.

PSN
BỘ MỚI 2009
HỘP THƯ

                            TRANG CHÍNH

Không tự do chê trách, chẳng bao giờ có lời khen mát lòng - Sans la liberté de blâmer, il n'est point d'éloge flatteur " (Beaumarchais)


bút
việt
hồn
quê

BIÊN TẬP

Thích Phước An | Trần Đỗ Cung | Kiều Mỹ Duyên | Trần Trung Đạo | Minh Triết TRẦN THIỆN ĐẠT | Trần Kiêm Đoàn | Phổ Đồng | Tâm Hải Đức | Võ Thị Trúc Giang | Trần Đan Hà | Nhất Hạnh | Tuệ Chương - Hoàng Long Hải | Vĩnh Hảo | Chiêu Hoàng | Đại Lãn | Lặng Lẽ | Lâm Kim Loan | Pháp Nhật | | Không Quán | Phan Quân | Đặng Văn Sinh | Tuệ Sỹ | Ninh Hạ - Nguyễn Đức Tâm | Phong Thu | Nguyễn Mạnh Trinh | Lê Khánh Thọ | Trần Đình Thu | Anh Thư | Diệu Trân | Tiểu Tử | Nguyễn Ước Tịnh Ý | Tác Giả Khác ...

GIAI THOẠI

Bùi Giáng | Hữu Loan | Giang Hữu Tuyên |

 

  Nguyễn Mạnh Trinh

Thời thế và
định mệnh của một cuốn sách

  • 7.05.2009

Có một người, trước khi rời xa quê cha đất tổ, đã in một cuốn sách như một phần đời của mình để lại ở quê hương. Mượn lời người xưa để nói về tâm sự hôm nay. Bốn chục bài thơ vịnh Kiều, để từ cái tâm tư dồn nén của cụ Tố Như ngày xưa để in một tập sách nhan đề là Phong Vận Kỳ Oan mà cuộc đời của thi sĩ theo nhận xét của nhiều người bạn cũng rất là …kỳ oan phong vận...

Người thi sĩ ấy, là một sĩ quan Hải Quân khóa 20, ba năm tù cải tạo, cộng ba năm tù vì tội tình nghi chính trị và nửa năm tù về tội trợ giúp người bạn tổ chức vượt biên. Và thân phận của chàng, trong một liên tưởng nào đó, cũng mang mang số phận của nàng Kiều, của “phận hèn bao quản nước sa, lênh đênh đâu nữa cũng là …lênh đênh”. Mà thực ra, ở thời đại chúng ta, ai mà chẳng lênh đênh, ai mà chẳng trôi dạt theo thời thế xoay vần. Người ấy, người thi sĩ ấy là Nguyễn Đình Hoàng.

Bây giờ, người thi sĩ ấy ở tuổi hơn sáu mươi đã đến xứ Mỹ một cách trễ tràng. Và ở bến đậu có lẽ cuối đời ấy, chấp nhận một cuộc sống sẽ có nhiều cực nhọc, có khi đọc lại những bài vịnh Kiều của mình, để thấy thấm thía cái thuyết tài mệnh tương đố. Khi còn ở quê nhà, mệt mỏi vì cuộc sống dù đã bằng lòng với nếp thanh bạch, người thi sĩ ấy đã trong mười mấy năm học chữ Hán, học chữ Nôm, để may ra tìm trong sách vở thấy một phần nào lẽ sống của cuộc đời. Không biết đó có phải là một hành động tương tự với Phùng Quán “vịn vào thơ mà đứng dậy”.

Ai ở trong chúng ta mà không đọc Độc Tiểu Thanh Ký, một tâm sự ngút trời mà cụ Tiên Điền muốn lớp người sau ba trăm năm còn rưng lệ. Từ một thời hỗn quân hỗn quan, từ vua Lê chúa Trịnh, đến Nhà Tây Sơn rồi triều Nguyễn Gia Long, thân phận kẻ sĩ như ngọn cỏ bồng, thổi theo gió lênh đênh. Chuyện kim chuyện cổ sao cũng giống quá khứ hiện tại của chúng ta, cũng những con chốt cuốn của định mệnh trôi nổi.

Tây Hồ mai uyển tận thành khư

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư

Chí phấn hữu thần lân tử hậu

Văn chương vô mệnh lụy phần dư

Cổ kim hận sự thiên nan vấn

Phong vận kỳ oan ngã tự cư

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

Bản dịch Vũ Tam Tập:

Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang

Thổn thức bên song mảnh giấy tàn

Son phấn có thần chôn vẫn hận

Văn chương không mệnh đốt còn vương

Nỗi hờn thiên cổ trời khôn hỏi

Cía ná phong lưu khách tự mang

Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa

Người đời ai khóc Tố Như chăng?

Đọc bài thơ ấy đã có nhiều người cảm khái. Vịnh về Kiều, hay viết về Nguyễn Du, cũng chỉ là bầy tỏ tấm lòng với người xưa nhưng lại chạnh nghĩ đến hiện tại bây giờ. Cuộc thế đổi thay, thành trụ hoại không, tháng năm với lịch sử chỉ là nháy mắt. Con lốc cuốn đi thân phận kiếp người, để lại dư âm trong văn chương những nỗi buồn thiên cổ. Đèn khuya một bóng, nghe nỗi niềm dàn trải, đến lạnh thấu đất trời. Nguyễn Đình Hoàng vịnh Kiều bằng 12 bài thơ, như muốn dàn trải và đồng vọng nỗi niềm riêng mình đến với tận cùng của tấm lòng mà niềm cảm khái dường mênh mang không dứt

“mây rụng xuống cơn mưa đời mê mải

tiếng sấm đêm xa buồn đến nao lòng

bèo nước gió mây, phận người chìm nổi

tiếng ai hò lạnh ngắt ngã ba sông

tiếng hò nối đôi bờ kim cổ

ngọn bút lông loang sấm chớp trăm miền

nét vạch chảy ngang trời sóng vỗ

đóa hoa sầu lấp lánh hạt mưa đêm

hạt kết chuỗi lời nhân gian khấn khứa

vái van xin một quẻ bói thơ Kiều

chuyện son phấn mở trang kinh thần thánh

lời tiên tri câu thơ cũ vừa gieo

vần gieo xuống trái tim sầu tan nát

mà hương hoa bay khắp chín từng tròi

chốn oan – ương chỉ tự mình đi - ở

ở cũng là đi đó Nguyễn Du ơi!”

Đi ở, có không, nói với Nguyễn Du như một lời tâm sự, không biết có phải Nguyễn Đình Hoàng nghĩ đến thân phận mình? Câu thơ cuối, khi chợt nghe như một câu thơ bất kính với người xưa nhưng nghĩ lại, biết đâu có phải là lời tâm sự với người đồng điệu. Lập thân tối hạ thị văn chương, cái con đường nhọc nhằn của kiếp nhân sinh ấy thời đại nào mà chẳng giống nhau. Cái nghiệp chướng oan nghiệt ấy cứ vương vấn mãi một đời, và trong cái thời thế nhiễu nhương lúc ấy và bây giờ, có phải là tiếng nói không thể không cất lên của một thuở bão bùng giông tố.

Nói về những tệ nạn xã hội, qua cái vỏ của những nhân vật trong truyện Kiều như Hoạn Thư, Tú bà, Mã Giám Sinh, Bạc Bà, Bạc Hạnh,... sao giống y hệt thời đại bây giờ. Hay thi sĩ vịnh Kiều để nói lên một cách gián tiếp những băng hoại của chế độ được gọi là xã hội chủ nghĩa. Dám viết và dám in những bài thơ ấy trong chủ tâm muốn nói những điều không thể nói có phải là một việc làm có suy tính. Bữa nào, gặp tác giả Phong Vận Kỳ Oan chắc tôi phải hỏi để biết rõ được khúc nôi! Đọc bài thơ Vịnh Kiều “Căn bệnh mấy ngàn năm“ nói tích xưa mà tưởng chuyện bây giờ.

“Như những gã chồng vờ Malaysia, Đài Loan, Trung Quốc...

mua vợ kinh doanh

lời khấn nguyện của Bạc Hạnh

trước lúc thành thân

cũng chỉ để xin xỏ vận may

nơi thần mày trắng

Thúy Kiều ơi

Non nước xa khơi

Châu Thai buồm thuận

Nước lại vẩn bùn

Thân vẫn nhọ nhem

Trò buôn người của đám xã hội đen

Thời đại nào chẳng một vốn bốn lời

 Kiếm tiền như nước

Thân gái dm trường

sa cơ lỡ bước

gởi vào đâu được cuộc đời xuân

Lầu xanh

Lầu xanh

Thị dục loài người

Căn bệnh mấy ngàn năm“

Làm thơ vịnh Kiều, sao Nguyễn Đình Hoàng lại có những tâm tư dường như của bao nhiêu căm uất của cuộc sống góp lại. Những năm tù tội hình như rút vào trong tâm cảm anh những nỗi niềm mà chỉ có văn chương mới đủ sức để anh quên đi những eo sèo nhân thế, những gập ghềnh của một đời người cứ bị ám ảnh hoài của một lý lịch mà chế độ công an này bắt buộc phải để ý vì đó có thể là những mồi lửa thiêu rụi chế độ khi thời cơ tới.

“... Đâu chỉ một Thúy Kiều lầm than tan nát

đâu chỉ một vài đường dây tội ác

Cỡ Bạc Hạnh

Tú Bà

Còn biết bao đường dây tàn độc ranh ma

Len lỏi luồn đi

Suốt đêm ngày

Trói chặt tay người

Phồng da

Ứa máu

Đánh lộn sòng tốt xấu

Nối vào nhau

Tầng thấp

Tầng cao

Từ lũ bất lương đến quan lớn trong triều

Cùng một duộc

Lấn vào nhau

Lương tâm tiêu điều u ám

Đen trắng thay hình đổi dạng

Ác nhân chạm áo đầy đường

Nên Nguyễn Du ơi

Những kẻ bị hành hình

Mới chỉ rất tượng trưng”

Dân gian ta có câu “chết đứng như Từ Hải” chỉ tình trạng bị lừa gạt để đưa đẩy vào hoàn cảnh bất ngờ oan khiên. Cụ Tiên Diền đã tả ”khí thiêng khi đã về thần/nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng/ trơ như đá vững như đồng/ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng rời/...” một cảnh tượng thật là hùng tráng uy nghi. Tự nhiên tôi nghĩ đến cái chết bị bức tử của Việt Nam Cộng Hòa năm 1975. Và, hình như Nguyễn Đình Hoàng trong bài vịnh Kiều cũng nói xa nói gần về cái ngày hận tủi ấy.

“... Bỗng chốc hóa thành không

người đứng như trời trồng

người muốn chui vào đất

thấy nhau chẳng dám trông

máu chảy rồi

mũi tên hòn đạn ấy

xô chẳng ngã tượng đồng

nói gì lay với rung

nỗi đau và nỗi giận

vừa giận vừa thương tâm

thương cánh bèo lận đận

trôi về đâu...

xa xăm…

hỡi trời che đất chở

nét đứng thẳng ngàn năm

cho dối lừa hèn hạ

ngã sóng soài dưới chân

nàng đến rồi Kiều hỡi

Ta ngã vào thơ văn

Một ngàn năm...

Một vạn năm

Cái chết đứng còn nguyên

Cái ngã cũng còn nguyên

Oan khí tương triền

Tuôn rơi nước mắt

Ràn rụa đau thương

Ấm áp nỗi niềm”

Ngã vào thơ văn, có phải để nguôi ngoai đi tấm lòng của người bại tướng, có giống không cái ngã của Từ Hải khi Kiều đến như cụ Nguyễn Du đã viết “lạ thay oan khí tương triền/nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra/...”? Có khi câu thơ ý văn đã làm cho cuộc sống bớt đi những đau đớn trái ngang, để cho lãng mạn văn chương thành những liều tiên dược? Những câu hỏi ấy, mỗi người một chọn lựa để trả lời. Dẫu sao, có những điều khó ngỏ khi tâm vẫn muốn mà lực không còn. Thế cho nên cụ Tiên Điền đã phải thở than rằng ba trăm năm sau còn có kẻ hậu sinh nhỏ cho vài dư lệ để thông cảm được với cảnh ngộ của người bị trôi dạt trong cảnh biến đổi tang thương...

Một bài thơ chữ Hán bài Tạp Thi có những câu vừa bi thiết vừa cảm khái của một kẻ sĩ, loanh quanh trong lý tưởng và sinh kế để thấy mình bạc đầu vì những nỗi niềm dằn vặt khôn nguôi.

“Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên

Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên

Xuân lan thu cúc thành hư sự

Hạ thử đông hàn đoạt thiếu niên

Hoàng khuyển truy hoan Hồng Lĩnh hạ

Bạch vân ngọa bệnh Quế Giang biên

Thôn cư bất yểm tần cô tửu

Thượng hữu nang trung tam thập tiền“

Dịch nghĩa:

tráng sĩ bạc đầu buồn bã ngước nhìn trời

hùng tâm và sinh kế đôi đường không biết gì nữa

hoa lan ngày xuân hoa cúc mùa thu đều thành việc hư huyễn

mùa hạ nóng mùa đông lạnh đã cướp mất tuổi thiếu niên

dắt chó vàng rong chơi dưới chân núi Hồng Lĩnh

mây trắng nằm bệnh ven bờ Quế giang

ở xóm quê không chán nhiều lần đi mua rượu

trong túi chỉ còn ba chục đồng tiền“

Đời sống của cụ Tiên Điền ngập tràn những điều không vừa ý. Ngay cả khi làm quan, được vua Gia Long biết đến sở học và tài năng nhưng ông vẫn chỉ là một người thụ động trong quan trường và ngay trong chính thâm tâm ông, cũng man mác nỗi niềm của một hàng thần lơ láo có phải? ông bị kẹt trong một chế độ mà sự phân hóa giữa những người chiến thắng đàng trong và những người đàng ngoài của phía bị thua trận hoặc đã bị tiêu vong.

Nguyễn Đình Hoàng chắc cũng đã nghiền ngẫm những bài thơ chữ Hán cũng như Đoạn Trường Tân Thanh. Và, tìm được ở trong văn chương này những điều tâm đắc cũng như chia sẻ được với nỗi niềm của những người sinh bất phùng thời.

Viết những bài thơ vịnh Kiều, Nguyễn Đình Hoàng nhiều lúc đã xử dụng thể thơ tự do không vần để chuyên chở mạnh mẽ hơn tâm cảm của mình và muốn tìm một điều gì mới lạ hơn là những câu thất ngôn bát cú của đẽo gọt ngôn từ của cô đọng ý nghĩa.

Giở tập thơ, nhìn ra bóng tối ngoài trời, tự nhiên thấy mình như sống lại thuở ngày xưa, khi tù cải tạo về, lơ láo trong một xã hội mà những kẻ cầm quyền muốn xóa bỏ mình và gia đình mình. Những buổi tối đạp xe lang thang tìm chỗ trú qua đêm ở trong thành phố Sài gòn tuy quen thuộc mà sao lạnh lùng hoang vắng quá khi nghĩ đến thân phận những nàng Kiều đang lũi lầm trong cái lênh đênh của thời thế mà chạnh lòng. Lúc ấy, sao thương cụ Nguyễn Du trong cảnh : ”hành cước vô căn nhậm chuyển bồng/Giang Nam Giang Bắc nhất nang không” (phiêu bạc không ngưng ngọn cỏ bồng/bên sông nam bắc, túi rỗng không). Lúc ấy lại nhớ đến thi sĩ ngồi ở chỗ bán thuốc lá lẻ gần nhà đêm cúp điện, bên ngọn đèn dầu nhỏ leo lét cho khách mồi thuốc, nghe những câu thơ vịnh Kiều của những thằng bại binh cùng sẻ chia thân phận với nhau. Có phải đó là tiếng đỗ quyên ngậm ngùi gọi nước gọi non không nhng trong đáy sâu thẳm của suy tư vẫn là nỗi u hoài của những người lính thấy chua xót vì bàn tay mình quá nhỏ bé và cũng chẳng biết làm gì để thân thế mình cứ phiêu bạc như ngọn cỏ bồng trôi dạt không biết nơi nào là bến là bờ.

Bởi vậy, nói cho cùng vịnh Kiều, tả về người nhưng lại chạnh nỗi mình, đó có phải là lối “bất đắc kỳ bình tắc minh” mà Hàn Dũ đời xưa đã đề cập đến …

  
Nguyễn Mạnh Trinh
 


NGUYỄN MẠNH TRINH

Sinh năm 1949 tại Hà Nội. Hiện sống tại Hoa Kỳ. Chủ trương tủ sách tác gỉa tác phẩm Ðời. Trong nhóm chủ trương Hợp Lưu, Hoa Kỳ.

Tác phẩm đã xuất bản :

Thơ Nguyễn Mạnh Trinh (Người Việt 1985).

Tuyển tập Hai Mươi Ba Người Viết Sau 1975 (biên tập cùng Trịnh Y Thư Văn Nghệ Hoa kỳ 1989).

(Hình + Tiểu sử : thoivan. com).

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LIÊN LẠC     |    LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.