ về giao lưu và hội nhập đều đúng và là lý tưởng nữa. Nhưng trên thực tế, thì chưa chắc. Nếu viết mà cứ luôn luôn tự hỏi mình sẽ phải viết thế nào, nghĩ ra sao để ở “trong nước“ chấp nhận thì chẳng thà đừng viết còn hơn…

Một câu hỏi thường hay đến với người cầm bút : Viết? Tại  sao viết và viết thế nào? Trả lời câu hỏi ấy, có khi rất giản dị nhưng cũng có khi cực kỳ khó khăn. Viết, có phải là một cách thế để sống đời sống thực? Hay là một cách sống với thế giới riêng mình cả những ước mơ? Mỗi người một ý nghĩ, ở thời đại hiện nay, nhất là với những người Việt Nam đã trải qua nhiều biến cố, ở những vị trí khác nhau, có khi là chiến tuyến đối nghịch, thì văn chương phải phản ánh được nỗi niềm của cả một thế hệ. Có những người, viết để giải tỏa những ẩn ức của đời lưu lạc. Có người, coi viết là một cái nghiệp tay trái phải trả trong khi tay phải vẫn khư khư cái nghề để mưu sinh. Từ những quan niệm khác nhau, những suy tư khác nhau, có lẽ đã xảy ra cuộc tranh luận. Và, câu trả lời vẫn là những phân vân bất định. …

Có người làm thơ lúc nào cũng bức xúc với câu trả lời phải viết thế nào và ra sao. Hình như, chỉ là sự gợi ý mà không phải là những ý nghĩ khẳng định hay phủ định. Cách nay một thế kỷ, Rainer Maria Rilke trong tác phẩm Thư Gửi Người Thi Sĩ Trẻ Tuổi, gồm 10 lá thư gửi cho Franz Xavez Kappus đã nêu ra một vấn đề mà tới nay vẫn còn tồn tại. Một vấn đề muôn thuở của người làm thơ thường suy ngẫm. Tôi đọc một đoạn trong lá thư đầu tiên (bản dịch Phạm thị Hoài):

Không ai có thể khuyên ông và giúp ông, không một ai. Chỉ có một cách duy nhất mà thôi. Ông hãy đi vào chính mình. Hãy truy cứu cái nguyên nhân khiến mình cầm bút, hãy kiểm tra xem nó có bắt rễ từ chỗ sâu xa nhất của trái tim không, hãy tự thú xem nếu không viết liệu mình có chết nổi không? Và trước hết hãy tự hỏi mình vào giờ khắc tĩnh mịch nhất trong đêm, ta có phải viết không? Ông hãy đào xới trong chính mình tìm câu trả lời tận gốc. Và nếu có khẳng định, nên ông có quyền đáp lại câu hỏi nghiêm trọng ấy bằng một lời mạnh mẽ và giản dị rằng “Ta phải viết“ thì ông hãy xây đời mình trên sự tất yếu ấy, cuộc đời ông ngay cả trong những giây phút dửng dưng và tầm thường nhất cũng phải trở thành dấu hiệu và chứng ch của sự thôi thúc ấy. Rồi ông hãy đến gần thiên nhiên. Hãy thử làm người thứ nhất nói về những gì mình thấy, mình trải qua, yêu thương và đánh mất. Ông đừng viết thư tình, đầu tiên ông nên tránh những thể loại đã quá thông dụng và quen thuộc, đấy là những thể loại khó nhất, vì sức phải lớn và chín muồi mới đưa ra được một cái gì riêng giữa vô số thành công và phần nào thành công xuất sắc của người đi trước. Do đó ông đừng bén mảng đến những mô típ chung chung mà hãy lui về với những mô típ do chính ngày thường của mình cung cấp, ông hãy tả ra nỗi buồn và niềm mong ước, những ý nghĩ thoảng qua và lòng tin vào một ngày tốt đẹp nào đó. Hãy tả tất cả với lòng chân thành tha thiết, thầm lặng và nhẫn nhục, và hãy xử dụng mọi vật quanh ông, những hình ảnh trong mơ và những đối tượng của hồi ức làm phương tiện diễn đạt. Nếu ông thấy ngày thường của mình quá nghèo nàn thì xin đừng buộc tội nó, hãy buộc tội chính mình, hãy tự nhủ rằng mình không đủ tầm thi sĩ để gọi ra những tài nguyên của nó, bởi lẽ không có cái nghèo và không chỗ nào là nghèo nàn chẳng đáng đếm xỉa tới đối với người sáng tạo…”

Đọc sách, cũng học và biết nhiều điều. Mà, ngay cả khi đàn đúm chuyện trên trời dưới đất, cũng câu hỏi trên vẫn ám ảnh, canh cánh trong lòng…

Mỗi sáng cuối tuần tôi hay ghé quán cà phê ngồi tán dóc với bạn bè. Một tuần qua rất mau với những ngày thứ hai tới thứ sáu tất bật để có những ngày thứ bảy, chủ nhật thoải mái. Cũng là một cách để cuộc đời còn có niềm vui. Ở đó, tôi gặp nhiều người bạn. Có người, nói chuyện vui vẻ, để cho qua một buổi sáng nhiều nụ cười, quên đi những lo lắng của cuộc sống. Những câu chuyện giỡn, những chuyện tiếu lâm. Nhưng, thỉnh thoảng, cũng có người bạn, sau khi chuyện vãn lại làm ưu tư hơn. Thí dụ như với một anh bạn mà tôi kể sau đây làm tôi cứ bâng khuâng cả tháng trời…

Thành thật mà nói, anh là người đọc sách rất nhiều và có những suy tư thấu đáo. Nói chuyện với anh, nhiều khi tôi như đi lạc vào những trang sách và có lúc như bị lạc lối không tìm được ngõ ra. Một buổi sáng, khi nói chuyện về giải Nobel văn chương của Hàn Lâm Viện Thụy Điển, tôi buột miệng nói rằng người Việt Nam đã trải qua những cách thế có một không hai trên thế giới với những đề tài tự thân nó đã có sức thuyết phục ghê gớm, thế mà chưa có một ai cầm bút được lọt vào trong trào lưu văn học thế giới. Thân phận con người Việt Nam, chiến tranh, thuyền nhân,... toàn là những lãnh địa bao la cho sáng tác…

Thế là ông bạn quí của tôi có dịp “ăn nói”. Ông mang Milan Kundura để nói chuyện. Trong ”The Art of the Novel“ nhà văn này đã suy luận theo những trào lưu của văn học hiện đại. Vi những sự vận động và tìm tòi không ngưng nghỉ, sự cách tân trong bút pháp cũng như bố cục truyện được coi như một mục đích tối hậu cho bút mực. Làm mới văn xuôi tự sự cũng như thay đổi cung cách suy nghĩ về quan niệm, vai trò, vị trí, hành động, chức năng của nhân vật, Kundura đã đi từ James Joyce, Marcel Proust, Franz Kafka đến tự bản thân mình.

Ở James Joyce, nhân vật ở trạng thái trở về hình thức đối thoại nội tâm triệt để mỗi khi bị lôi kéo vào một tình trạng chỉ trong khoảnh khắc của thì hiện tại.

Ở Marcel Proust, nhân vật được diễn tả và xuất hiện với tất cả sự huyền diệu và kích thích nỗi ngạc nhiên về cái vũ trụ nội tại của linh hồn con người. Hành trình “Đi tìm thời gian đánh mất” gồm mười lăm quyển sách mở ra những cánh cửa đi vào khung trời tiểu thuyết bao la nhiều chất suy tưởng.

Còn với Franz Kafka nhân vật chỉ còn là hiện thân cho một vấn nạn “Đâu là những khả năng tồn tại của con người trong một thế giới mà những quyết định từ bên ngoài trở thành nặng nề đến nỗi những động cơ bên trong chẳng còn chút trọng lượng nào nữa”. Kafka mô tả những động cơ thúc đẩy từ bên trong quyết định ứng xử của bản tính con người giữa cái thúc ép của đời sống thực tế bên ngoài thành lực chi phối và luôn luôn giữ vai trò chủ chốt áp đảo trong mọi cách thế quyết định.

Riêng chính Kundura thì cho rằng nhân vật tiểu thuyết là hiện thân cái gọi là “bản chất cục diện hiện sinh của cái tôi.” Đây là một quá trình tìm kiếm với tất cả những dụng công để khám phá ra những chân dung còn chìm khuất từ những bức màn che kín của sự vật.

Muốn nhập vào những trào lưu như vậy, nhà văn cần phải nỗ lực làm mới và rời bỏ con đường mô tả theo lề lối truyền thống với những chi tiết của nhân vật : tên tuổi, diện mạo bên ngoài, tiểu sử, quá khứ, đời sống,… Tứ Joyce, Proust, Kafka, đến Kundura, tất cả những yếu tố trên về nhân vật chẳng còn là quan trọng nữa. Ngay chính những động tác để làm chuyển động tiểu thuyết cũng không còn là chủ đích, mà cái còn lại là suy tư với những phóng chiếu luận cứ phức tạp từ những góc cạnh nhiều chiều, nhiều phía để soi rọi vào cái sâu thẳm của bản thể mình và đời sống mình một cách thật rốt ráo triệt để không thỏa hiệp.

Sau khi lấy những luận cứ của Kundura làm căn bản, ông bạn trên đi đến một kết luận. Muốn đi vào những trào lưu văn học thế giới, phải từ bỏ chính cái tôi của nhân vật truyện. Chúng ta phải hủy bỏ chính cái vòng mà chúng ta tự vạch ra và tự giam mình vào. Chúng ta cứ quanh quẩn trong cái góc thế giới nhỏ nhoi mà không chịu bước ra những phương trời khoảng khoát hơn. Những  sự kiện của chúng ta hôm nay chỉ có giá trị ở thì hiện tại, nhưng ở thì tương lai thì chưa chắc. Cái xốc nổi chưa chắc là cái tồn tại lâu dài. Mà, muôn đời nhất để tồn tại vẫn là hành trình tự tìm kiếm chân dung con người, chân dung muôn thuở có chung một mẫu số của nhân bản nhưng có thể khác về tử số, của những hiện tưng của bây giờ. Nhà văn phải có trí tưởng tượng vưt qua cái tôi… Tại sao chúng ta cứ viết hoài về cái đã quen thuộc đã nhàm chán. Sao không thử bước qua đi những con đường lạ. Viết để làm gì nếu không có sự tìm tòi khám phá. Viết để làm gì, nếu văn học không mang được những nét tích cực cho cuộc nhân sinh.

Tôi suy đi nghĩ lại, những điều Kundura viết nó chung chung và hiện thực những ý tưởng ấy thành cụ thể không phải là đơn giản... Trong bụng vẫn vương vấn những suy nghĩ. Những điều kể trên có phải thuần từ lý luận và có dễ áp dụng ở thực tế Việt Nam không. Mà, thực hành thì ra sao? Đi tìm chính mình, soi gương mỗi ngày? Đúng quá rồi, nhưng diễn tả ra sao vì cái thực và cái ảo có khi nhập nhằng thành một. Đằng sau cái hình của mình có khi còn cái bóng nhiều khi to lớn hơn, lộng lẫy hơn. Làm thơ tượng trưng, thơ phá cách, thơ cách tân,… để sáng tạo? Đúng rồi, nhưng có chắc là tìm kiếm chân thực mới lạ không hay là từ ngàn xưa đã có sẵn? Tôi chợt nghĩ đến hiên tượng “tẩu hỏa nhập ma” mà Kim Dung hay mô tả. Chưa đủ nội lực mà cứ đòi tập tành thì phế thải có ngày ! Làm thơ có vần chưa làm chủ được vần điệu ngôn ngữ mà đòi cách tân, phá cách thì thi ca trở thành dị hợm mấy hồi. Cái căn bản cần thiết phải có mới đủ sức làm sâu sắc hơn, làm mới lạ hơn văn chương. Thành ra, rút cuộc vẫn là sự tự rèn luyện và khó khăn nghiêm khắc với chính mình. Nhà văn Nguyễn Hiến Lê đã tự đặt một kỷ luật cho bản thân. Mỗi ngày, dù có cảm hứng hay không cũng ngồi vào bàn làm việc. Lâu dần sẽ thành một thói quen tốt đẹp. Và, với cách làm việc như thế, ông đã có một công trình trước tác đồ sộ. Riêng tôi khi theo học lớp sáng tác văn học ở tại đại học ở đây cũng được chỉ dẫn rằng mỗi ngày phải viết vài trang bằng ngôn ngữ mình và dịch vài trang từ những tác phẩm được kể là cổ điển để tp thành thói quen trong công việc vận dụng chữ nghĩa để. Cũng như đọc một cuốn sách nhiều lần, lần đầu để nắm bắt ý tưởng, lần sau tóm lược và ghi chép lại thành từng thẻ có thể hệ thống hóa. Tôi cố gắng theo nhưng hình như đời sống ở đây có quá nhiều thúc bách nên kỷ luật ấy cũng gần mai một đi. Nhưng ít ra tôi cũng tự hiểu đó là một phương thức tập luyện tốt… Kỹ thuật cũng rất cần tuy chưa đủ để tạo thành những tuyệt tác. Mà, nói đến kỹ thuật là nói đến những kinh nghiệm thu lượm được từ quá trình làm việc qua sự vận động và tìm kiếm.

Nói theo lý thuyết một cách logically như vậy thì quá dễ. Làm sao để tiếp cận được vào văn học thế giới thực sự là một câu hỏi khó cho những người cầm bút. Vượt qua những giới hạn thực tế, nhiều khi cần phải nỗ lực trong một đời sống nhiều thúc ép hiện nay.

Câu chuyện trong quán cà phê có phải là chuyện phiếm bàn chơi? Tại vì tôi quá nặng lòng với văn chương nên thắc mắc vương vấn mà thôi. Chứ còn, ngày lại ngày, vòng quay đời sống dường như mỗi ngày bào mòn cả ước mơ. Với tôi, còn cầm bút được là vẫn còn một chút hạnh phúc nhỏ nhoi. Viết để cho riêng mình có một thú vui, như mình nâng niu một đóa hoa, không phải là một điều thích ý sao? Mỗi lần đọc những dòng chữ do chính mình viết ra, có phải là đang tâm sự với những người cùng tri kỷ. Và, cũng chẳng để ý làm gì đến ít hay nhiều mắt xanh để ý đến văn chương mình? Cái gì tốt đẹp tự nhiên sẽ tồn tại, cũng như những giả trá bất toàn sẽ bị đào thải theo đúng luật đất trời!

Ở trong nước, câu hỏi ;Tại sao viết? Viết để làm gì? và viết như thế nào? cũng là những vấn nạn thường xuyên trên báo chí.

Nhà văn Nguyên Ngọc trong bài phỏng vấn của Dã Tượng đã phát biểu:

“Vâng, nhà văn viết bằng cái gì? Theo tôi có ba cái chính : tài năng “trời cho”, sự trải nghiệm hay “vốn sống” và cái thứ ba là nền tảng văn hóa dân tộc và nhân loại mà anh ta có được, anh ta “đứng“ trên đó để tiếp tục đi tới… Lớp người trẻ cầm bút ở Việt nam hiện nay thiếu hụt hơn cả chính là cái thứ ba này...” Và ông cho rằng sự thiếu thốn kể trên vì trong nước hiện nay không có Đại Học thực sự với chất hàn lâm phải có. Nền đại học hiện tại chỉ là những “lớp phổ thông cấp bốn“ như lời giáo sư Hoàng Ngọc Hiến ví von. Và sau đó ông còn đề cập đến không có tự do sáng tác tạo thành một nền văn học “minh họa“ nông cạn, một chiều và là công cụ cho chính quyền.

Chu Văn Sơn, trong “Tác phẩm lớn, tại sao chưa?” thì phân tích :

“... Không thiếu những cây bút sau màn trình làng đầy ấn tượng hứa hẹn một triển vọng nào đấy nhưng rồi tài năng ban đầu không cường tráng lên để thành tài năng, trái lại, cứ sa sút mai một dần. Những cái ra sau chỉ là sự pha loãng cái ra trước, thậm chí loãng đến mức khó tin. Có người bi quan đã ngờ vực không khéo cái tạng chính của người viết ở ta chỉ là “nhà văn của cái đầu tay”.

Giải thích về hiện tượng sa sút phong độ sau những sáng tác đầu tay, người ta thường đề cập ba thiếu hụt quen thuộc : vốn văn hóa, vốn sống và những kỹ năng sáng tạo. Vốn văn hóa không chỉ là tri thức về các bộ môn văn hóa hay hiểu biết về các nền văn hóa bốn phương, mà quan trọng hơn là cái lõi nhân văn của kẻ viết có đầy đặn hay chưa sau khi hấp thụ những tinh hoa văn hóa khắp nơi ấy. Vốn sống cũng không phải là những tri thức cuộc sống đã được nạp đầy hay vơi trong túi khôn của kẻ viết, mà đáng nói hơn là vốn ấn tượng, vốn trải nghiệm cật ruột của chủ thể sáng tạo trong trường đời đã đủ giúp anh hóa thân vào mọi nỗi đời chưa. Cũng như thế kỹ năng sáng tạo đâu chỉ đơn giản là những chiêu mới chiêu lạ chiêu độc tích cóp được từ việc học những trường phái tân kỳ hay các bậc thầy đến từ phương xa. Mà quyết định hơn là mọi thao tác kỹ năng đã ngấm vào thành ứng xử nghệ thuật thành giác quan của người viết hay chưa. Chúng ta thường khuyến cáo người viết hãy bồi đắp cho những thứ ấy đầy đặn lên, vạm vỡ hơn. Không thể chối cãi được rằng nội lực của người viết phụ thuộc rất nhiều vào sự dồi dào của ba yếu tố ấy. Chưa có một nội lực như vậy, thật khó hy vọng về tác phẩm thật sự lớn…”

Cũng có người thì lại quan niệm nghe ra hơi ngang tai nhưng không phải là không lý do trong thực trạng văn học trong nước hiện nay. Như lời phát biểu của Nguyễn Đình Chính, con ruột nhà văn Nguyễn Đình Thi và là tác giả của tiểu thuyết “Đêm Thánh Nhân”, cũng như đã có ý định muốn ra khỏi Hi Nhà Văn Việt Nam:

“Tôi biết rằng nhà văn thì nên đứng ra ngoài lề xã hội, ngậm miệng ăn tiền ngồi quay mặt vào vách tường mà viết văn thì mới là nhà văn lớn, mới là khôn ngoan, biết điều. Nói nhiều là ngu. Càng nói càng dại. Có lẽ tôi đang là một ví dụ cụ thể. Nhưng đã hỏi thì tôi xin có nhời. Đất nước đang tiến vào vận hội mới Toàn dân tộc đã thoát ra khỏi cơn ngái ngủ bao cấp, ỷ lại rồi. Thú thực nhé, là một người trong cuộc mà tôi cũng chẳng hiểu văn nghệ Việt Nam hôm nay đã chạy thoát ra khỏi cơn ngái ngủ bao cấp đó chưa?

Viết để sống. Sống để viết. Hình như ở bất cứ không gian thời gian nào cũng là hai vế của một phương trình. Có lúc tưởng đối nghịch nhau nhưng tựu trung vẫn là một. Dù ở trong nước hay hải ngoại, dù thời gian cách nay cả thế kỷ cho đến bây giờ, viết vẫn là do bức xúc từ đời sống. Sống đeo đẳng cái nghiệp viết. Và viết để làm đời sống có ý nghĩa hơn. Văn chương, có khi là duyên phận, là những tình cờ, của những phút giây “bắt được của trời”. Thực ra, để trở thành một nhà văn Việt Nam thường thường đã khó, huống chi còn đòi tác giả lớn, tác phẩm lớn. Ở trong nước, thì giáo dục hạn chế, đại học chỉ là bậc trung học nối dài, triết học căn bản không có vì thay thế bằng học thuyết Mác Lênin. Ở hải ngoại, thì tiếp cận được với căn học thế giới nhưng ít độc giả và tất cả nỗ lực văn chương đều dồn vào trên vai cá nhân những người cầm bút. Nhà văn, chỉ có thể cầm bút được nếu không ở tâm trạng phải viết vì quá nhiều điều chất chứa từ cuộc sống phải bộc lộ, phải nói ra. Cầm bút, chính là một phương cách để tự giải phóng mình…

 


NGUYỄN MẠNH TRINH

Sinh năm 1949 tại Hà Nội. Hiện sống tại Hoa Kỳ. Chủ trương tủ sách tác gỉa tác phẩm Ðời. Trong nhóm chủ trương Hợp Lưu,  Hoa Kỳ.

Tác phẩm đã xuất bản :

Thơ Nguyễn Mạnh Trinh (Người Việt 1985).

Tuyển tập Hai Mươi Ba Người Viết Sau 1975 (biên tập cùng Trịnh Y Thư Văn Nghệ Hoa kỳ 1989).

(Hình + Tiểu sử : thoivan. com).

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt,  không kích động hận thù,  và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ,  hay bất kỳ một chính phủ nào.