Diễm Châu, nhịp cầu
qua những vùng thi ca Thế giới

Diễm
Châu 1937-2006 |
Với tôi, Diễm Châu thật xa lạ nhưng cũng thật quen thuộc. Ở đời
thường, tôi chỉ gặp ông đúng hai lần và nói chuyện cũng không nhiều,
chỉ là những câu rất là đại khái sơ giao. Chúng tôi là những người
xa lạ với nhau. Tôi chỉ biết tên ông là Phạm văn Rao, là giáo sư dạy
Anh Ngữ tại các đại học như Kỹ sư điện Phú Thọ, Dược khoa,… và là
tổng thư ký của tạp chí Trình Bày…
Nhưng ở thi ca, tôi lại gặp thấy Diễm Châu thân quen khi đọc những
tập thơ viết về hoặc dịch của hàng trăm nhà thơ nổi danh trên thế
giới của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau. Có những cuốn, là
những sách gối đầu giường của tôi. Đó, không biết có phải là những
bàn tay gạt ra những chốt đóng để mở toang những cánh cửa và làm tầm
mắt thưởng ngoạn rộng khắp hơn cũng như tâm tư phóng khoáng thoát
khỏi sự tù túng hơn. Với tôi, đôi khi thơ là đọc và suy ngẫm. Cái
cảm tưởng đi săn tìm cảm giác hay tìm những ý tưởng tiền chế cho thơ
khi đọc những bài thơ được phổ biến rông khắp toàn cầu làm cho tôi
dễ dàng nắm bắt được ý nghĩa của thi ca nhưng cũng đôi lúc làm tôi
đi lạc vào những mê ảo hình tượng của thẩm mỹ quan bất ngờ có được…
Tại sao tôi lại quen thuộc với Diễm Châu như thế? Có thể, vì những
trang sách làm gần gũi hơn những xa lạ của hai đời sống ở hai đầu
lục địa. Nguyên là có một ngày ông từ Pháp qua thăm Hoa Kỳ và có hẹn
gặp ăn sáng với nhà thơ Nguyên Sa ở tiệm phở Bolsa. Ông Nguyên Sa rủ
tôi ra quán và gặp ông. Biết tôi có võ vẽ dăm bài thơ, ông tỏ vẻ
ngạc nhiên. Bữa ăn hầu như chỉ có hai người nói và tôi thì yên lặng
nghe. Gần lúc ra về, ông mới nói “Tôi vừa đọc tập thơ của anh tối
qua do Nguyên Sa đưa. Cho tôi địa chỉ liên lạc cho vui...” Sau đó,
tôi là người được ông gửi tặng những tập sách mà ông viết hoặc dịch
rồi tự in ấn lấy rồi phổ biến hạn chế trong vòng những người yêu văn
chương. Phần đông là thơ do chính ông dịch, nhưng cũng có thơ dịch
của Nguyễn Đăng Thường, của Hoàng Ngọc Biên,...
Thú thực, có lúc những quyển sách ấy là những người thầy của tôi. Có
những tên tác giả ngoại quốc, tôi chỉ nghe đến và đọc lần đầu nên
khá xa lạ. Nhưng sau đó, khi tìm tòi trong thư viện hoặc search trên
internet, tôi đã biết được khá nhiều chi tiết về tác giả ấy. Từ đó,
tôi hiểu được thân thế của tác giả, môi trường sống và sáng tác,
cũng như phong cách tác giả và nội dung tác phẩm.
Qua những cuốn sách, tôi thấy như mơ hồ nợ ông một món nợ văn
chương. Nợ những cuốn sách được gửi tặng thì đã đành nhưng món nợ
tinh thần lại to lớn hơn như đã nợ bao nhiêu tác giả từ xưa tới nay
đã cống hiến tim óc cho đời. Dường như ông gửi cho tôi tới chừng ba
chục cuốn và khi tôi đổi địa chỉ thì không còn nhận được nữa. Có
người nói ông đã in ra cả trăm cuốn và như vậy tôi mới chỉ đọc được
một phần ba trong tổng số những cuốn sách ông đã thực hiện. Từ sự
kiện ấy, tôi thấy được sự làm việc cũng như sự yêu mến và đam mê thi
ca của ông tới bực nào. Khi nhân được sách tôi thỉnh thoảng cũng có
khi viết thơ cám ơn và kèm theo những suy nghĩ của mình về những
cuốn sách ấy. Có bức thư lan man dông dài và ông cũng trả lời lan
man dông dài không kém.
Một phần nữa, tôi biết ông qua nhà thơ Nguyên Sa, một người khá thân
thiết với ông và cũng hiểu rõ tính tình cũng như thân thế của ông.
Khi nhắc đến thời kỳ mà ông Nguyên Sa là một người cộng tác với tạp
chí Trình Bầy có đề cập đến vai trò của tổng thư ký tòa soạn Diễm
Châu. Qua chuyện kể của ông, tôi hình dung được một thời thế lúc ấy
và công việc làm báo đầy khó khăn của những người trí thức muốn dấn
thân. Có một thời kỳ hầu như mỗi buổi chiều sau giờ dạy học là ông
Nguyên Sa đến tòa soạn tạp chí Trình Bày ở đường Lý Thái Tổ để bù
khú nên đã chứng kiến những cảnh đôn đáo chạy tiền đi in báo cũng
như những lúc sửa bài, sửa bản vỗ cho đến nửa đêm của nhà thơ, nhà
báo Diễm Châu. Những năm tháng ấy, thời thế như một lò nung gần nổ,
bắt buộc mỗi người cầm bút phải chọn cho mình một thái độ. Diễm Châu
là một người viễn mơ nên đã có thái độ của một người lãng mạn chính
trị. Làm báo, thực hiện tạp chí Trình Bày là muốn gửi một thông điệp
của những người luôn luôn khắc khoải và không thích sự thỏa hiệp. Tư
bản, cộng sản, tạo thành những ngã ba, ngã tư cho những mê lộ mà
chiến tranh là những mồi lửa làm nổ bùng thời thế. Tôi nhớ nhà thơ
Nguyên Sa khi kể với tôi đã chép miệng khi ông nói về thời kỳ ấy :
“Viễn mơ? Trí thức ai mà không viễn mơ. Nhưng nhiều khi đã phải trả
giá bằng cả cuộc sống cho những viễn mơ ấy!”
Tháng 7 năm 1983, khi Diễm Châu rời khỏi Việt Nam cùng gia đình để
đi định cư ở Pháp, ông đã viết một bài thơ của một người vừa vỡ òa
những “viễn mơ” bắt đầu một cuộc lưu lạc thật sự dù trước đây đã lưu
vong tuy đang sống ở quê hương đất nước mình:
“chỉ một vài ngày nữa anh sẽ lên máy bay
chiếc máy bay thân thẳng và trắng muốt
sẽ cất cánh đưa anh tới hạnh phúc
Paris trong tầm tay!
Anh sẽ bay mải miết anh sẽ bay
Xa lánh những nhỏ nhen hận thù phân biệt
Những đố kỵ ghét ghen những tủi hờn sợ sệt
Paris trong tầm tay!
Anh sẽ nhìn xuống từ trên máy bay
Sài Gòn trong cơn mưa dầu nắng lửa
Những mái nhà chật chội những cõi lòng tan vữa
Paris trong tầm tay!
Anh sẽ nhắm mắt để tận hưởng một chút say
Cái ghế êm thoải mái cái cảm giác thoát chết
Chiếc nón cối xa dần ảo tưởng cuối cùng đã hết
Paris trong tầm tay!
Rồi anh sẽ chệch choạng bước thêm vài bước
Để nôn tháo ra những ý nghĩ chua cay
Và khi trở lại ghế ngồi anh sẽ khóc
Paris trong tầm tay!“
Tâm sự của người vừa rời bỏ quê hương lẫn lộn giữa buồn và vui. Vui
vì sự thoát khỏi một đất nước của “những mái nhà chật chội những cõi
lòng tan vữa” và sẽ “xa lánh những nhỏ nhen hận thù phân biệt. Những
đố kỵ ghét ghen những tủi hờn sợ sệt.” Buồn, vì những ý nghĩ chua
cay của những cơn “viễn mơ ““ vừa tỉnh giấc. Diễm Châu hình như đã
hiểu được mặt trái của một cuộc chiến, có phải?
Thế là, suốt thời gian dài sinh sống ở Strasbourg về sau này, ông
dồn cả thời giờ và tâm lực vào thi ca và văn chương. Ông tình nguyện
làm người tạo dựng những cây cầu nối liền những đại lục thi ca. Ít
có ai có một công trình to lớn như ông: dịch hàng ngàn bài thơ ngoại
ngữ của hàng trăm thi sĩ ra thơ Việt ngữ và in hơn một trăm tuyển
tập thơ như vậy. Công việc ấy ông làm trong âm thầm và dù chỉ phổ
biến trong vòng hạn hẹp nhưng có rất nhiều ảnh hưởng. Những chân
trời văn học được mở ra những con đường, những cánh cửa. Dịch thơ,
một công việc hết sức nguy hiểm, nếu không đủ nội lực để thông hiểu
và diễn đạt sẽ dễ dàng trở thành một hiện tượng : dịch là phản mà từ
xưa tới nay những người thức giả thường lưu ý. Diễm Châu dịch thơ
trong cái nâng niu nghệ thuật và cái tâm để hiểu và cảm thông với
thi sĩ qua nguyên tác. Trong một bài thơ, ông đã phát biểu về công
việc của mình:
“mỗi cái cây là một bản dịch
vẻ đẹp của trái đất
bản dịch ấy mỗi mùa lại nhuốm một vẻ đẹp khác
nơi cùng một cái cây
ước gì mỗi bài thơ của tôi
được như một cái cây của trái đất.
Mỗi bài thơ là một bản dịch
Vẻ đẹp của con người
Bản dịch ấy mỗi ngày lại mang thêm một màu sắc
Nơi cùng một bài thơ
Ước gì mỗi giờ còn lại của đời tôi
Được như một bài thơ của người.”
Đọc những bài thơ Diễm Châu, tôi cảm nhận được những giới hạn của
những bài thơ trí tuệ. Những câu thơ ấy, có sự sâu lắng của một tâm
hồn luôn khắc khoải nhưng cũng có những chớp mắt của sự bắt gặp xúc
cảm. Thơ có sự giũa mài của suy tư, nên không còn là những chất
quặng mỏ tinh tuyền với nét đẹp của tự nhiên. Chính vì thế nên
chuyên chở được những ưu tư của thời thế và kiếp người. Thơ Diễm
Châu đặt ra những câu hỏi, gợi ra những liên tưởng và trong hành
trình tiếp cận ấy, man mác những bầy tỏ để chia sẻ cùng người. Khắc
khoải quằn quại, tâm tư ấy có phải là của chung một thời đại, khi mà
lời rao giảng yêu nước chỉ là chiếc bánh vẽ vĩ đại của những kẻ lừa
bịp hoang tưởng. Nhưng, thơ vẫn là những con người của ngày tháng
ngọt ngào, của một cuộc sống vẫn ồn ào dưới phố:
“Nếu em hỏi tôi thơ là gì, tôi sẽ nắm tay em thật chặt và nói :
chúng mình hãy đi uống bia nghe những người Bolivia đánh đàn và thổi
sáo.
Nếu em gặng hỏi tôi thơ là gì tôi sẽ chỉ cho em những đám mây trên
ngọn tháp và nói ở cánh đồng trên ấy có bầy ngựa trắng.
Nếu em vẫn không hài lòng với câu trả lời của tôi và tiếp tục hỏi
thơ là gì tôi sẽ cắn vào môi chảy máu và nói: bông hồng của tim anh!
Miếng bánh em ăn và ly rượu trên bàn
Là thơ của bông lúa và chùm nho
Thơ của lá phong ửng chín là dòng nhựa miên man nâng cơn say lên
cùng nắng và gió.
Và thơ của em là mái tóc thơm mùi dưa hồng là đôi cánh tay tượng ngà
nho nhỏ và chuỗi tiếng cười đuổi theo nhau như những hạt trân châu.
Em đã thấy thơ của những người Bolivia chưa?
- tiếng đàn của họ vàng như một cốc bia.”
Thơ mở ra những khoảng trời. Khi cuộc đời còn đầy những bóng ma của
quá khứ, khi lịch sử bị nhìn ngắm méo mó dưới cặp mắt biện chứng.
Thơ vút cao lên những khoảng trời và nếu có quay lui về thì cũng vẫn
là con đường kỷ niệm xa xưa:
“khi những nhà chép sử bỏ đi
anh vẫn có mặt
anh nhìn những bóng ma tất tả
và nhủ thầm sự thật
không phải là chén cơm
không phải là khẩu hiệu
anh mở toang trái tim mình
một con cánh cam xanh biếc bay lên
miên man với những cành phượng vĩ
và trở về với cơn mưa nghiêng
trên con phố dài kỷ niệm
ẩn dưới những nan hoa tháng ngày thấp thoáng
anh là nụ hôn đi tìm chiếc lông chim”
Làm thơ hay dịch thơ, với Diễm Châu chỉ là một. Làm thơ là tiếp cận
với thế giới riêng mình, còn dịch thơ là tiếp cận với những thế giới
khác, của những thời đại khác, dân tộc khác. Dù ở trong trường hợp
nào, vẫn là những cuộc viễn hành vào một nơi chốn là đích đến lúc
nào cũng thật xa xôi nhưng lại tạo cảm giác gần cận lắm tưởng chỉ
một với tay là chạm tới.
Có thời kỳ, Diễm Châu đã viết. Những bài thơ của khắc khoải, của
những suy nghĩ nửa chừng không rõ rệt bên này bên kia. Thơ nhìn
chiến tranh như nhìn một quái vật:
“mùa xuân trở về với ba mươi chín lằn roi
với mão gai làm triều thiên cho người khốn khổ
với áo đỏ bết máu với cây sậy quyền uy
mùa xuân trở về với bảy mươi bảy lần sấp ngã
với những tảng đá loang máu người vô tội
với con đường bụi bặm dốc cao
với con đường trống trơn lỗ chỗ những hố bom
rừng lớp lớp bày ra cảnh đìu hiu cách lạ
những thân cây làm thập giá giữa trời
mùa xuân trở về với bầy thú săn đuổi con người
với tiếng reo hò của loài kên kên đói khát
năm mươi vì sao giữa một nền trời gạch mặt quay cuồng
năm mươi cánh tay bạch tuộc
chụp bắt
giằng xé
hỏa thiêu..”
Lúc ấy, ở Hoa Kỳ đang có một phong trào phản chiến thời thượng. Cũng
như, trên thế giới cũng có những tiếng kêu phẫn nộ, những chống đối
gay gắt lại hai thế lực tư bản và cộng sản đang thống trị toàn cầu
của thế giới thứ ba. Chiến tranh, là cơn ác mộng loài người, là cuộc
chiến đấu để bảo vệ tự do hay là cuộc kháng chiến thần thánh.? Có
nhiều người “viễn mơ”, có người bị ”móc nối “, có người bị “mua
chuộc”…Thơ, nhiều khi là tấm gương phản ánh. Của một thời kỳ mà định
mệnh chọn lựa con người mà con người chẳng thể phản kháng lại. Chính
trong cái thế giới hỗn mang của chiến tranh ấy, người thi sĩ bị dằn
vặt biết là bao nhiêu và sự chọn lựa cũng thật là thiên nan vạn nan.
Thời thế như con lốc, cuốn đi. Nếu có một lúc, thi ca là nơi trở về,
trú ngụ cho những giấc mơ đang ấp ủ nhưng linh cảm thấy một sự tan
vỡ...
Diễm Châu có những giấc mơ đẹp, có bài thơ 5 chữ dễ thương, một chút
tình cảm ấm áp, một chút viễn mơ”:
“Chúng ta ngồi bên nhau
chụm từng thanh củi nhỏ
kỷ niệm ngày xưa đó
khói lam bay ngang đầu
ngày vàng và đêm đen
niềm vui xen nỗi nhớ
mây trôi qua ưu phiền
lửa hồng soi rực rỡ
“thiêu trong vàng của gió”
những đêm dài u mê
bừng lên như hơi thở
rừng căng từng thớ gỗ
tiếng đàn trầm trong khe
uy nghi và lặng lẽ
đôi mi nào chớp khẽ
nhè nhẹ bước em về
ngày của ngày đã tới
run run những ngón hồng
trên vừng trán phương đông
mặt trời hiền đã gọi
quay lưng lại bóng tối
những người con nhân loại
những cánh tay dựng ngày
lưỡi rìu là tiếng nói
chim cánh trắng bay cao
lòng trời xanh vô hạn
giọt mồ hôi lấm tấm
đọng lại trên bông đào.”
Thời gian sau, khi đã hết những cơn mơ, thi sĩ nhìn đời bằng con mắt
khác. Cái khắc khoải của bước chân tìm kiếm bây giờ trở thành gót
giày kéo lê buông xuôi. Cái ”Tâm sự của một người có tuổi”:
“chết bây giờ là phải
sống, mãi trong lòng dân tộc
hay trên chiếc chiếu hoa ngoài đình
cũng chỉ là cành đa mọc thêm rễ
cho mấy chú bình vôi
chết bây giờ là phải
sống mau sống mạnh sống vững chắc
cũng chỉ là học đua thói côn đồ tư bản
của những anh hành nghề lơ xe…
chết bây giờ là phải
sống với căn bệnh ung thư thời đại
cũng chỉ là kéo dài thêm cái chết của những bóng ma của bóng ma
sao bằng gấp lại cây quạt
sao bằng tự nhổ rễ
để nhường chỗ cho những xa lộ mênh mông tám tám thước
sao bằng yên nghỉ trong lòng biết ơn sâu xa và rộng khắp của giun dế
chết bây giờ còn là điều may
bởi tiêu chuẩn ván với hòm
một mai sẽ thay đổi”
Có những lúc, thi sĩ đã nghĩ đến chuyến ra đi. Nhưng, vẫn chưa phải
là chấm dứt là tận cùng, bởi chuyến đi ấy, có thể là một khởi đầu
cho một cuộc viễn du mới :
“không thể viết
lời vĩnh biệt
bởi lời chót hết
cũng là một khởi đầu bất tuyệt”
Diễm Châu đã ra đi. Hành trình từ quê hương xa mịt mù của thành phố
Hải Phòng mà có lúc ông đã tìm về đến Sài Gòn rồi Strasbourg mà ông
gọi là Lộ trấn, đã chưa tận tuyệt. Vẫn còn chữ nghĩa ở lại với đời.
Vẫn còn những bài thơ đang dịch. Vẫn còn những ngôn ngữ tinh khôi
chờ viết. Dù là người gậm nhấm nỗi buồn của một người lưu lạc hay là
người yêu tha thiết quê hương, ông vẫn là người chọn lựa một cách
thế sống của một nghệ sĩ, nhiều lãng mạn mơ mộng. Dịch thơ hay làm
thơ, cũng chỉ làm một nối kết giữa người và người, như một cây cầu
nối liền nhiều biên giới...
Nguyễn Mạnh Trinh |