Nghĩ về một cuốn sách
về 30 tháng tư 1975 in trong nước
Trước
năm 1975, văn học miền Bắc là một nền văn học đầy tiếng súng. Tất cả
nỗ lực đều dồn vào chiến tranh và văn học trở thành những cổ võ cho
mặt trận. Văn chương là để viết về những anh hùng và trong xã hội
ấy hình như có rất nhiều “anh hùng”, mà hành động của họ dường như
chỉ thích hợp với những chuyện phong thần....
Sau năm 1975, chiến tranh vẫn còn âm hưởng nhưng văn học càng về sau
thì nhiều đề tài xen kẽ hơn và đến thời đổi mới thì chủ đề ấy xem ra
không còn vị trí độc tôn nữa. Ở thời kỳ kinh tế thị trường, những đề
tài như tính dục hay bạo lưc xã hôi đen xem ra hấp dẫn hơn những
hình tượng anh hùng nhàm chán của thời xa xưa.
Nhưng như vậy không phải là đường tự do, ai muốn đi đâu thì đi, mà
vẫn có một con đường được tuyên huấn chỉ định. Tất cả phải đi vào lề
bên phải và ai mon men ra khỏi phạm vi ấy thì sẽ bị biện pháp ngay.
Có thể bằng biện pháp hành chánh, tịch thu sách, cấm viết trên các
tờ báo hoặc nếu trầm trọng thì có thể bị tù đày, giam cứu…
Hiện nay, tình trạng Trung Quốc ức chế Việt Nam trên mọi phương
diện, kể cả kinh tế, chính trị lẫn quân sự đã thành bức xúc cho
những người còn nghĩ đến tương lai của đất nước dân tộc. Thế mà, cả
cái hội nhà văn và cả những đội ngũ trí thức của Đảng cứ câm miệng
hến. Tôi đọc một bài viết của Nguyễn Hoàng Văn bàn phiếm về truyện
trên mà vừa bật cười vừa buồn bã: ”Tiên sinh tại đào”:
“... Nhà thơ Bùi Minh Quốc thắc mắc tại sao ông Hữu Thỉnh và các nhà
văn do ông quản lý vẫn chưa lên tiếng trong vấn đề Hoàng Sa –Trường
Sa.
Hẳn nhà thơ Bùi MinhQuốc còn nhớ Hội Nhà Văn của cái thời sôi nổi
năm 1999 khi khối NATO oanh tạc Belgrad để buộc Serbia phải rút quân
ra khỏi Kosovo. Lúc đó dưới sự chỉ huy của cây sáo trưởng Ban Văn
Hóa Tư Tưởng Trung Ương, hội
phản đối rất nhịp nhàng, rất bài bản lớp lang và rất quyết liệt,
quyết liệt đến độ có nhiều hội
viên đòi thành lập đoàn chí nguyện quân cho họ góp máu với Serbia,
trong đó, tiên sinh “thổi” hăng nhất tôi nhớ không lầm là nhà thơ
Nguyễn Duy.
Hôm nay thì khác, Ban hợp xướng “Hướng về Trường Sa - Hoàng Sa”
không dấy lên từ những cây sáo trưởng ở những ban bệ thiên đình mà
từ những nhà thơ, nhà văn, những nhà báo tự do đơn độc “ở ngoài xã
hôi. Yêu nhân loại theo chỉ thị của hệ thống chính trị cầm quyền
khác với yêu nước bằng trái tim đơn độc của mình nên, tới đây, có
thể mượn đoạn kết một câu trong chuyện người thổi sáo: Thế là tiên
sinh tại đào!...”
Bây giờ, đã đến ngày 30 tháng tư năm 2009, quay trở lại thời kỳ ấy,
bạn có suy nghĩ nào về ngày 30 tháng tư năm 1975? Với tôi, thời gian
gần 35 năm quả thực khá dài nhưng những tâm cảm ngày nào tới bây giờ
hình như vẫn còn. Và đó cũng là những khoảng cách để nhìn lại một sự
kiện lịch sử. Nhất là để nhìn lại cái mà Việt Cộng gọi là “văn học”.
Chữ nghĩa được dùng để phục vụ chiến tranh nên sau một thời gian
ngắn đã thành những trang giấy bẩn…
Đọc đại một cuốn sách của Việt Cộng về ngày 30 tháng tư để xem họ
viết ra sao và tôi đọc cuốn “30 tháng 4” do nhà xuất bản chính thức
của nhà nước mang tên thành phố Hồ Chí Minh. Tập sách có nhiều bài
viết của những người lãnh đạo như Lê Khả Phiêu, Võ Trần Nhã, Nguyễn
Trần Thiết, Thành Tín (tức là Bùi Tín),... và cũng có những người
theo đuôi như Ngụy Ngữ, Sơn
Nam.
Đọc lại những bài viết, thấy cùng một giọng, khoa trương đến lố bịch
và tự hào của những kẻ hãnh tiến khi thấy mình thành công. Đọc những
bài như “Tiến vào Sài Gòn“ của Lê Khả Phiêu, hay “Đòn quyết định
cuối cùng” của Nguyễn Viết Tá đều cũng giống nhau một giọng nên
chẳng có điều gì đáng đề cập đến. Văn chương để tuyên truyền!
Nhưng đọc lại bài viết của Võ Trần Nhã “Ngày cuối cùng cuộc chiến
tranh của Sài Gòn“ ghi lại chuyện của Nguyễn Văn Diệp, một tay thân
cộng nhưng lại làm bộ trưởng kinh tế thương mại của nội các VNCH của
thủ tướng Trần Thiện Khiêm và Nguyễn Bá Cẩn mới thấy sự thật và
những điều không thật trộn lẫn vào nhau để thành một sự kiện có thể
làm sai lạc lịch sử. Ở đó, mới thấy được sự đón gió theo thời của
một trí thức và những hành động để tiếp tay cho chủ trương chủ bại,
đòi thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định
Paris.
Và những chuyện ấy được kể lại và đọc trong “Hội nghị Khoa học Lịch
sử về chiến dịch Hồ Chí Minh” để ghi công nhưng chẳng được gì vì
“anh ta đã già và đây là một hồi tưởng của một người có mặt trong
một biến cố lịch sử” (Võ Trần Nhã đã ghi chú như thế)…
Đọc bài của Thành Tín tức Bùi Tín, một người bây giờ phê bình hết
sức nặng lời với chế độ hiện hữu, cũng viết lại những sự kiện bằng
lối nói phách lối ngạo mạn và ca tụng chiến công một cách tự mãn.
Đọc “Nhớ những ngày tháng 4” từ “Cánh rừng Dầu Tiếng” đến “Sài Gòn
những khuôn mặt trẻ thân quen”, từ đoạn này sang đoạn khác cũng là
lối nhìn và diễn tả thiên kiến và một chiều. Ngay như đoạn viết về
tên phản bội Nguyễn Thành Trung ”Người ném bom xem vết bom của chính
mình” cũng chỉ là những ghi nhận lại vụn vặt nhưng có ý tán dương
cái ”chính nghĩa“ mà bây giờ ông ta phê phán và kết tội…
Lại đọc “Ba lòng ngày đó“, một hồi ức của Ngụy Ngữ mà sau này thanh
một văn nô của chế độ, viết về những ngày 30 tháng 4 ở trại tù Ba
lòng nơi giam giữ các người mà được gọi là “tù ngụy” để thấy được
cái gian dối của người cầm bút. Ông ta phác họa lại cái không khí
vui mừng đón chờ của những tù binh và sự thân ái của người coi tù và
tù binh (có lẽ ông ta đang kể về chuyện thân ái giữa mèo và chuột).
Bao nhiêu người bị bắt làm tù binh khi vùng I và vùng II và đều kể
lại cái tâm trạng buồn thảm và đau đớn của những người bị mất tất
cả. Trong khi đó Ngụy Ngữ thì lại bày tỏ cái tâm cảm vui sướng trái
ngược lại. Có lẽ, “Con Thú Tật Nguyền” ấy đã “Tôi không về từ nhà
giam mà là trại cải tạo, không phải tha về luôn hay hay trốn về mà
là được về phép, về có gạo tiền ăn đường đi bộ và cả mấy cuộn mây
ban chỉ huy gửi theo tặng gia đình, nghỉ ngơi vài hôm xong tôi sẽ
lên trại thêm một thời gian nữa...”
Đọc bọn Cộng sản đã chán mà đọc cái bọn theo thời cách mạng nửa mùa
còn chán hơn!!! Đọc Sơn Nam với bài “Trước lúc bình minh“ cũng thế,
thở than bị cơ quan an ninh VNCH bắt giữ cho đến khi Việt Cộng chiếm
được Sài Gòn. Lại cũng xưng tụng kẻ thắng và mạt sát người thua…
Đọc cuốn sách xong, tự hỏi mình giữ lại cuốn sách này làm gì? Mặc dù
là người yêu quý sách vở tôi không có chọn lựa nào là vứt nó đi.
Cũng như, bỏ đi những trang sách viết để cổ võ giết người của một
nền văn chương tuyên truyền mà từ bao lâu nay ở miền Bắc trước 1975
và trong nước sau này vẫn đầy dẫy…
Từ xưa tới nay, chiến tranh vẫn là một đề tài lớn của nhân loại.
Những danh tác như “Chiến Tranh và Hòa Bình”, như “Mặt trận miền Tây
vẫn yên tĩnh”,… đã phác họa lại một thời nhưng lại sống lâu cả đời
và thành những tác phẩm “classic” tiêu biểu. Viết về chiến tranh của
những thời đại khác nhau, nhưng vẫn là viết về một con người muôn
thuở. Do đó, từ những chân dung ấy, những người sống ở các thế hệ
sau dễ dàng bắt gặp những tần số chung để có sự chia sẻ…
Chiến tranh ở Việt
Nam,
suốt mấy chục năm, đã trở thành chuyện bình thường. Bao nhiêu là
biến cố, bao nhiêu là sự kiện, viết hoài cũng chưa hết, kể hoài cũng
chưa đủ. Thậm chí cho đến nay, tiếng súng đã hết từ ba mươi năm,
nhưng chiến tuyến hình như vẫn cón ẩn hiện giữa những người Việt với
nhau. Kêu gọi hòa giải, thúc giục đoàn kết, đôi khi chỉ là những
chiêu bài cho những tính toán, mưu đồ riêng.
Trong văn chương, trong nghệ thuật, đã thấy những dấu hiệu. Giơ tay
mời trở về, không phải vì tình tự dân tộc, mà vì cái túi tiền, vì
chất xám của người trở về. Còn người quy cố hương, chưa hẳn vì muốn
góp công góp sức cho đất nước, mà, còn nhắm vào những lợi lộc sẽ có,
đến những mục tiêu cá nhân.
Trước năm 1975, ở miền Bắc Việt
Nam,
đã có một nền văn học phục vụ chiến tranh. Một giàn hợp xướng vĩ đại
được Đảng thành lập với chủ trương hy sinh tất cả cho chiến tranh.
Chủ trương ấy đã được đầu nậu văn nghệ Tố Hữu viết thành thơ:
“dẫu một cây chông trừ giặc Mỹ
hơn ngàn trang sách luận văn chương”
Cũng như những đề cương văn hóa của Trường Chinh viết từ những năm
đánh Pháp tới về sau là những kim chỉ nam để các văn nghệ sĩ noi
theo. Từ hình ảnh anh vệ quốc quân thời kháng Pháp đến anh bộ đội
thời chống Mỹ, chỉ là một, những con người quên mình vì lý tưởng,
luôn lạc quan dù cả những khi biết mình sẽ bị hy sinh như một con cờ
làm chốt thí. Về văn xuôi, về thơ, và nhất là ở thể ký, tất cả như
một giàn đồng ca cùng một giong điệu, một cung bậc. Nếu có ai đi ra
ngoài hạn định sẽ bị phê bình và tự nhiên bị loại ra khỏi sinh hoạt
văn chương ngay.
Thời chống Pháp, chiến tranh được ghi dấu lại với những bài thơ của
Tố Hữu, Quang Dũng, Chính Hữu, Hoàng Cầm, Hồng Nguyên, Hoàng Lộc.
Hữu Loan,… Hình ảnh anh bộ đội là đề tài tập trung của văn học.
Những áng văn xuôi như “Trận Phố Ràng” của Trần Đăng, “Voi đi“ của
Siêu Hải, “Bên đường 12” của Vũ Tú Nam, “Xung kích“ của Nguyễn Đình
Thi,… đều là những lời kêu gọi hy sinh, toàn là mô tả những gương
anh hùng, những người không nghĩ đến cá nhân mình khi liều mình vào
trận chiến. Những bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, những Đêm Liên
Hoan và Bên Kia Sông Đuống của Hoàng Cầm, những Nhớ của Hồng Nguyên,
những Các Anh Về của Hoàng Trung Thông,… góp phần vào dòng văn học
viết về chiến tranh thời đó.
Nhưng, lại bị phê bình chỉ trích kịch liệt. Những bài thơ của Quang
Dũng, được coi như là những bài thơ tuyệt tác đỉnh cao của thi ca
kháng chiến thì bị Tố Hữu cho đó là “tư tưởng sa đọa, văn hóa suy
đồi“. Quang Dũng vì mấy bài thơ bị ghen tài mà suốt cả đời lận đận.
Bài “Nhớ“ của Hồng Nguyên cũng bị Hoài Thanh kết án là “yếu đuối ủy
mị” và có ngôn ngữ của thái độ trịch thượng, xa cách với đồng bào,
nhất là quảng đại dân chúng bình dân ít học.
Lưu Trọng Lư thì quy tội bài thơ “Không đề” của Nguyễn Đình Thi có ý
tưởng sai lạc, tư tưởng tiêu cực, ngôn ngữ hiu hắt và đòi phải xóa
tên Nguyễn Đình Thi khỏi danh sách những thi sĩ của vương quốc thi
ca. Và chính Lưu Trọng Lư cũng bị Hoài Thanh sửa lưng trong cuốn
sách “Nói chuyện thơ kháng chiến“ nào chê bai là bi quan không tin
tưởng vào Đảng và chính nghĩa và đòi phải sửa những câu thơ trong
bài “Ngò cải đơm hoa”. Lưu Trọng Lư tức giận nhưng vì bị áp lực nên
đành sửa chữa để một bài thơ hay trở thành một bài thơ dở…
Một phong trào viết về những người lính anh hùng được phát động sau
khi Trường Chinh đọc báo cáo “Thi đua ái quốc và chủ nghĩa anh hùng
mới”. Những nhà văn tên tuổi được chỉ định để viết về từng người
được phong tặng chiến sĩ anh hùng. Nguyễn Xuân Sanh viết về Trần Đại
Nghĩa, Nguyễn Huy Tưởng viết về Ngô Gia Khảm, Vũ Cao viết về Nguyễn
thị Chiên, Tô Hoài viết về Kim Đồng, Vũ Tú Nam viết về La Văn cầu,
Từ Bích Hoàng viết về Nguyễn Phú Vỹ.... Và sau này khi in thành tập
truyện Anh Hùng Chiến Sĩ Thi Đua và được giải thưởng văn học ngoại
hạng… những hình tượng anh hùng này không hiểu có thực trên cõi đời
không hay chỉ là trong tưởng tượng như anh hùng Lê Văn Tám liều mình
để đốt kho xăng của thực dân Pháp?…
Đến thời kỳ chiến tranh ở miền
Nam
sau này khi bắt đầu những hành động vũ trang, chiến tranh lại có mặt
và giàn đồng ca lại nổi lên mạnh mẽ hơn với những giọng hợp xướng
quen thuộc. Nguyễn Hưng Quốc viết trong “Văn Học Việt Nam Dưới Chế
Độ Cộng Sản”:
“Dấu vết chiến tranh hiện hình ngay trên những tựa sách. Thơ nào là
Ra Trận (Tố Hữu), nào là Gửi Chiến Trường Chống Mỹ (Hòang Tố
Nguyên), nào là Những Bài Thơ Đánh Giặcb(Chế Lan Viên), nào là Chiến
Trường Gần Đến Chiến Trường Xa (Huy Cận), nào là Hoa Dọc Chiến Hào
(Xuân Quỳnh), nào là Trong Gió lửa (Hoàng Trung Thông)...
Văn xuôi cũng thế. Cũng hừng hực không khí chiến tranh Chế Lan Viên
viết Những Ngày Nổi Giận (1966). Nguyễn Đình Thi viết Vào Lửa
(1966), Hữu Mai viết Phía trước là Mặt Trận (1966) Hồ Phương viết
Nhắm Thẳng Quân Thù Mà Bắn (1968), Lê Văn Thảo viết Ngoài Mặt Trận
(1969), Vũ Cao viết Từ Một Trận Địa (1969), Nguyễn Khải viết Họ Sống
và Chiến Đấu (1966)…
Thật ra văn học Cộng Sản từ năm 1945 đến nay lúc nào cũng là một nền
văn học chiến tranh. Lúc nào trên trang sách cũng vang vang những
tiếng súng nổ. “Nay ở trong thơ nên có thép. Nhà thơ cũng phải
biết xung phong. Hai câu thơ của Hồ Chí Minh đã được coi như một
cương lĩnh sáng tác cho tất cả mọi người. Tuy nhiên chưa có lúc nào
dấu vết của chiến tranh lại rõ rệt lại bao trùm trong toàn bộ nền
văn học của Cộng Sản như trong gia đoạn 1965-1975.
Viết về miền Nam, viết về vùng trời, vùng biển, viết về những nơi
gọi là “tuyến lửa“ như Quảng Bình, Nghệ An,... người ta mô tả như là
trung tâm của cơn bão. Ngay cả khi viết về những đề tài như nông,
công nghiệp người ta cũng coi chiến tranh như một cơn bão rớt gió dữ
vẫn lồng lộng thổi tới len vào tận các ngõ ngách trong tâm trạng con
người. Không có cảnh ngộ nào, kể cả lúc hai người con trai con gái
đang tỏ tình với nhau, chiến tranh lại không là một ám ảnh…”
Nhưng cũng có những giọng ca lạc điệu trong giàn hợp xướng ấy, Như
bài thơ “Vòng trắng“ của Phạm Tiến Duật có những câu như:
Khói bom lên trời thành một vòng đen
Trên mặt đất hiện lên bao nhiêu vòng trắng
………
có mất mát nào lớn bằng cái chết
khăn tang vòng tròn như một số không.
Những câu thơ ấy không được chấp nhận. Từ những hình ảnh để đến
những liên tưởng, từ vòng đen của khói bom đến vòng trắng của khăn
tang rồi con số không của tận cùng mất mát, cái thông điệp của chiến
tranh đầy những suy tư khốc liệt. Dù rằng trong bài thơ có đoạn kết
khá có hậu:
“Tôi và bạn tôi đi trong im lặng.
Với cái đầu bốc lửa ở bên trong.”
Tạp chí Học Tập đã phê phán gay gắt: ”Giữa lúc cần nói to lên niềm
sung sướng tự hào về cái được vĩ đại của nhân dân ta trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ thì nhà thơ chỉ thấy cái mất, chỉ thấy tang tóc
đau thương và than thở...”
Thế là, âm hưởng của những bài thơ như “Trường Sơn Đông, Trường Sơn
Tây” lại mất đi trong lỗ tai những lãnh đạo văn nghệ. Và, cái án
treo lại lơ lửng với thi sĩ họ Phạm…
Lưu Quang Vũ, một nhà đạo diễn kịch tài ba, viết kịch bản cũng xuất
sắc và là một nhà thơ đã thức tỉnh về chiến tranh khá sớm. Những câu
hỏi luôn đặt ra trong thơ ông, như những gút mắc càng ngày càng thắt
chặt không gỡ bỏ được. Những câu thơ như:
“giữa chiến tranh hiểu đời thực hơn nhiều.
Rách tan cả những làn sương đẹp phủ.”
Hay
“khi con người giết nhau
Những lá thư không biết gửi về đâu
Những hải cảng không có tàu cập bến…”
Bài thơ “Việt
Nam
ơi!” có những câu như:
“... tổ quốc là nơi tỏa bóng yên vui
nơi nghĩ đến lòng ta yên tĩnh nhất
nhưng nghĩ đến Người lòng tôi rách nát
xin Người đừng trách giận Việt
Nam
ơi
Người có triệu chúng tôi, tôi chỉ có một Người
Tất cả sẽ ra sao
Mảnh đất nghèo máu ứa?
Người sẽ đi đến đâu
Mà Việt
Nam
đói khổ?
Đến bao giờ bông lúa
Là tình yêu của Người?...”
Những câu hỏi cho lãnh tụ, những vấn nạn khó cho chính người đặt ra.
Lưu Quang Vũ nhìn thấy được cái chiêu bài thúc giục hy sinh và hiểu
được cái vô nghĩa của hành động bắn giết, và cả một thời kỳ, ông bị
đầy ải cực nhục, sống không ra sống, chết chẳng ra chết. Nếu không
có tình yêu với Xuân Quỳnh, có lẽ ông không ngóc lên được…
Cái chết của gia đình Lưu Quang Vũ – Xuân Quỳnh đầy những nghi vấn.
Những vở kịch của Lưu Quang Vũ chuyên chở thật nhiều những ý hướng
muốn thay đổi xã hội và nhắm vào những tiêu cực của một chế độ với
những ngôn ngữ và ý tưởng đầy ẩn dụ. Và, chính vì nói lên được cái
tâm tư chung của nhiều người nên có lúc đã thành tiếng nói của một
thời đại mà chiến tranh tuy đã dứt tiếng súng nhưng vẫn còn ác liệt.
Có người đã phát biểu rằng những ký sự hoặc tiểu thuyết chỉ viết về
một nửa sự thực bởi giới tuyến đã làm tầm nhìn bị phân cách và sự
chủ quan đã làm những nhận xét bị thu hẹp lại và một chiều. Nhất là,
khi văn chương bị chỉ đạo chặt chẽ bởi chính sách đường lối của Đảng
như ở Việt
Nam.
Trong tạp chí Văn Nghệ Sông Cửu Long, nhà văn “Việt Cộng” Nguyễn
Khắc Phê viết: ”Theo tôi, một nguyên nhân không kém phần quan trọng
khiến cho các tác phẩm viết về chiến tranh chưa thỏa mãn được người
đọc là quan niệm, cách nhìn về chiến tranh, về người anh hùng, vì lẽ
này, lẽ khác còn phiến diện. Do đó chiền tranh hiện ra trên trang
sách không sinh động thường chỉ một chiều diễn tả, chứng minh “ta
thắng địch thua” và người anh hùng thì thường đơn giản, xơ cứng…”
Nhưng theo nhà văn này, cũng có những tác giả dám viết ra một phần
sự thực, dù sau đó bị phê bình, kiểm thảo tơi bời. Như tiểu thuyết
“Đất Trắng“ của Nguyễn Trọng Oánh, “Nỗi Buồn Chiến tranh“ của Bảo
Ninh, “Người lính đào hoa“ của Nguyễn Việt, “Sông dài như kiếm“ của
Nguyễn Quang Hà.
“Đất trắng“ là một tiểu thuyết viết về vùng đất chiến tranh khốc
liệt ở Quảng Trị cũng có những nhân vật anh hùng chiến đấu kiên
cường nhưng cũng có mẫu nhân vật hèn nhát đào ngũ như một chính ủy
thuộc thành phần trung kiên của Đảng.
“Nỗi buồn chiến tranh” là một tiểu thuyết mô tả lại tâm tư của một
lớp thanh niên bị đẩy vào cuộc chiến với chiêu bài giả tạo chống Mỹ
cứu nước. Qua những trang sách những cực kỳ bi thảm của chiến tranh
được phô bầy, những cuộc đời lỡ làng sau chiến tranh, những hy sinh
vô lối của một cuộc chiến vô nghĩa.
”Người lính đào hoa“ là chuyện kể về một anh chàng lính trẻ có số
đào hoa, yêu đương cũng hết mình và chiến đấu cũng xuất sắc. Nhưng
bên cạnh chân dung chiến sĩ ấy, cũng có những bóng dáng của cấp chỉ
huy hèn nhát, lại ham danh cướp công của cấp dưới mà lại còn mê gái
và dâm đãng nữa.
“Sông dài như kiếm” cũng là một tiểu thuyết viết về những ngày tháng
chiến đấu gian khổ và cũng có những cấp chỉ huy nhỏ mọn, kèn cựa,
thâm hiểm, và thích hưởng thụ, khoái ăn ngon, gái đẹp…
Tất cả những tiểu thuyết trên đều bị phê bình là sao làm vẩn đục
cuộc chiến tranh mà họ gọi là thần thánh bằng những nhân vật, những
tâm tư như thế. Và có nhiều nhà phê bình cực đoan đã chụp mũ: Đó có
phải là một cách chống đối chế độ có ý thức không?
Bảo Ninh, trong một bài phỏng vấn của phóng viên Sinh Viên Việt
Nam
đã phát biểu:
“Hỏi: Trong Nỗi Buồn Chiến Tranh, độc giả cũng được tiếp cận rất
mạnh với một dòng văn học gọi là “dòng ý thức”. Có người gôi đó là
“một sự phủ nhận về hình thức, một sự phá vỡ bố cục truyền thống”.
Còn trong tác phẩm anh viết rằng ”...Đây là một sáng tác dựa trên
cảm hứng chủ đạo của sự rối bời. Tôi không muốn nói là điên rồ”.
Jean Paul Sartre có nói rằng ”Kỹ thuật của tiểu thuyết liên quan đến
tư tưởng của tác giả” anh có đồng ý với quan niệm đó khi viết soi
vào Nỗi Buồn Chiến Tranh? Và có một sự tác động nào đó từ bên ngoài
hay chỉ là sự “rối bời” của nội tâm lôi kéo anh theo cách viết này?
Bảo Ninh: Không cuốn tiểu thuyết nào lại không hàm trong nó cái mà
anh gọi là “dòng ý thức“. Chỉ khác nhau là ẩn sâu hoặc lộ ra thôi.
Bây giờ nghiệm về những sự mình đã viết tôi thấy “dòng ý thức” của
Nỗi Buồn Chiến tranh nó lồ lộ quá. Tác giả nghĩ hộ cho nhân vật quá
nhiều và cũng bắt nhân vật lúc nào cũng đăm đăm suy nghĩ. Vì thế mà
rối bời chăng?...”
Nếu ai đã đọc Nỗi Buồn Chiến Tranh thì sẽ thấy bên cạnh những vạch
trần sự thực, vẫn còn những chi tiết mà sự mô tả còn chủ quan và đẫm
cảm tính. Khi viết về những người ở chiến tuyến đối diện, Bảo Ninh
vẫn ở trong một tâm thức đối nghịch nên đã có những ngôn từ hoặc ý
nghĩ thiên lệch không trung thực như khi tả những xe tăng T54 cán
lên những người lính VNCH, hoặc tả lại cảnh chiến đấu của những
người nữ cảnh sát tại Ban Mê Thuột, hay những toán lính thám báo
miền Nam xâm nhập mật khu hãm hiếp các nữ cán bộ. Hình như, những
điều tuyên truyền của chế độ chuyên chế Cộng sản không thể nào gột
rửa được trong trí óc những người lính miền Bắc. Đã sau 15 năm không
còn tiếng súng, mà cái tâm tư căm thù như thế vẫn còn dù bảo Ninh là
một nhà văn tương đối ít cuồng tín và không phải là người theo đuôi
chính sách văn hóa mà Đảng chỉ đạo....
Một cuốn tiểu thuyết khác của Dương Thu Hương viết ở trong nước và
in ở hải ngoại. “Tiểu thuyết vô đề” cũng gây ra nhiều dư luận. Viết
về một cuộc chiến tranh mà nguyên nhân chỉ là những huyền thoại mơ
hồ và những người tham dự bị đẩy vào trong những hoàn cảnh chẳng thể
lùi bước. Như một người lính đã nghĩ “Em nghĩ nhiều... Em cũng nghe
chán vạn điều thiên hạ nói. Nhưng mà nhân dân lúc có thực, lúc như
bóng ma. Nếu cần lúa, nhân dân là con bò kéo cày. Lúc có chiến tranh
con bò ấy mặc áo giáp và cầm súng. Rồi khi mọi sự đã qua, vào những
ngày lễ lạc, hội hè... người ta tôn xưng nhân dân như hú vọng các
hồn ma, tưởng thưởng cho khói thơm và tro tiền, còn phần xôi thịt
thì kẻ khác hưởng...”.
Cuộc chiến đã được phô bầy để thấy được tấn thảm kịch của một dân
tộc phải chịu đựng. Bao nhiêu người chết, nghĩa trang Trường Sơn bạt
ngàn xác người, bao nhiêu tuổi thanh xuân bị phung phí vào lò lửa
thiêu đốt, bao nhiêu sinh lực của dân tộc bị hao phí vô mục đích…
Một cuốn tiểu thuyết khác của Dương Thu Hương “Chốn Vắng” viết về
thời kỳ hậu chiến tranh tuy đã không còn tiếng súng nhưng cuộc chiến
đấu lại bi thảm và khó khăn hơn nhiều. Những sương phụ nửa chừng,
những thương binh tàn phế, những cuộc đời lỡ làng dở dang, những
cuộc sống sinh lý chênh lệch… tất cả những nhân vật ấy có mặt trong
một tấn thảm kịch thê thảm giữa những đè nén tính dục và những đòi
hỏi xác thịt …
Phác họa qua một vài tác phẩm, và theo dõi suốt một hành trình văn
học, dần dần chiến tranh đã được giải mã sau những thời kỳ tác giả
viết theo chính sách, tạo nên những hình tượng anh hùng, của những
tưởng tượng tuyên truyền không thực....
Nguyễn Mạnh Trinh |