Nhân ngày giỗ, nhớ về ...

Paris có gì lạ không em
Mai anh về em có còn ngoan |
Tháng tư dương lịch, là tháng 3 âm lịch, là tháng của lễ thanh minh.
Và ngày 18 tháng tư là ngày giỗ của thi sĩ Nguyên Sa.
Ngày thứ bảy cuối tuần, là ngày tôi đến thăm mộ mẹ tôi và cũng đến
mộ ông để tưởng nhớ. Ngày xưa cụ Tiên Điền Nguyễn Du đã có câu thơ
trong Đoạn Trường Tân Thanh “Thanh minh trong tiết tháng ba. Lễ là
tảo mộ hội là đạp thanh... ” để nhớ bổn phận của một người con, của
một người cầm bút nhớ lại những người đã ra đi. Nghĩa trang Peek
Family ở cuối đường Bolsa, nơi an nghỉ của mẹ tôi, của thầy Nguyên
Sa, thầy Nguyễn Khắc Hoạch, thầy Vũ Văn Tiên, anh Mai Thảo, anh Long
Ân, Nguyễn Tất Nhiên, và người anh vợ tôi vừa ra đi cách nay vài
ngày, ở những ngôi mộ mà ngày hôm nay tôi đến cắm những nén nhang
tưởng nhớ. Con đường Bolsa, con đường đặc biệt của người tị nạn Việt
Nam, nơi mở đầu một cuộc sống với phố xá ồn ào, cửa hàng tấp nập và
chấm dứt đời tị nạn với những ngôi mộ thinh lặng chỉ có cây cỏ và
những chú chim dạn dĩ. Trời hôm nay nắng đẹp trải mầu đỏ hồng trong
những thảm cỏ xanh rờn. Cuối mùa xuân đầu mùa hè, tầng mây cao vút,
thấy trời và đất thật gần nhau và người chết và người sống dường như
có những rung động sâu xa từ tâm thức. Đến từng ngôi mộ, nhìn lại di
ảnh những người đã khuất, tự nhiên tôi thấy lòng bồi hồi. Chỉ mấy
năm qua thôi, mà trải qua tưởng như lâu lắm. Những câu thơ trên bia
mộ thi sĩ Nguyên Sa, Mai Thảo, Long Ân, Nguyễn Tất Nhiên, hay những
câu đối trên bia mộ giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, Vũ Văn Tiên, như
những nhắc nhở để nhớ về, để tưởng vọng…
Tôi nhìn di ảnh thầy Nguyên Sa, thấy cái nón kết quen thuộc, thấy nụ
cười hiền hòa bao dung khi bị lũ học trò cũ chúng tôi chọc phá. Mới
đây mà đã mười năm. Tôi nhớ lại lúc làm tủ sách Tác Giả Tác Phẩm với
thầy. Tôi nhớ tới nhà in nhỏ ở đường Grand, tới những quyển sách vừa
đóng xong còn thơm mùi mực. Tôi nhớ lúc thầy gần mất, đang thực hiện
tờ Thời Nay mà thầy bảo tôi làm chủ bút. Tôi ngại ngùng, từ chối
không được nên cứ ậm ờ không dứt khoát khiến thầy nổi nóng có lúc la
mắng vì thấy công việc không tiến triển lắm. Có lúc thầy nói tha
thiết “Thầy già rồi, lúc này là lúc các em làm việc...” Nghĩ lại,
tôi thấy mình như có lỗi. Bây giờ, cả tờ báo Thời Nay với art work
còn đây, nhưng tờ báo vì người chủ chốt đã ra đi nên không thành
hình được…
Tôi nhớ lại những lần thầy trò nói chuyện với nhau cả giờ.
Thi sĩ Nguyên Sa mà nói chuyện về thơ với một kẻ yêu thi ca như tôi
không thích thú nào bằng.
Tôi có lúc như trong mơ khi hoang mang tự hỏi. Thi sĩ Nguyên Sa nói
chuyện về thơ? Hồi nào? Dường như thi sĩ đã đi vào miền vĩnh hằng
ngày 18 tháng tư năm 1998 rồi mà! Thì, làm sao hôm nay, bây giờ có
thể nói chuyện với chúng ta về thơ được? Thế mà, với tôi, giở lại
những trang hồi ký, như đang tiếp tục câu chuyện về thi ca, về những
bài thơ mà có người phê bình là những “châu báu bắt được của trời”.
Nguyên Sa một đời làm thơ và sống chết với thơ. Khi ông đang nằm
trên giường bệnh, dù đang thập tử nhất sinh ông vẫn lo lắng để chuẩn
bị cho in tập thơ “Thơ Nguyên Sa tập 4“. Thơ với ông là một vũ trụ
mênh mông mà cuộc sống vẫn còn dù thân xác có bị hủy hoaiỉ theo luật
thiên nhiên.
Thơ Nguyên Sa không phải chỉ thuần túy thi ca mà còn chất chứa cuộc
sống thực tế và cả những ước mơ nữa. Như, câu phê bình của tổng
thống Ngô Đ
ình Diệm về một giáo sư trẻ Trần Bích Lan mà bác sĩ Trần Kim Tuyến
đã kể lại: “ông cụ bảo cậu lãng mạn“. Có phải tâm tính lãng mạn là
luôn luôn nuôi dưỡng những giấc mơ? Quả thực, trong suy nghĩ biểu
hiện bằng ngôn ngữ thi ca, Nguyên Sa là một người làm thơ lãng mạn.
Đọc những trang hồi ký, nghe thi sĩ nhắc lại những bài thơ và những
trường hợp đã có cảm hứng để viết, mới thấy câu nhận định trên là
chính xác. Những bài thơ, dù viết ở đâu, từ lúc đất nước thanh bình
đến khi trời làm tao loạn, hay lúc lưu lạc xứ người, thơ vẫn là
những biểu tượng của một cuộc sống tràn đầy ước mơ.
Giữa con người thực dụng và con người viễn mơ, có lẽ triết lý đã
điều hòa cả hai để có một chân dung thi sĩ. Triết học không lấn áp
thi ca mà trái lại làm cho ngôn ngữ thơ có sắc thái riêng.
Thi sĩ viết: ”Tôi cũng nhớ, ngay lúc đó, khi đọc bài văn nói về văn
chương viễn mơ của Mai Thảo, một năm trước, tôi thấy văn chương viễn
mơ không phải là mục tiêu mà tôi nhắm tới, văn chương viễn mơ không
phải là tôi... Tôi mơ hồ cảm thấy làm thơ mà cứ phải dấn thân triền
miên thì... mệt quá! Nhưng tôi cũng không muốn sống, trong cuộc đời
cũng như trong tác phẩm, cắt lìa khỏi, một cách thường hằng, mọi đam
mê của đời sống. Tôi mơ hồ cảm thấy những lý luận thuần lý, những
triết học nhất quán, những lô gic chặt chẽ và thơ có một khoảng
cách. Dường như, càng xa lý thuyết thơ càng nhiều thơ, càng cột chặt
hồn mình vào lô gíc, thơ càng ít thơ hơn. Tôi đọc, tôi đọc. Tôi sửa
lại một chữ, rồi một chữ khác. Tôi mơ hồ cảm thấy tôi không muốn trở
thành một nhà thơ dấn thân. Tôi cũng mơ hồ cảm thấy tôi không phải
là một đệ tử trung thành của nghệ thuật vị nghệ thuật. Tôi là người
làm thơ tình mà vẫn xúc động trước những khổ đau của quê hương, dân
tộc tôi.”
Có những bài thơ viết về Paris, như một kỷ niệm trong đời. Thành
phố, nhắc đến những người bạn và những cuộc giã từ. Ra đi nhưng để
tấm lòng mình ở lại. Những dòng hồi ký không những là nhớ lại mà còn
làm sống lại những ngày tháng ấy. Một đoạn đời hóa sinh vào thơ, mơ
mộng và diễm ảo. Thơ. Là dấu ấn cho lãng mạn dâng cao:
“... Tôi thấy tôi và những tôi cầm tay bạn bè bịn rịn, tôi thấy tôi
và những tôi từ trên thang cao của máy bay vẫy tay lần cuối, tôi
thấy ngọn đèn đêm của Eiffel quét những đường sáng dài vẫy tay.
Những Tiễn Biệt, những Paris Có Gì Lạ Không Em, từ bóng đêm của vô
thức và sương mù dắt tay sông Seine đi tới.
Paris có gì lạ không em
Mai anh về em có còn ngoan
Mùa xuân hoa lá vương đầy ngõ
Em có tìm anh trong cánh chim
Paris có gì lạ không em
Mai anh về giữa bến sông Seine
Anh về giữa một dòng sông trắng
Là áo sương mù hay áo em
Em có còn đứng ở bên bờ sông
Làm ơn che khuất nửa vầng trăng
Anh về có nương theo dòng nước
Anh sẽ tìm em trong bóng trăng...
Những điệp khúc ”Paris có gì lạ không em” đặt ra những câu hỏi để
dẫn về những nơi chốn mới đây gần gũi mà bây giờ xa biệt. Hoa lá để
nhớ đến cánh chim, dòng sông mù sương trắng nhớ đến áo em huyền ảo
cũng như vầng trăng in dưới dòng nước nhắc nhở đến mường tượng em
trong bóng trăng. Thiên nhiên là của kỷ niệm nhắc nhở, mỗi mỗi khi
nhớ là tìm lại được những hình ảnh mới của Em, của người tình của
một thành phố như đã thành cổ tích…
Một bài thơ khác, của một thành phố khác, của đất nước Việt Nam, mà
bây giờ lại xa cách trong cảm giác lãng đãng của những câu thơ bềnh
bồng. Sài Gòn, thành phố mà trong bộ nhớ nhiều người đầy ắp những kỷ
niệm. Có khi là của lúc xôn xao thời mới lớn, có khi là của những
ngày chiến tranh, của những ngày phép của người lính trẻ, của một
thời của một đời người. Nguyên Sa làm bài thơ “Tám phố Sài Gòn“
trong cái khí hậu văn học của một thời nhiều sôi động. Thi sĩ đã
viết về một trường hợp sáng tác:
“... Nguyễn Đình Vượng nói tôi muốn Nguyên Sa cho Văn một bài thơ,
tôi hỏi thơ hay văn xuôi, anh Vượng nói rõ thơ, tôi ngập ngừng rồi
nêu lên câu hỏi:
- Thơ Xuân?
Nguyễn Đình Vượng gật đầu vững chắc:
- Thơ Xuân.
Anh chỉ khẳng định chính xác như thế trong một giây ngắn, anh mau
chóng đưa ra chọn lựa thoải mái hơn:
- Thơ Xuân... Hay thơ gì cũng được.
Tôi vui vẻ nhận lời, mấy hôm sau tôi mang tới tòa soạn Văn bài “Tám
phố Sài gòn”... ”Tám Phố Sài Gòn, là những câu thơ của bồi hồi về
một thánh địa tình yêu, của những xúc cảm thoáng qua, của những hình
ảnh đẹp khó quên trong bộ nhớ. Tôi yêu Sài Gòn nên yêu những câu thơ
mang đến cho tôi một thời gian, không gian “thiêng liêng“, của cả
một thời thơ ấu và trưởng thành riêng tôi. Và, rất lạ lùng, nhiều
người đọc thơ cũng cùng chung những xúc cảm những suy nghĩ như thế.
Thơ của một người nhưng hình như là của riêng nhiều người. Khi nhắc
lại, là một trùng trùng đại dương xao động. Sài Gòn. Vẫn còn, nhưng
như đã mất. Trong tôi...
Đọc những bài thơ như Tám Phố Sài gòn, như Áo Lụa Hà Đông, trong
khi lái xe, lúc ở sở làm hay mơ mộng một mình trong phòng đọc sách ở
nhà nhìn ra biển và bầu trời, lúc nào cũng như lúc nào, thấy mình
sống lại những phận đời, hồi sinh lại những nỗi nhớ trong cái xúc
cảm mơ hồ của một người đi phiêu du ở một chốn nào mà suy nghĩ mãi
ngân vang như những sợi đàn căng rưng rưng những âm vận trùng trùng
nhung nhớ.
Viết về thơ của mình, thi sĩ Nguyên Sa tâm sự:
“... Tôi không muốn đi, tôi muốn ở lại, tôi gọi trở về quê hương là
đi, tôi gọi tới Paris là về. Tình yêu của tôi ở đó, phần đời có
trọng lượng của toàn thể của tôi ở đó. Cảm xúc lớn lao, giao động
cực mạnh mang lại hàng loạt những bài thơ về biệt ly. Paris có gì lạ
không em, Tiễn biệt, Paris. Tôi khởi sự thơ với chủ đề ly biệt. Tôi
bắt đầu cùng lúc những bài tình ái và những bài biệt ly. Cũng có thể
nói được như thế. Thơ chủ đề biệt ly và thơ chủ đề tình yêu đến gần
như trong cùng một thời gian. Xen kẽ. Hỗ trợ. Trong thơ tình có khắc
khoải chia xa. Trong Tiễn biệt, Paris có gì lạ không em, Paris có
gục đầu trên vai nhau. Nga đầy ắp Paris là bài thơ tình đầu tiên,
sau đó là Tuổi Mười Ba, của thời kỳ Paris gục đầu trên vai nhau.
Paris tiễn nhau ở Gare De Lyon, ở phi trường Orly, Áo Lụa Hà Đông,
Tháng Sáu Trời Mưa, Cần Thiết của Sài Gòn 1956 và những năm kế tiếp,
Nga 1955, Tiễn biệt đầu tiên. 1953, hai bài Paris 54 và 55. Thơ tình
của những ngày tháng hôn nhân đến trước thơ tình của tuổi học trò.
Áo Lụa Hà Đông, Tuổi Mười Ba, Tháng Sáu Trời Mưa trình làng ở Sáng
Tạo, khi đã trở về Việt Nam, làm khoảng thời gian 56-57. Nga in trên
tờ thiệp báo hỷ, bài thơ tương đối dài làm cho người bạn ấn loát in
tặng phải chọn lựa tờ giấy lớn hơn thiệp báo hỷ rồi gấp lại làm ba.
Tờ thiệp báo hỷ của tôi in trên khổ giấy năm rưỡi tám rưỡi, giấy bảy
chục gam, loại láng, in chữ nghiêng, tới chữ O của “môi em tròn như
chữ O” câu thơ in nghiêng, anh bạn ấn công chỉ cho tôi thấy chữ O
anh đã chọn kiệu chữ thẳng, rất tượng hình thơ …”
Nguyên Sa còn làm thơ về những ngày ở lính và chiến tranh ở đây đã
được nhìn ngắm với con mắt của người trong cuộc. Một cuộc chơi tàn
bạo được bày ra với tất cả những sự phi lý của nó. Những người tham
dự, dù tình nguyện hay bắt buộc, cũng bị lôi đi trong con lốc mịt mờ
của thời thế. Đọc bài thơ Sân bắn, để thấy được tâm tư của một người
trong cuộc. Một cách tình cờ, bài thơ được viết ra trong một khung
cảnh yên bình của Sài Gòn buổi chiều nhưng lại là những cảm giác từ
quân trường, nơi sân bắn có hình nhân phơ phất, có tiếng kêu “Bia
lên” để làm đích đến cho những viên đạn vô tình:
“... Tôi không có ý định làm bài lục bát đó, tự nó tới, bật ra. Tôi
dừng xe lại ở Bưu Điện Sài Gòn, hí hoáy ghi lại Sân Bắn. Con trai
tôi từ trong trường Taberd đi ra, trèo lên băng sau của chiếc
Wolkswagen, chờ tôi lái đi. Tôi chép cũng vừa xong. Sân Bắn được
đăng trên một tạp chí ở Sài Gòn trong thời điểm đó, được in trong
Thơ Nguyên Sa tập Hai, hai mươi năm sau, năm 1988 ở Quận Cam.
Sân Bắn
Bia lên ta thấy thân người
Thấy ta thấy địch, thấy đời lãng du
Thấy tay dư, thấy chân thừa
Thấy tai nghễnh ngãng, mắt mù óc không...
Một đời phơ phất hình nhân
Thấy còn thấy hết, sau cùng thấy đau
Bia lên thấy mẹ u sầu
Giấy bồi tơi tả cúi đầu trong ta
Trời cao ngó xuống thịt da
Bia lên trông cũng vật vờ cỏ xanh
Bia lên tìm chỗ ta nằm
Non cao duỗi cẳng em còn thấy đâu
Hầm bia buồn đến mộ sâu
Nghìn cây nến thắp trên đầu đạn bay.
Và nhà thơ đã viết vê những suy nghĩ và cảm xúc của mình để bật lên
thành thơ:
“Khi Sân Bắn, thơ, đến với tôi, bia cũng tới, đầu tiên, không có
chân tay, cảm xúc của thơ mang cho Sân bắn thơ thêm hình ảnh của ta,
của địch, thân phận con người, sự vong thân của bản ngã...
Bầu trời của Sân bắn có bia lên, có thân người, có ta, có địch, có
tay chân thừa thãi, có tác dụng của xạ trường đến nơi thính giác và
cả trí tuệ. Óc tai, hình nhân, giấy bồi, hầm bia, đạn đầu lửa bay
trong những buổi thực tập tác xạ ban đêm. Tôi biết kỹ thuật thi nhân
từ trước khi thực hiện Sân Bắn, từ lâu. Cũng như nhiều người làm
thơ, tôi có một thời kỳ lục bát buổi đầu đời. Thi nhân vừa dẫn bài
thơ vô, vừa dẫn từ câu này qua câu kia từ đoạn này sang đoạn khác.
Luận lý của suy luận là do đó, là cho nên, là vậy thì. Có thể là tất
cả những từ đó và những từ tương tự khác cùng loại.
Tất cả mọi người đều phải chết,
Socrate là người,
Socrate phải chết.
Chân lý của kết luận chứa ẩn trong những đại tiền đề. Chân lý của
tiền đề, bằng những do đó, là vậy thì, là cho nên, đi tới kết luận.
Nói rõ ra cũng tốt, không nói tới cũng tốt. Từ ngữ hiện hay ẩn đưa
tới kết luận là đưa tới chân lý tất yếu đã nằm trong những tiền đề.
Thi nhân của thơ đưa tới những kết luận khác biệt, không tiên liệu
trước được, nhảy qua trùng điệp những đồi núi, những bình nguyên rơi
xuống một miền đất của riêng. Bia lên mở ra thân người, mở ra thế
giới mà khoảng cách giữa ta và địch bị tiêu hủy bởi cái chết, mở ra
sự thừa thãi của tay chân, sự bất lực của giác quan và trí tuệ.
Trong Sân Bắn, thi nhân hơn một nửa làm nhiệm vụ của liên tự, nó cho
phép nói nhiều với ít chữ hơn.
Bầu trời của thơ không phải là bầu trời của sân bắn xạ trường. Bầu
trời Sân Bắn thơ có những đám mây của nó, có vài phần vật liệu từ
hơi nước bay lên, nhưng lại có nhiều phần mây có màu sắc bay tới từ
thế giới nội tâm, có những đám mây màu sắc tình cảm, đám mây màu sắc
suy tư, đám mây màu ngậm ngùi thân phận.
Chủ nghĩa tả chân và những anh em của nó, như tả chân xã hội, khó
lòng mang lại bầu trời thơ, vì không gian của nó hạn hẹp, chỉ có mây
của nước bốc hơi, không có chỗ nào cho những đám mây tuyệt vời kia.”
Thơ, với thi sĩ, không phải là một trò chơi nữa, mà trở thành một
cách thế sống, của da thịt xương tủy hiện hữu tháng ngày. Những câu
hỏi bật ra từ quá khứ. Từ tuổi nhỏ đã phải chịu những tháng ngày tù
ngục đọa dầy của Cộng sản, rồi thoát được, đi du học, rồi trở về
nước, dậy học và rồi lại lưu lạc xứ người trong những tháng năm còn
lại. Bao nhiêu là dấu ấn đã in đậm trên những trang thơ. Những dấu
ấn của thời thế. Những dấu ấn của tình yêu. Thành ngôn ngữ, thành
hình ảnh, thành vần điệu để như những tần số cùng âm hưởng giao thoa
với tất cả những chất chứa của thời đại, của cả một thế hệ cứ mải
miết hoài trong vòng cuồng loạn của dông tố chiến tranh.
Với Nguyên Sa, chiến tranh là một thực tế của đất nước. Và thơ của
ông phần nào biểu lộ cái thực tế ấy. Những bài thơ như Cầu Siêu Cho
Nguyễn Quan Đại Chết Ở Khe Sanh, Thằng Sỹ Chết, Thơ Cho Bạn Ở Trong
Tù, Cắt Tóc Ăn Tết,… Có chút bi phẫn, có chút suy tưởng nhưng hình
như là biểu lộ chân thực tình cảm của một người sống trong thời đại
đầy nhiễu nhương, nhiều biến cố.
Trong “Thư cho bạn ở tù”, những câu lục bát chân thành về nỗi đau
thời thế:
Bây giờ mày ở trong tù
Đêm nằm muỗi cắn nhớ nhà không con
Chúng nó nói chuyện văn chương
Tao nghe nóng mặt cởi quần nhìn sông…
… Tao đi lính được bốn năm
mày nghe chuyện lính tưởng rằng tao gân
tưởng tao trấn thủ lưu đồn
một tay cờ kiếm anh hùng chí cao
bốn năm thi sĩ nằm khoèo
rượu say thơ cũng mệt nhoài tứ chi
quanh tao vẫn một lũ hề
những thằng mang điếu vác cờ chạy quanh... ”
Thi sĩ đã viết vế một bài thơ khác, viết về mùa xuân, nhan đề cũng
xuân nhưng không có nét xuân hồng nào ở trong: Cắt Tóc Ăn Tết
Cắt cho ta hãy cắt cho ta
Cắt cho ta sợi dài
Cắt cho ta sợi ngắn
Cắt cái sợi nói dối
Sợi ăn cắp trên đầu
Sợi vu oan dưới gáy
Sợi bè phái đâm ngang
Sợi ghen tuông đứng dọc
Sợi xích chiến xa, sợi giây thòng lọng
Sợi hưu chiến mỏng manh, sợi hận thù buộc chặt
Sợi nấp trong hầm
Sợi ngồi trong hố
Sợi đau xót như giây dù chẳng mở
Sợi treo cổ tình yêu, sợi trói tay hy vọng... ”
Nhưng, những bài thơ sống mãi của Nguyên Sa vẫn là thơ tình yêu.
Những bài thơ như Áo Lụa Hà Đông, như Tuổi Mười Ba, như Tám Phố Sài
Gòn, như Paris Có Gì Lạ Không Em,… đã vượt qua không gian, thời gian
để sống mãi. Thậm chí, nó còn vượt qua những chiến tuyến, qua những
định kiến chính trị để thành một gia sản quý báu của văn chương dân
tộc Việt Nam. Thế mà, khi viết hồi ký, ông lại ít đề cập tới. Không
hiểu có phải là phản ảnh tâm lý mà ông đã nói trong cuộc phỏng vấn
trước tám năm ngày ông từ trần:
“Đề tài tình yêu thường thay đổi theo thời gian... trước năm 1963,
tình yêu đó thuần túy những cảm xúc, những đam mê. Đó là niềm đam
mê, lúc tin tưởng mạnh mẽ, lúc rụt rè thắc mắc, lúc muốn ngỏ lời,
lúc không dám ngỏ. Nhưng về sau lúc người ta 50, 60 tuổi, đam mê
tình ái không còn nữa, như xao xuyến về một tà áo trong sân trường,
như bồi hồi vì một mái tóc xõa ngang vai, không có nữa. Thời gian
xóa bỏ nhiều thứ. Tình yêu có bóng dáng của sự buồn phiền xót xa vì
thời gian trôi qua. Và ngậm ngùi nhận ra rằng việc chấm dứt cho tất
cả mọi sự sẽ phải tới. Khi nào suy nghĩ ấy xen lẫn trong đời sống
trong tình yêu trong thơ, tất cả sẽ chán chường. Võ sĩ lên đài mà
không nghĩ đến chiến thắng đến tiền thưởng mà chỉ nghĩ đến cái chết
gần tới thì chắc chắn quả đấm của võ sĩ ấy phải khác với một võ sĩ
chỉ nghĩ đến cách thế để cho đối thủ quỵ ngã. Đối với tôi tâm sự về
tình yêu lúc 50 tuổi trở lên như võ sĩ lên đài thay vì chiến đấu
mãnh liệt say mê thì lại đưa quả đấm giơ lên rồi bỏ xuống. Tư tưởng
cái chết ám ảnh mạnh mẽ tình yêu... ”
Dù rằng thi sĩ đã hiểu:
Cuộc đời dẫu có phù vân
Ở trong mây nổi có phần thiên thu
Nhưng những câu thơ đã để lại cho đời sau là những câu hỏi để mở cửa
bước vào cõi thơ, như Cần Thiết: “Không có anh lấy ai đưa em đi học
về / lấy ai viết thư cho em mang vào lớp học / ai lau mắt cho em
ngồi khóc / ai đưa em đi chơi trong chiều mưa? /... ”; như “Paris có
gì lạ không em? / mai anh về mắt vẫn lánh đen / vẫn hỏi lòng mình là
hương cốm? / chả biết tay ai làm lá sen?... ”; “em ở đâu?, hỡi mùa
thu tóc ngắn / giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông / anh vẫn yêu màu áo ấy
vô cùng / giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng /…” Ơi, những câu hỏi để
thành những câu thơ bất tử của văn chương Việt Nam thế kỷ 20… Và tôi
cũng như nghe thấy câu hỏi, được khắc lên trên bia mộ của một thi sĩ
lớn:
Nằm chơi ở góc rừng này
Chưa thiên thu cũng đã đầy cỏ hoang
Xin em một sợi tóc vàng
Làm hoa khởi sự cho ngàn kiếp sau
Biết đâu thảo mộc bớt đau?
Biết đâu có bản kinh cầu dâng lên?
Vâng, biết đâu! Phải biết đâu chuyện ba trăm năm sau khi tấc lòng
thi sĩ vẫn còn mãi mãi qua thăm thẳm thời gian những kiếp người?
Nguyễn Mạnh Trinh |