Tôi đọc Thảo Trường

Nhà
văn Thảo Trường (photo Viettribuneonline) |
Có những truyện của Thảo Trường tôi đọc ít nhất là vài ba lần đến
gần như thuộc lòng. Khi thì ở các tạp chí văn học, lúc thì ở những
tập sách mỏng mà ông tự xuất bản như ”Đá mục“, như “Tiếng thì thầm
trong bụi tre gai“, như “Miểng”,… hoặc khi trong tuyển tập “Những
miểng vụn của tiểu thuyết“. Mỗi lần đọc, là một lần trải qua những
cảm giác khác nhau. Bâng khuâng có, kinh ngạc có, thích thú có, và
niềm chua chát như tâm sự của ai, những người lao đao trong con lốc
thời thế cũng có. Những nhân vật hình như hồi sinh nhiều lần theo
mỗi lúc gập cuốn sách lại và cuộc sống ấy bao la quá đến nỗi cách
diễn tả như có một điều gì chưa toàn vẹn. Không hiểu tác giả đã mang
cái thực và cái ảo pha trộn như thế nào nhưng trong tâm tư của người
đọc là tôi có cảm giác là một đời sống khác được tạo dựng lạ lùng
nhưng lại quen thuộc. Một đời sống của nhiều người cùng thế hệ cô
đọng lại thành một. Không phải là người kể truyện, mà cũng chẳng
phải là người viết lại hồi ký đời mình. Thế mà tôi tưởng như đã đọc
lại những trang nhật ký của cả một thế hệ Việt Nam mà cả tác giả và
cá nhân tôi cùng sống và cùng hít thở cũng như mơ mộng trong nỗi
niềm chung mang trong một thế gian của tận cùng nỗi đau của những
con người bị hạ xuống đến gần hàng súc vật… Thảo Trường đã viết
những câu như “Trại còn mười hai tù binh, mười sáu công an, hơn bốn
trăm con bò. Công an giữ tù. Tù giữ bò. Cứ như thế mà thống trị
nhau. Nhưng luôn luôn cái gì ít thì có giá, ở đây tù ít hơn công an,
bò nhiều hơn tất cả cho nên công an gọi tù là các Bác hoặc các Bố,
còn bò thì cứ bị giết thịt hoài! Từ trước tới nay, công an vẫn gọi
tù là anh xưng tôi, đồng hạng dù người tù ấy bảy, tám chục tuổi còn
công an mới mười chín, hai mươi! Kể ra vai vế thì phải là ông cháu,
phúc đức dày thì phải là cụ cháu. Nhưng thời nay phúc đức rất là
mỏng…” (trong truyện ngắn Con Bò)
Khi tác giả in “Những miểng vụn của tiểu thuyết“, đã có rất nhiều
người viết về tác giả và tác phẩm ấy. Rất nhiều ý kiến, rất nhiều
phân tích, nhưng tựu chung đều là những chia sẻ sâu sắc và những
nhận định thấu đáo.
Như nhà văn Phạm Xuân Đài ”Từ khi đọc Thảo Trường tôi lại say mê
những chuyện trong tù. Tôi không chắc Thảo Trường viết được như vậy
là nhờ ở tù lâu hơn tôi. Tôi chỉ có thể nói là ông viết chuyện tù
quá hay…”
Hay nhà thơ Trần Dạ Từ ”Những miểng vụn của tiểu thuyết” là một tác
phẩm lớn và cổ điển. Nhìn hình bìa do hai họa sĩ Nguyễn Đồng và
Nguyễn Thị Hợp là đủ thấy (?) mà cổ điển nghĩa là bất tận (?)…”
Hoặc nhà văn Huy Phương: ”Tôi không cho là Thảo Trường thất bại. Ông
đã cố gắng đem cả cuộc chiến vào tác phẩm nhưng không được. Nhưng
cuối cùng ông đã “nhốt“ cuộc chiến vào khi ra tù người ta gọi ông
bằng bác, có lẽ vì tóc ông bạc, nhưng không, ngày nào ông còn làm
việc với cái máy điện toán là ông còn sức sống… Tôi xin mượn câu nói
của một tên tù hình sự nói về ông tù già trong một câu chuyện của
Thảo Trường. “Bác” không thuộc về chế độ nào nữa, bác thuộc về lịch
sử. Bác Thảo Trường ơi! Bác cũng vậy. Mai sau đến lúc người ta phải
công nhận nền văn học hải ngoại này, bác không còn là nhà văn của
chế độ nào nữa. Bác thuộc về lịch sử. Chúng tôi hãnh diện vì có
bác.”
Hay nhà thơ Đỗ Quý Toàn ”Đây là một cuốn sách sẽ tồn tại trong lịch
sử Việt Nam. Đây không phải là tuyệt tác nhưng có nhiều đoạn tuyệt
tác. Về tay nghề Thảo Trường là lão luyện. Sự thành công của nhà văn
là sau 100 năm người ta có còn đọc mình hay không như cụ Nguyễn Du
300 năm sau vẫn còn có người đọc. Khi đọc Thảo Trường cách nay 40
năm tôi đã cảm thấy văn của ông sẽ sống. Và giờ đây tôi chắc là 100
năm sau người ta vẫn đọc ông… Đọc Thảo Trường chúng ta thấy sức sống
của một người khỏe mạnh. Trong lúc đấu tranh, cho dù vui buồn, ở đâu
cũng thấy sự sống, ngay cả trong cái chết cũng có sự sống. Thí dụ,
câu chuyện về người đàn bà Đồng Tháp, cuối cùng cũng có một đứa bé
ra đời …”
Nhà văn nữ Đặng Thơ Thơ thì: ”tôi đi vào thế giới những miểng vụn
của nhà văn Thảo Trường với tư thế của một người đi truy lùng quá
khứ. Tôi cầm trên tay cuốn sách này, quá khứ của nó nặng trĩu hơn
nửa thế kỷ. Nhà văn Thảo Trường, vốn sống của ông khủng khiếp, 17
năm vừa tham dự chiến tranh Việt nam vừa sáng tác, 16 nam 4 tháng 4
ngày trong những trại lao tù khổ sai,15 năm lưu vong ngoài quê hương
để viết về những kinh nghiệm sống của mình. Ba yếu tố chính làm nền
tảng và chủ đề cho mọi truyện ngắn và tiểu thuyết của ông là chiến
tranh, lao tù và hội nhập…”
Tôi cũng là một người đọc muốn viết lên cái cảm nghĩ thô thiển của
mình khi tiếp cận với văn chương của ông. Nhưng rốt cuộc tới gần cả
năm sau mới hoàn tất được một bài viết nhỏ. Chẳng phải tôi không có
hứng thú để viết mà cũng chẳng phải tác phẩm của nhà văn Thảo Trường
không lôi cuốn tôi. Trái lại là khác. Không biết có phải vì chính
tôi sợ không diễn tả được những chuyên chở của tác phẩm. Và cũng có
thể, tôi không muốn mình là một trong đám đông ấy. Tôi muốn tìm kiếm
cho được những nét khác thường của tác phẩm và tác giả Thảo Trường.
Nhưng xem ra, chủ đích ấy vẫn chưa hoàn toàn đạt được…
Nhiều người đã đồng ý rằng văn phong của ông có một cá tính riêng và
không gian thời gian cũng như nhân vật của ông đối với mọi người gần
mà xa, tưởng như hiển hiện trước mắt mà xa ngàn trùng. Thời gian
không chỉ ở ba thì quá khứ, hiện tại và tương lai mà còn có những
thời khắc mà hai chân của một người lại đứng ở hai mốc điểm khác
nhau và sự phân cách chỉ là một đường ranh mờ nhạt. Một điều lạ
lùng, cái không gian thời gian ấy có lúc tưởng gần kề như mới hôm
qua và trong cái sinh động hôi hổi ấy lại có sự trầm lắng của những
cảm quan có một thời kỳ tích chứa lâu dài…
Có lần tôi phỏng vấn nhà văn Thảo Trường. Khi đề cập đến phong cách
viết của mình, tác giả “Những Miểng vụn của tiểu thuyết“ bày tỏ:
“Tác phẩm là sáng tạo, nhưng đây đó có những chuyện giống giống
người này người kia hay nhân vật trong truyện xưng tôi thì cũng
không có nghĩa nhân vật là tác giả. Tất cả những gì mà cuộc sống của
tôi đã trải qua, những gì mà tôi chứng kiến, những gì mà tôi nghe kể
lại và những gì mà tôi đọc được ở sách vở thì đều có thể là chất xúc
tác khi xây dựng tác phẩm. Có khi tôi lượm nhiều mẫu đời vụn ở nhiều
nơi nhiều lúc sắp đặt vào một nhân vật. Đã có một người anh họ nói
đùa với tôi ”Coi chừng kể cho nó nghe nó lại “phang” mình vào trong
truyện thì bỏ mẹ!“ Cũng có khi tôi đem những cái mà mình gán vào một
nhân vật nào đó, như là mình cho mượn vậy, bởi vì chính mình, đã có
khi phải đi mượn những mối tình của người khác đặt vào chỗ của mình.
Riêng đời tôi, tôi chưa làm tác phẩm nào tự thuật. Tôi không có ý
định viết hồi ký.”
Thực ra, hình bóng của tác giả lúc nào cũng phảng phất trong từng
truyện. Cái quá khứ thật dài từ khi nhập ngũ vào lính đến lúc thành
tù binh cải tạo đã trở thành một mảnh đất cực kỳ phì nhiêu cho bông
hoa văn chương nở rộ. Tù mười bảy năm, trải qua bao nhiêu nỗi đoạn
trường, thì hỏi sao thời gian ấy không ảnh hưởng khi cầm bút. Hay
thời gian trong quân ngũ trước kia, lăn lóc từ chiến trường này đến
sa trường nọ, biết bao nhiêu là chuyện đáng nhớ. Hay thời gian ở xứ
người, một ông già lưu lạc bỡ ngỡ trước hiện tại mà tầm mắt thì luôn
ngoái nhìn lại quá khứ. Cái vốn sống tích lũy được của một đời người
có khi là động lực để viết nhưng cũng có khi là nỗi ám ảnh không
rời.
Thành ra, không lấy làm lạ khi ông nhiều khi nhìn ngắm cuộc sống
bằng con mắt đa nghi và với nụ cười chua chát. Mà sao không chua
chát cay đắng cho được khi thời thế như những bệt roi hằn in trên da
thịt mỗi khi đụng đến lại bỏng rát. Nhưng dù chua chát tình đời, dù
thiên hạ vẫn đầy ứ những quân gian tà, tâm của ông vẫn soi rọi vào
phần thiện hơn là phần độc ác. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo, có khi
loài vật đối xử với nhau còn tốt đẹp hơn loài người, vẫn có những
tấm lòng hào hiệp, vẫn có những người nắm tay cứu vớt người cơ nhỡ.
Và không phải trong những hoàn cảnh khốn cùng nhất, con người sẽ
quay mặt bỏ mặc nhau mà không giơ tay một phần chia sẻ khốn khó.
Khác với nhiều tác giả viết về tù ngục Công sản, ông không chú trọng
vào việc kể tội chế độ hiện hữu mà chỉ kể lại những chuyện thực đã
xảy ra bằng phong cách của một người coi mọi chuyện trên đời như một
trò đùa. Có nét của trạng thái cam chịu và cũng có nét của người đã
có qúa nhiều thất vọng nên bất cứ chuyện nào xảy ra cũng đều chấm
dứt bẳng câu “kệ mẹ nó”. Bất cần và cứ để mặc dòng đôi trong cái
khôi hài hóa mọi chuyện….
“…Tôi lẩn thẩn tìm ra cho mình một cách sống mà tôi gọi đùa là “chủ
nghĩa dựa cột”, biết thì thưa thốt không biết thì dựa cột mà nghe,
ai nói gì làm gì thây kệ người ta, ông bà mình dạy thế “Kệ mẹ nó!”
tôi thường tự nhủ với mình thế mỗi khi phải chứng kiến những cảnh
trái tai gai mắt xung quanh mình. Được xếp chỗ nằm ngay sát cầu
tiêu, tôi cũng thấy là một cái hay, đó là một chỗ không ai dòm ngó.
Một mảnh đất xấu ít có nguy cơ bị xâm lấn. Mùi hôi khai ngửi riết
rồi cũng quen sẽ không còn cảm thấy hôi khai nữa. Đúng ra, nếu chú ý
đến nó thì sẽ nghe thấy hôi nhưng nếu lắng nghe tất cả mọi nơi thì
chỗ nào cũng hôi cả, thế cho nên lại phải áp dụng sách “kệ mẹ nó”
cho qua tất cả …” (trong truyện ngắn “Khẩu hiệu”)
Đời sống của tác giả Thảo Trường như bàng bạc trong từng dòng chữ
của ông. Ngày xưa Hàn Dũ đời Đường đã nói ”Bất đắc kỳ hình tắc minh”
(“Đại phàm vật nào cũng vậy, không được bình yên thì kêu. Cỏ cây vô
thanh, gió thổi nên kêu; nước kia vô thanh, gió xô nên kêu… Vàng đá
vô thanh, đánh gõ nên kêu. Người ta đối với lời nói cũng vậy có sự
bất đắc dĩ sau đó mới phát ra lời, giong ca cũng mang tâm tư, tiếng
khóc cũng chứa hoài niệm. Phàm buộc ra đằng mồm mà thành thanh âm
đều do có sự bất bình chăng?) Có người đã luận thêm ra cho rằng các
tác phẩm văn học đều phát sinh từ mâu thuẫn giữa tác giả và xã hội.
Với Thảo Trường, xã hội này là của chế độ mới, của những người chiến
thắng. Và, bản thân tác giả là người bị thua trận và đời sống bị hạ
thấp xuống đến nỗi ông đã có những ý nghĩ so sánh với loài vật như
những con bò của trại tù. Dù, đã nhiều năm trôi qua, nhưng những hồi
ức ấy cứ canh cánh trong lòng và bất cứ một ý nghĩ nào, một suy
tưởng nào cũng đều có những mảng đời sống của những ngày tù ngục
chen vào. Khi sống ở Hoa Kỳ, trong gia đình yên lành nhưng vẫn vướng
bận những suy tư của ngày lao ngục cũ.
Trong những nhân vật của ông, bàng bạc hình dạng của người lính,
người tù và người lưu lạc. Mà, hình bóng người tù hình như lúc nào
cũng xuất hiện không ở mặt này thì cũng ở góc cạnh khác. Nếu nói về
những ngày ở Mỹ của ông mà dùng từ “hội nhập” thì e không chính xác
lắm. Có lẽ, còn lâu lắm, những người như “ông già“ Thảo Trường hội
nhập được vào xã hội chuyển động tới mức chóng mặt ở xứ sở này. Mặc
dù, ông là một HO may mắn, không phải đánh vật với sinh kế. Lúc
trước khi nhà văn Long Ân còn sống, khi đến chơi ở nhà ông, anh
thường gọi đùa ông là một HO ”happy”. Nhưng, câu tả chân “trong héo
ngoài tươi“ hình như vẫn đúng. Những tiếng thì thầm trong bụi tre
gai ông vẫn còn nghe. Những đau đớn của người ông vẫn còn cảm thấy.
Và có lúc ông đã tuyên bố ông viết văn là là công việc “để đời”
tương tự như việc khắc họa một chứng nhân lịch sử cho đời sau.
Thảo Trường có những nhân vật đặc thù trong tác phẩm của ông. Như
đứa bé sinh thiếu tháng mà người mẹ không biết cha của nó là ai, ở
bên này hay phía bên kia của “Người đàn bà mang thai trên kinh Đồng
Tháp”. Hay đứa bé là kết quả của một cặp tù nhân làm tình với nhau
giữa hai hàng rào kẽm gai và người mẹ kiên quyết giữ lại đứa con dù
bị đấm đá giữa lúc mang thai của đám công an lòng dạ độc ác và trơ
trơ như gỗ đá của “Những đứa trẻ đầu thai giữa hàng rào”. Ở Việt
Nam. chỉ có trẻ sơ sinh mà bị tù tội vì mẹ của nó bị án…
Thảo Trường kết luận những câu chuyện bằng những dòng nhắn tin. Như
đùa, như thật, ông hí lộng và tạo ra một cuộc đối thoại với nhân vật
của mình. Có thể coi như một thông điệp, dù có thể rớt vào hư vô ;
nhưng cũng là thông điệp để gửi cho lớp sau như ”cậu thanh niên ra
đời sẩy thai thiếu tháng, mang họ nhờ“ của truyện “Khẩu hiệu“ hay
“cậu nhỏ mang dòng họ cùng với tôi, hai mươi năm nữa“ của “Người đàn
bà mang thai trên kinh Đồng Tháp“. Tác giả muốn gửi theo cả những
mảnh đời bị lốc xoáy theo chiến tranh. Một cuộc chiến kỳ quặc mà cả
kẻ gây ra và người cam chịu đều trở thành nạn nhân…
Khi đề cập đến động lực đầu tiên thúc đẩy cầm bút thì ông giãi bày:
“Hình như đầu tiên là nhân vật. Tôi vớ được một nhân vật nào đó
ngoài đời làm cho tôi chú ý, nó bắt tôi phải suy nghĩ xung quanh
nhân vật đó và những sự kiện lời nói và hành động tình tiết cùng
những băn khoăn mang những ý nghĩa của đời sống, có lý hay phi lý...
Rồi có khi những ý nghĩ của mình bay về quá khứ hay mịt mùng ở một
nơi xa xôi nào đó, ý nghĩ bay đi lộn lại quần thảo một hồi xong có
khi sắp xếp để đấy, rồi một lúc nào đó nó lại xẹt ra, lai quần thảo.
Những cơn vật vã như thế sẽ nảy sinh nhiều vấn đề, nói khác đi là có
lúc nó sẽ nảy ra đề tài, một đề tài hay nhiều đề tài, loại bỏ và
chọn lựa... cho đến khi sự xúc cảm đem đến cho mình niềm thích thú
thì dùng bút pháp riêng của mình mà thể hiện nó ra. Cũng có khi phải
“cất“ nó nằm yên trong “bộ nhớ” ở trong đầu mình nhiều năm, thời
gian cất đi để dành này có thể “nó“ còn được nhào nặn thêm qua nhiều
suy tư nữa. Trường hợp những truyện ngắn hình thành mà tôi phải “cất
đi” lâu nhiều năm là những hình thành trong thời gian ở tù Cộng Sản.
Qua Mỹ tôi mới thể hiện nó ra. Bây giờ tôi cũng đang đi tìm nhân
vật. Tôi tìm trên đường phố ngõ hẻm, và các thành phố Mỹ …”
Nhân vật phác họa từ con người. Có người nhận xét rằng những tác
phẩm văn chương viết về ngục tù Cộng Sản không có tính trường cửu mà
chỉ có tính phản ánh nhất thời một giai đoạn của cuộc sống còn viết
về con người muôn năm bất biến mới là đề tài lớn. Nhưng ông lại quan
niệm “Đúng là con người lớn và trường cửu đối với con người. Chỉ khi
nào không còn con người nữa thì may ra lúc đó vấn đề mới … nhỏ đi và
tầm thường. Tác phẩm có thể giúp cho người ta hiểu được vào giai
đoạn ấy, nơi ấy, cái thời thế ấy nó như thế. Vài ba trăm năm nữa hậu
duệ của chúng ta có khi phải đi đào xới nơi này nơi khác để tìm kiếm
những di chỉ hoặc là phải lúc đi tìm sách vở báo chí tài liệu trong
các thư viện để xem nền văn minh Cộng Sản nó là gì. Nếu thế thì một
tác phẩm văn nghệ cũng có thể chứa đựng một thế giới riêng trong cái
thời đại tác giả đã sống. Mở truyện Kiều ra đọc, chúng ta biết được
cái thời thế của cụ Tiên Điền đã sống. Vấn đề này lớn quá và phải
nói dài, có lẽ phải hỏi các vị giáo sư hay các nhà nghiên cứu, phê
bình…”
Với tham vọng nhốt cả cuộc chiến trong một truyện ngắn nên nhiều khi
ông lửng lơ giữa truyện ngắn và truyện dài. Những truyện vừa như
“Mây Trôi” hay ”Từ dưới đỉnh đồi nhìn lên chân núi“ với những nhân
vật mà cuộc đời của họ có thể khai triển thành một bộ trường thiên
với tất cả những tình tiết. Ở “Mây Trôi“ phần đầu của truyện vừa này
với hai cặp nam nữ một vợ của một anh lính bên thua trận với một anh
bộ đội phía thắng nhưng mù mắt và một nữ cán bị tù quen một anh sĩ
quan tù binh trong trại để thành một cặp tình nhân khi người chồng
là anh thượng úy hậu cần ngậm miệng ăn tiền. Nhưng phần sau lại từ
người con gái vượt biên sang Mỹ để mở ra một cuộc sống và một cuộc
tình bệnh hoạn giữa một người đàn bà “bi-sex“, một chàng thủ dâm và
một nàng tị nạn ngất ngơ giữa đời sống mở ra đầy phức tạp khuất
khúc… cả một thời gian dài và không gian rộng được ”nhốt” trong một
truyện vừa nên trong cách diễn tả thông diệp để chữ nghĩa chuyên chở
chưa được như ý muốn. Truyện “Từ dưới đỉnh đồi nhìn lên chân núi“
với nhân vật nàng kiều, người chồng và người tình mở ra hai đời sống
từ lúc nàng trở thành mồ côi vì chiến cuộc rồi thành người ở, rồi
thành người vợ bất đắc dĩ với anh chồng khùng điên, rồi thành gái
bán ba rồi thành me Mỹ nhưng lúc nào trong tâm vẫn nhớ người tình
đầu thuở vừa mới lớn cho đến khi chồng Mỹ chết hội ngộ trở lại với
người tinh. Người chồng bản xứ, một trung tá Không quân Mỹ. một
người giàu có nhưng lúc nào cũng muốn trốn tránh đời sống vật chất
hưởng thụ dư thừa. Người tình thuở đầu đời của nàng Kiều, một sĩ
quan của QLVNCH, chịu bao nhiêu cảnh tù đầy nghiệt ngã nên lúc nào
cũng sống miễn cưỡng trong bất cứ trường hợp nào. Với những mẫu nhân
vật như thế với đời sống phong phú như thế mà “nhốt“ trong chỉ hơn
ba mươi trang sách và diễn tả được những nỗi niềm tâm sự kể ra là đã
thành công.
Thế mà, tác giả lại viết trong bài tạp ghi ngắn:
”Hồi ở Việt Nam tôi đã viết một truyện dài (Bà Phi) khoảng hơn 2000
trang, biến cố năm 1975 bản thảo bị thất lạc, nay đã sưu tập lại gần
đầy đủ nhưng chưa xuất bản.
Mười bảy năm (1975-1992) làm tù binh trong các trại giam của Cộng
sản tôi luôn luôn nghiền ngẫm trong lòng một quyển trường thiên tiểu
thuyết dự định sẽ viết khi rời khỏi nơi chốn đó.
Nhưng 12 năm qua tôi chỉ viết ra những truyện ngắn nếu gộp lại cũng
khoảng 1000 trang in.
Truyện nào tôi cũng muốn nó thật ngắn và chứa được cả cuộc chiến
trong đó, mỗi khi xong một cái tôi lại cảm thấy là chưa đủ, phải làm
cái khác, cứ thế, từ cái này sang cái kia. Bây giờ nhìn lại tôi có
cảm giác ”trường thiên tiểu thuyết” của tôi đã nổ tung ra, giống như
tôi đã đánh vỡ pho tượng khổ nạn cưng chiều bấy lâu nay của tôi
thành nhiều mảnh vụn. Những chất liệu dự tính dùng trong truyện dài
đã đem xử dụng vào các truyện ngắn gần hết. Đời tôi đã gặp nhiều
thất bại, đây có lẽ là một thất bại lớn.
Tôi lại nghĩ nếu gom những miểng vỡ trong các tập truyện in ở hải
ngoại những năm qua, chắp nối, sắp xếp, hàn gắn chúng lại với nhau,
thêm bớt vài dấu chấm phết, đặt tên những nhân vật chưa có tên, tùy
theo cách thức của mỗi người đọc may ra biết đâu nó sẽ hóa thành
những tiểu thuyết theo ý từng người.”
Nhưng thật ra, cần gì phải “sắp xếp, chắp nối, hàn gắn”, những
truyện ngắn mang tên Thảo Trường đã hiển lộng từng bước đi của lịch
sử qua những mảng đời và những phận người trôi dạt trong lốc cuốn
thời thế. Thưa anh Thảo Trường, anh đã thành công chứ chẳng phải
thất bại đâu trong ý định làm sống lại lịch sử bắng văn chương!
Nguyễn Mạnh Trinh |