Thời thế và
định mệnh của một cuốn sách
Có một người, trước khi rời xa quê cha đất tổ, đã in một cuốn sách
như một phần đời của mình để lại ở quê hương. Mượn lời người xưa để
nói về tâm sự hôm nay. Bốn chục bài thơ vịnh Kiều, để từ cái tâm tư
dồn nén của cụ Tố Như ngày xưa để in một tập sách nhan đề là Phong
Vận Kỳ Oan mà cuộc đời của thi sĩ theo nhận xét của nhiều người bạn
cũng rất là …kỳ oan phong vận...
Người thi sĩ ấy, là một sĩ quan Hải Quân khóa 20, ba năm tù cải tạo,
cộng ba năm tù vì tội tình nghi chính trị và nửa năm tù về tội trợ
giúp người bạn tổ chức vượt biên. Và thân phận của chàng, trong một
liên tưởng nào đó, cũng mang mang số phận của nàng Kiều, của “phận
hèn bao quản nước sa, lênh đênh đâu nữa cũng là …lênh đênh”. Mà thực
ra, ở thời đại chúng ta, ai mà chẳng lênh đênh, ai mà chẳng trôi dạt
theo thời thế xoay vần. Người ấy, người thi sĩ ấy là Nguyễn Đình
Hoàng.
Bây giờ, người thi sĩ ấy ở tuổi hơn sáu mươi đã đến xứ Mỹ một cách
trễ tràng. Và ở bến đậu có lẽ cuối đời ấy, chấp nhận một cuộc sống
sẽ có nhiều cực nhọc, có khi đọc lại những bài vịnh Kiều của mình,
để thấy thấm thía cái thuyết tài mệnh tương đố. Khi còn ở quê nhà,
mệt mỏi vì cuộc sống dù đã bằng lòng với nếp thanh bạch, người thi
sĩ ấy đã trong mười mấy năm học chữ Hán, học chữ Nôm, để may ra tìm
trong sách vở thấy một phần nào lẽ sống của cuộc đời. Không biết đó
có phải là một hành động tương tự với Phùng Quán “vịn vào thơ mà
đứng dậy”.
Ai ở trong chúng ta mà không đọc Độc Tiểu Thanh Ký, một tâm sự ngút
trời mà cụ Tiên Điền muốn lớp người sau ba trăm năm còn rưng lệ. Từ
một thời hỗn quân hỗn quan, từ vua Lê chúa Trịnh, đến Nhà Tây Sơn
rồi triều Nguyễn Gia Long, thân phận kẻ sĩ như ngọn cỏ bồng, thổi
theo gió lênh đênh. Chuyện kim chuyện cổ sao cũng giống quá khứ hiện
tại của chúng ta, cũng những con chốt cuốn của định mệnh trôi nổi.
Tây Hồ mai uyển tận thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
Chí phấn hữu thần lân tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Bản dịch Vũ Tam Tập:
Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn
Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương
Nỗi hờn thiên cổ trời khôn hỏi
Cía ná phong lưu khách tự mang
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
Đọc bài thơ ấy đã có nhiều người cảm khái. Vịnh về Kiều, hay viết về
Nguyễn Du, cũng chỉ là bầy tỏ tấm lòng với người xưa nhưng lại chạnh
nghĩ đến hiện tại bây giờ. Cuộc thế đổi thay, thành trụ hoại không,
tháng năm với lịch sử chỉ là nháy mắt. Con lốc cuốn đi thân phận
kiếp người, để lại dư âm trong văn chương những nỗi buồn thiên cổ.
Đèn khuya một bóng, nghe nỗi niềm dàn trải, đến lạnh thấu đất trời.
Nguyễn Đình Hoàng vịnh Kiều bằng 12 bài thơ, như muốn dàn trải và
đồng vọng nỗi niềm riêng mình đến với tận cùng của tấm lòng mà niềm
cảm khái dường mênh mang không dứt
“mây rụng xuống cơn mưa đời mê mải
tiếng sấm đêm xa buồn đến nao lòng
bèo nước gió mây, phận người chìm nổi
tiếng ai hò lạnh ngắt ngã ba sông
tiếng hò nối đôi bờ kim cổ
ngọn bút lông loang sấm chớp trăm miền
nét vạch chảy ngang trời sóng vỗ
đóa hoa sầu lấp lánh hạt mưa đêm
hạt kết chuỗi lời nhân gian khấn khứa
vái van xin một quẻ bói thơ Kiều
chuyện son phấn mở trang kinh thần thánh
lời tiên tri câu thơ cũ vừa gieo
vần gieo xuống trái tim sầu tan nát
mà hương hoa bay khắp chín từng tròi
chốn oan – ương chỉ tự mình đi - ở
ở cũng là đi đó Nguyễn Du ơi!”
Đi ở, có không, nói với Nguyễn Du như một lời tâm sự, không biết có
phải Nguyễn Đình Hoàng nghĩ đến thân phận mình? Câu thơ cuối, khi
chợt nghe như một câu thơ bất kính với người xưa nhưng nghĩ lại,
biết đâu có phải là lời tâm sự với người đồng điệu. Lập thân tối hạ
thị văn chương, cái con đường nhọc nhằn của kiếp nhân sinh ấy thời
đại nào mà chẳng giống nhau. Cái nghiệp chướng oan nghiệt ấy cứ
vương vấn mãi một đời, và trong cái thời thế nhiễu nhương lúc ấy và
bây giờ, có phải là tiếng nói không thể không cất lên của một thuở
bão bùng giông tố.
Nói về những tệ nạn xã hội, qua cái vỏ của những nhân vật trong
truyện Kiều như Hoạn Thư, Tú bà, Mã Giám Sinh, Bạc Bà, Bạc Hạnh,...
sao giống y hệt thời đại bây giờ. Hay thi sĩ vịnh Kiều để nói lên
một cách gián tiếp những băng hoại của chế độ được gọi là xã hội chủ
nghĩa. Dám viết và dám in những bài thơ ấy trong chủ tâm muốn nói
những điều không thể nói có phải là một việc làm có suy tính. Bữa
nào, gặp tác giả Phong Vận Kỳ Oan chắc tôi phải hỏi để biết rõ được
khúc nôi! Đọc bài thơ Vịnh Kiều “Căn bệnh mấy ngàn năm“ nói tích xưa
mà tưởng chuyện bây giờ.
“Như những gã chồng vờ Malaysia, Đài Loan, Trung Quốc...
mua vợ kinh doanh
lời khấn nguyện của Bạc Hạnh
trước lúc thành thân
cũng chỉ để xin xỏ vận may
nơi thần mày trắng
Thúy Kiều ơi
Non nước xa khơi
Châu Thai buồm thuận
Nước lại vẩn bùn
Thân vẫn nhọ nhem
Trò buôn người của đám xã hội đen
Thời đại nào chẳng một vốn bốn lời
Kiếm tiền như nước
Thân gái dặm
trường
sa cơ lỡ bước
gởi vào đâu được cuộc đời xuân
Lầu xanh
Lầu xanh
Thị dục loài người
Căn bệnh mấy ngàn năm“
Làm thơ vịnh Kiều, sao Nguyễn Đình Hoàng lại có những tâm tư dường
như của bao nhiêu căm uất của cuộc sống góp lại. Những năm tù tội
hình như rút vào trong tâm cảm anh những nỗi niềm mà chỉ có văn
chương mới đủ sức để anh quên đi những eo sèo nhân thế, những gập
ghềnh của một đời người cứ bị ám ảnh hoài của một lý lịch mà chế độ
công an này bắt buộc phải để ý vì đó có thể là những mồi lửa thiêu
rụi chế độ khi thời cơ tới.
“... Đâu chỉ một Thúy Kiều lầm than tan nát
đâu chỉ một vài đường dây tội ác
Cỡ Bạc Hạnh
Tú Bà
Còn biết bao đường dây tàn độc ranh ma
Len lỏi luồn đi
Suốt đêm ngày
Trói chặt tay người
Phồng da
Ứa máu
Đánh lộn sòng tốt xấu
Nối vào nhau
Tầng thấp
Tầng cao
Từ lũ bất lương đến quan lớn trong triều
Cùng một duộc
Lấn vào nhau
Lương tâm tiêu điều u ám
Đen trắng thay hình đổi dạng
Ác nhân chạm áo đầy đường
Nên Nguyễn Du ơi
Những kẻ bị hành hình
Mới chỉ rất tượng trưng”
Dân gian ta có câu “chết đứng như Từ Hải” chỉ tình trạng bị lừa gạt
để đưa đẩy vào hoàn cảnh bất ngờ oan khiên. Cụ Tiên Diền đã tả ”khí
thiêng khi đã về thần/nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng/ trơ
như đá vững như đồng/ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng rời/...” một
cảnh tượng thật là hùng tráng uy nghi. Tự nhiên tôi nghĩ đến cái
chết bị bức tử của Việt Nam Cộng Hòa năm 1975. Và, hình như Nguyễn
Đình Hoàng trong bài vịnh Kiều cũng nói xa nói gần về cái ngày hận
tủi ấy.
“... Bỗng chốc hóa thành không
người đứng như trời trồng
người muốn chui vào đất
thấy nhau chẳng dám trông
máu chảy rồi
mũi tên hòn đạn ấy
xô chẳng ngã tượng đồng
nói gì lay với rung
nỗi đau và nỗi giận
vừa giận vừa thương tâm
thương cánh bèo lận đận
trôi về đâu...
xa xăm…
hỡi trời che đất chở
nét đứng thẳng ngàn năm
cho dối lừa hèn hạ
ngã sóng soài dưới chân
nàng đến rồi Kiều hỡi
Ta ngã vào thơ văn
Một ngàn năm...
Một vạn năm
Cái chết đứng còn nguyên
Cái ngã cũng còn nguyên
Oan khí tương triền
Tuôn rơi nước mắt
Ràn rụa đau thương
Ấm áp nỗi niềm”
Ngã vào thơ văn, có phải để nguôi ngoai đi tấm lòng của người bại
tướng, có giống không cái ngã của Từ Hải khi Kiều đến như cụ Nguyễn
Du đã viết “lạ thay oan khí tương triền/nàng vừa phục xuống Từ liền
ngã ra/...”? Có khi câu thơ ý văn đã làm cho cuộc sống bớt đi những
đau đớn trái ngang, để cho lãng mạn văn chương thành những liều tiên
dược? Những câu hỏi ấy, mỗi người một chọn lựa để trả lời. Dẫu sao,
có những điều khó ngỏ khi tâm vẫn muốn mà lực không còn. Thế cho nên
cụ Tiên Điền đã phải thở than rằng ba trăm năm sau còn có kẻ hậu
sinh nhỏ cho vài dư lệ để thông cảm được với cảnh ngộ của người bị
trôi dạt trong cảnh biến đổi tang thương...
Một bài thơ chữ Hán bài Tạp Thi có những câu vừa bi thiết vừa cảm
khái của một kẻ sĩ, loanh quanh trong lý tưởng và sinh kế để thấy
mình bạc đầu vì những nỗi niềm dằn vặt khôn nguôi.
“Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên
Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên
Xuân lan thu cúc thành hư sự
Hạ thử đông hàn đoạt thiếu niên
Hoàng khuyển truy hoan Hồng Lĩnh hạ
Bạch vân ngọa bệnh Quế Giang biên
Thôn cư bất yểm tần cô tửu
Thượng hữu nang trung tam thập tiền“
Dịch nghĩa:
tráng sĩ bạc đầu buồn bã ngước nhìn trời
hùng tâm và sinh kế đôi đường không biết gì nữa
hoa lan ngày xuân hoa cúc mùa thu đều thành việc hư huyễn
mùa hạ nóng mùa đông lạnh đã cướp mất tuổi thiếu niên
dắt chó vàng rong chơi dưới chân núi Hồng Lĩnh
mây trắng nằm bệnh ven bờ Quế giang
ở xóm quê không chán nhiều lần đi mua rượu
trong túi chỉ còn ba chục đồng tiền“
Đời sống của cụ Tiên Điền ngập tràn những điều không vừa ý. Ngay cả
khi làm quan, được vua Gia Long biết đến sở học và tài năng nhưng
ông vẫn chỉ là một người thụ động trong quan trường và ngay trong
chính thâm tâm ông, cũng man mác nỗi niềm của một hàng thần lơ láo
có phải? ông bị kẹt trong một chế độ mà sự phân hóa giữa những người
chiến thắng đàng trong và những người đàng ngoài của phía bị thua
trận hoặc đã bị tiêu vong.
Nguyễn Đình Hoàng chắc cũng đã nghiền ngẫm những bài thơ chữ Hán
cũng như Đoạn Trường Tân Thanh. Và, tìm được ở trong văn chương này
những điều tâm đắc cũng như chia sẻ được với nỗi niềm của những
người sinh bất phùng thời.
Viết những bài thơ vịnh Kiều, Nguyễn Đình Hoàng nhiều lúc đã xử dụng
thể thơ tự do không vần để chuyên chở mạnh mẽ hơn tâm cảm của mình
và muốn tìm một điều gì mới lạ hơn là những câu thất ngôn bát cú của
đẽo gọt ngôn từ của cô đọng ý nghĩa.
Giở tập thơ, nhìn ra bóng tối ngoài trời, tự nhiên thấy mình như
sống lại thuở ngày xưa, khi tù cải tạo về, lơ láo trong một xã hội
mà những kẻ cầm quyền muốn xóa bỏ mình và gia đình mình. Những buổi
tối đạp xe lang thang tìm chỗ trú qua đêm ở trong thành phố Sài gòn
tuy quen thuộc mà sao lạnh lùng hoang vắng quá khi nghĩ đến thân
phận những nàng Kiều đang lũi lầm trong cái lênh đênh của thời thế
mà chạnh lòng. Lúc ấy, sao thương cụ Nguyễn Du trong cảnh : ”hành
cước vô căn nhậm chuyển bồng/Giang Nam Giang Bắc nhất nang không”
(phiêu bạc không ngưng ngọn cỏ bồng/bên sông nam bắc, túi rỗng
không). Lúc ấy lại nhớ đến thi sĩ ngồi ở chỗ bán thuốc lá lẻ gần nhà
đêm cúp điện, bên ngọn đèn dầu nhỏ leo lét cho khách mồi thuốc, nghe
những câu thơ vịnh Kiều của những thằng bại binh cùng sẻ chia thân
phận với nhau. Có phải đó là tiếng đỗ quyên ngậm ngùi gọi nước gọi
non không những
trong đáy sâu thẳm của suy tư vẫn là nỗi u hoài của những người lính
thấy chua xót vì bàn tay mình quá nhỏ bé và cũng chẳng biết làm gì
để thân thế mình cứ phiêu bạc như ngọn cỏ bồng trôi dạt không biết
nơi nào là bến là bờ.
Bởi vậy, nói cho cùng vịnh Kiều, tả về người nhưng lại chạnh nỗi
mình, đó có phải là lối “bất đắc kỳ bình tắc minh” mà Hàn Dũ đời xưa
đã đề cập đến …
Nguyễn Mạnh Trinh |