Nguyễn Đình Toàn,
viết nhạc như một thi sĩ
Hai
mươi năm văn học miền Nam có thi sĩ Nguyễn Đình Toàn với những bài
thơ được chép trong những cuốn vở học trò thì có văn sĩ Nguyễn Đình
Toàn với tác phẩm Áo Mơ Phai được giải thưởng văn chương toàn quốc.
Và còn có một chân dung nghệ sĩ nổi bật không kém. Đó là nhạc sĩ
Nguyễn Đình Toàn.
Trong một cuộc nói chuyện với ông, tôi có nói rằng bản Sài Gòn Niềm
Nhớ Không Tên là bản nhạc mà tôi thích nhất của ông vì nó gợi ra cho
tôi những kỷ niệm. Thì ông trả lời ngay rằng những bản nhạc có tính
chất thời sự như thế ông sáng tác vì sự bức xúc nhưng chưa phải là
những bản nhạc mà ông tâm đắc nhất mặc dù nó nổi danh vì được nhiều
người chia sẻ. Ông cho rằng những bản tình ca sẽ muôn đời ở trong
tim óc mọi người như chính những lời viết giới thiệu mà ông đã đọc
trong chương trình Nhạc Chủ Đề ngày xưa…
Kỷ niệm nào thì cũng đáng nhớ và những bản nhạc gây ra ấn tượng
trong tiềm thức ấy cũng sẽ là những điều chẳng thể nào quên.
Như bản nhạc “Sài Gòn niềm nhớ không tên” của nhạc sĩ Nguyễn Đình
Toàn.
Bản nhạc ấy đã gây thật nhiều cảm xúc cho tôi vì tôi nghe bản nhạc
ấy lần đầu tiên ở trại tù Long Khánh do một người bạn đồng tù hát.
Nhạc đệm chỉ là một cây đàn guitare tự chế bằng tôn nhôm và gỗ săn
nhặt được và giây đàn được làm bằng những sợi
dây điện thoại tước ra từng sợi nhỏ tạo thành. Cũng như ca sĩ là
người chung cảnh ngộ hát bằng cả tấm lòng và giọng hát thầm thì như
của một người đang làm một công việc mạo hiểm, hát để cho vơi tâm sự
mặc kệ mọi sự cấm đoán đe dọa của hệ thống quản giáo cai tù đầy dẫy
ăng ten báo cáo. Tôi cũng chẳng hiểu làm sao mà những bản nhạc như
thế lại được hát và phổ biến ở trong tù như vậy. Chúng tôi xung
quanh ngồi nghe như uống từng nốt nhạc, như chắt từng câu ca. Sài
Gòn xa rồi, bây giờ ở ngoài vòng rào kẽm gai mịt mùng. Sài Gòn, vẫn
còn gần gũi những ngày mà thành phố thảng thốt lọt vào tay giặc thù,
những anh hồn liệt sĩ còn phảng phất đâu đây từ những ngày bi thảm
mà chúng tôi bị buông súng một cách tức tưởi…
Lời nhạc lôi kéo chúng tôi ; ngôn ngữ hiền từ tha thiết không kêu
gọi máu lửa nhưng sao lại lôi cuốn chúng tôi dường ấy:
“Sài Gòn ơi, ta mất người như người đã mất tên - như dòng sông
nước quẩn quanh buồn - như người đi cách mặt xa lòng - ta hỏi thầm
em có nhớ không… Sài Gòn ơi, đến những ngày ôi thành phố xôn xao -
trong niềm vui tiếng hỏi câu chào - sáng đời tươi thắm vạn sắc màu-
còn gì đâu...”
Lúc ấy, chúng tôi chưa biết bản nhạc ấy là của nhạc sĩ Nguyễn Đình
Toàn. Tên nhạc sĩ tác giả là cả một huyền thoại đối với chúng tôi
lúc đó. Có người bảo đó là của nhạc sĩ khác hát bản nhạc ấy ở hải
ngoại rồi cảm xúc đến nỗi bị ngất xỉu ngay trên sân khấu. Có người
bảo đó là một bản nhạc của một nhạc sĩ đang bị giam ở khám Chí Hòa
truyền ra ngoài và phổ biến. Đến mãi về sau, khi đã qua Mỹ định cư
tôi mới biết tác gỉa là người chủ trương Chương trình Nhạc Chủ Đề
trên đài phát thanh Sài Gòn và là thi sĩ, văn sĩ nổi tiếng của hai
mươi năm văn học miền Nam…
Chương trình Nhạc Chủ Đề do nhà văn Nguyễn Đình Toàn thực hiện trên
đài phát thanh Sài Gòn vào buổi tối ngày thứ năm hàng tuần với mục
đích giới thiệu với thính giả những bản nhạc được lựa chọn và được
viết với lời giới thiệu và giọng đọc rất đặc biệt của người chủ
trương. Cuối thập niên 1960, có ba chương trình nhạc chọn lọc được
giới trẻ sinh viên học sinh ưa thích là chương trình Tiếng Nhạc Tâm
Tình do ca sĩ Anh Ngọc phụ trách, ban Tiếng Tơ Đồng do nhạc sĩ Hoàng
Trọng thực hiện và chương trình Nhạc chủ đề của nhà văn Nguyễn Đình
Toàn. Người được kể là đọc lời dẫn nhập vào chương trình hay nhất là
nhà văn Mai Thảo đọc cho chương trình nhạc của ca sĩ Anh Ngọc và
giọng đọc Của Nguyễn Đình Toàn cho Nhạc Chủ Đề…
Theo như ý kiến của nhiều người, những lời giới thiệu nhạc hay nhất
trong lịch sử âm nhạc có lẽ là bài viết và giọng đọc của các nhà văn
kể trên. Những bài viết ấy đã mở ra những khung trời lãng mạn mà
người nghe có cảm giác như đã quên đi hiện tại để bồng bềnh trong
mênh mang của chữ nghĩa và âm nhạc…
Chương trình Nhạc chủ đề ấy có những lời mở đầu như những cánh tay
mở khung cửa mơ mộng, để ở đó tình yêu trở nên mơ màng hơn, có chuốt
lọc nhưng lại có những cảm giác nhẹ nhàng như tơ làm mềm lòng những
tuổi thanh xuân đang hăm hở vào đời với sự tinh khôi trong sáng của
những bình minh hứa hẹn những giọt nắng thủy tinh ngời tin yêu nồng
biếc.
Ai đã nghe qua những lời mở thế này mà không rung động? Nhất là
những chàng tuổi trẻ ngày xưa nay đã thành những ông già lão nhìn
lại quá khứ ngày nào đã rất xa, thật xa mà sao lại còn rưng rưng nỗi
niềm chia sẻ:
“Tình ca - những tiếng nói thiết tha và tuyệt vời nhất của một
đời người - bao giờ cũng bắt đầu từ một nơi chốn nào đó, một quê
hương, một thành phố, nơi người ta đã yêu nhau... Tất cả mùa màng,
thời tiết, hoa lá, cỏ cây, của cái vùng đất thần tiên đó, kết hợp
lại, làm nên hạnh phúc, làm nên nỗi tiếc thương của chúng ta…”
Hay như một lời ngỏ khác, thầm thì, kêu gọi những bước trở về, đi
ngược lại vòng quay vô tình của thời gian:
“Em đâu ngờ anh còn nghe vang tiếng em trong tất cả những tiếng
động ngù ngờ nhất của cái ngày sung sướng đó: tiếng gió may thổi
trên những cành liễu nhỏ, tiếng những giọt sương rơi trên mặt hồ,
tiếng guốc khua trên hè phố… Ngần ấy thứ tiếng động ngân nga trong
trí tưởng anh một thuở thanh bình nào, bây giờ đã gần im hơi, nhưng
một đôi khi vẫn còn đủ sức làm ran lên trong ký ức một mùa hè háo
hức, một đêm mưa bỗng trở về, gió cuốn từng cơn nhớ… Anh bỗng nhận
ra anh vẫn còn yêu em, dù chúng ta đã xa nhau như hai thành phố…”
Những câu mở đầu như thế trên làn sóng điện phát thanh đã làm cho
bao nhiêu người tuổi trẻ mến mộ. Nó là cánh cửa mở vào cõi âm thanh
của những ca sĩ và những ca khúc của một thời âm nhạc Việt Nam.
Những khúc nhạc tiền chiến và những bản nhạc mà về sau này đã thành
tài sản quý giá của dân tộc Việt Nam mà tác gỉa là những Trinh Công
Sơn, Lê Uyên Phương, Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng,… Từ
những ca khúc đầu tay được trình diễn, họ đã mau chóng nổi tiếng…
Tôi thời còn là sinh viên đã rất mê chương trình này. Có thể nói, đó
là một phần khá đẹp của cuộc sống tôi. Bây giờ, nghe lại CD của Nhạc
Chủ Đề cũ, tôi lại bồi hồi và một phần đời đã qua như hồi sinh lại.
Sau này, ở xứ Mỹ này, tôi có hỏi ông về trường hợp sáng tác bản nhạc
này như thế nào thì ông chỉ nói qua với sự rất hờ hững coi như đó
chỉ là một trong những gần trăm bản nhạc ông đã sáng tác. Và ngay cả
khi tôi hỏi về cách ông thực hiện hàng trăm chương trình nhạc làm
say mê cả một thế hệ trẻ trong thời kỳ ấy hoặc hỏi về mấy trăm bài
thơ và mấy chục tác phẩm vừa tiểu thuyết vừa tùy bút nổi danh một
thời thì cũng với vẻ hờ hững ấy, ông cũng trả lời với vẻ thản nhiên
của một người đã trải qua nhiều thay đổi và hiểu được rằng có những
điều không cần biện giải của cái tự nhiên đã có.
Cũng như, khi tôi hỏi về những khó khăn của cuộc sống hiện nay, ông
cũng trả lời chẳng có gì cực
nhọc dù rằng tôi hiểu được đó là một sự thản nhiên chấp nhận của một
người đã trải qua nhiều mệt mỏi của cuộc đời.
Nói về âm nhạc của mình, ông nói đó là những ca khúc mà ông gọi là
viết trong những thời gian tăm tối nhất của lịch sử và của chính
cuộc sống ông. Nhưng đó lại là những lời kêu gọi yêu thương mong con
người trở về với tình tự dân tộc. Có những bài hát trong tuyển tập
nhạc “Hiên cúc vàng”, “Tôi muốn nói với em“ và Mưa trên cây hoàng
lan” đã chứng tỏ điều ấy. Chất nhân bản đã làm thành những ca từ đẹp
và có sức thuyết phục mạnh với thính giả và cũng chuyên chở một cách
thâm trầm những thông điệp gửi cho người cho đời những ước vọng và
tâm sự.
Những lòi nhạc như “Tôi đã bám lấy đất nước tôi.bằng sức người vô
hạn. Bằng sức người đầu đội trăm tấn bom. Tim mang nghìn dấu đạn.
Tôi đã đổ mồ hôi, đổ máu tươi. Để mong ở lại đây. Nhưng đất đã đỏ vì
bị nung bằng những lời dối trá. Người bám vào lửa đã đốt cháy tay.
Lửa hờn căm, lửa hiểm thâm, lửa khốn cùng cay đắng. Người lừa nhau
trời đất còn bưng mặt thảm thương. Ba mươi năm cuộc tương tàn chưa
đủ? người giết người không kịp mở mắt trông. Ba mươi năm mạng người
như rác cỏ, giây hòa bình còn thắt cổ người tin…” trong bản nhạc
”Tôi cố bám lấy đất nước tôi” có phải là những lời chân thành dù
trong cơn tuyệt vọng nhưng vẫn còn cố gắng bám víu vào cuộc sống một
ý nghĩ nào tích cực nhất?
Những lời ca viết cho thành phố Sài Gòn trong thời thế ấy bỗng dưng
trở thành những lời kêu gọi của một dân tộc đã chịu quá nhiều đau
khổ. Hết rồi những cơn mưa chiều cũ, mất rồi những buổi sáng rực rỡ
xưa. Lời ca, ý nhạc lôi kéo chúng ta trở về con hẻm nào của những
hẹn hò, của nụ hôn môi tuyệt vời, của hương tóc thề e ấp phả trong
tà áo lụa xôn xao. Cái cảm giác ngày nào như sống lại, làm gai gai
trong da thịt nỗi ngây ngất thuở nào. Nghe đâu đây như bước chân nào
trở về đồng vọng….
Tình ca Nguyễn Đình Toàn là một tuyệt phẩm cho những người yêu nhau.
Nếu chúng ta có tràn đầy kỷ niệm với ”Em đến thăm anh đêm ba mươi”
thì chắc chúng ta cũng bồi hồi nhớ lại thuở nào với “Căn nhà xưa”.
Câu hát thầm thầm trong trí nhớ ”Tay em lạnh để cho tình mình ấm,
môi em mềm trong giấc ngủ anh thơm, sao giao thừa xanh trong đôi mắt
ngoan, trời sắp tết hay lòng mình đang tết, tháng ngày cũng phôi pha
rụng từng mùa...” Còn tình tứ nào hơn và cũng tiếc nuối nào hơn
cái giây phút của cuối năm. Hay những lời nhạc trong “Căn nhà xưa”
với những hình ảnh thân quen với những ấn tượng chẳng thể nào phai
nhạt trong cái thuở yêu nhau mà chẳng nghĩ đến buổi chia tay: ”Em
có nhớ đến căn nhà xưa bên khu vườn cải, nơi những sớm mai nằm nghe
nắng ròn trên mái... Có những sớm mai em tìm đến với những đóa hồng
khép nép trong vòng tay ôm... Nghe sau lưng em có chiếc lá mừng, đã
đổi màu xanh lấy hương nồng...”
Có một bản nhạc với tên khá lạ lùng. “Chim đắng đót”. Tôi cũng chưa
hình dung ra được con chim này như thế nào nhưng biết chữ đắng đót
từ câu thơ: ”Đắng đót ghê thay mùi tục lụy/bực mình theo Cuội tếch
cung mây” và theo Việt Nam Tự Điển của Lưu văn Đức và Lê Ngọc Trụ
thì đắng đót có nghĩa là đau đớn khổ sở. Chim đắng đót kêu mãi kêu
hoài trong ca khúc:
“trên núi cao kia
tôi nghe tiếng con chim đắng đót kêu sương
Chim nhớ ai mà lời chim đau thương?
Trên cánh đồng kia
Có con bướm khô cành rơi trên đường
Nước mắt tôi khóc tràn
Không dập tắt được
Lửa tình trong tôi
Ôi có ai kia thức thâu đêm mới biết đêm sâu
Mới biết tim ta là bể đau khi yêu
Như chiếc thuyền con
Giữa cơn sóng xô, cuốn trôi vật vờ
Đến lúc về đến bờ
Sóng xô sóng dồn chỉ còn hồn bơ vơ
Trên núi cao kia tôi nghe tiếng con chim có lúc bay qua
Tôi nói với ai để lòng tôi nguôi ngoai
Hỡi những người tình sống trong thú vui dối gian cợt cười
Sẽ có khi các người
Khóc thương cho tình của mình
… như tôi”
Với những bản tình ca ấy, dù có chút đớn đau, có chút hoài niệm
nhưng vẫn bàng bạc ở trong những lời tinh khôi một điều gì nhẹ nhàng
tựa như tiếng gọi thầm của những hứa hẹn cho hạnh phúc mai sau.
Không gian có thể là biền biệt hai đại lục xa cách một biển trời.
Thời gian có thể là những tháng năm chồng chất vui buồn mà vui thì
hiếm hoi và buồn thì tràn khắp. Nhưng vẫn trong nhạc mà lời thơ đan
kết, tình ca ấy vẫn là tiếng thở của con tim một người nghệ sĩ nhạy
cảm tuy nhiều bi quan nhưng lại vẫn tin tưởng vào cuộc đời và những
trong sáng tình người. Những ca khúc thiết tha ấy bao giờ cũng ngân
lên từ những nơi chốn mà một đời người đã gắn bó lâu dài. Hà Nội,
Sài Gòn, chẳng còn phải là một thành phố mà hơn nữa, nó là thánh địa
của yêu thương mà ở đó tâm hồn người tháp cánh để vượt lên trên thời
gian không gian xa cách.
Nghĩ và viết về chiến tranh, trong văn, trong thơ, trong nhạc chúng
ta có rất nhiều. Chiến tranh là một trời tang tóc, là những bi kịch
cho cả dân tộc. Và cuộc chiến càng ác liệt bao nhiêu thì khát vọng
hòa bình lại càng lớn lao như thế. Nhưng, đau đớn thay, khi ngưng
tiếng súng thì lại bắt đầu một thời kỳ vô cùng bi đát của lịch sử
Việt Nam. Nguyễn Đình Toàn cho đó là hiện tượng những người không
làm ra lịch sử mà lại phải gánh chịu những thảm họa của lịch sử. Kẻ
làm ra những bi kịch ấy, hình như là những người lạ mặt, là những
mắt xanh râu xồm, là những kẻ thúc giục một cuộc chiến để phá vỡ một
hệ thống xã hội đang có để thành lập một chế độ khác tệ hại hơn vạn
lần. Cái trớ trêu của lịch sử Việt Nam là có những kẻ rao giảng
những điều không tưởng của ý thức hệ ngoại lai để tạo thành cảnh núi
xương sông máu. Tuổi trẻ Việt Nam đã có những lời kinh cầu từ:
“Vâng tuổi trẻ tôi như lá thu
đã nửa vàng từ cơn gió đưa
hồn còn trong như một bài kinh
vâng tuổi trẻ tôi như phúc âm
đã gian truân từ đêm tối tăm
người còn say sưa bày tiệc vui
từng thịt xương máu người còn khơi
hòa bình đến với lời cầu xin
triệu hồi chuông trong tháp tin vui
nhưng âm vang chưa tàn
đã thấy một thủy triều nước mắt đầy hơn…”
Sau 1975, bị đi tù với tội danh là “văn nghệ sĩ”, ngồi trong khám
nghe ngoài kia đời sống bình thường trôi qua, những ca từ như có một
chút gì thầm thì nhớ về. Chiều ở trong tù thật buồn, như nỗi nhớ
thương cứ loang trong huyết quản. Bài nhạc “Chiều trong tù”:
Ai nghe chăng tiếng đàn xa vắng
Ta nghe ta đã dường khác xưa
Tay qua ngang vết hằn năm tháng
Trong đau thương tóc người cứng khô
tên hoang vu những tầng mây trắng
Ta nghe ta trong niềm xót xa
Vai em thơm như mùa thu nắng
Vai bao nhiêu... máu hồng tình xa
Chiều trong tù anh nhớ em
Anh trông trời, trời như tấm khăn
Trông quanh mình như hàng khóa câm
nhưng mắt người quầng thâm cũng trông
người nhớ người, hơi nhớ hơi
trong âm thầm còn ai nhớ ai
cho mưa lạnh lùng rơi xuống rồi
cho đêm buồn một cơn đau dài”
Có phải thơ là nhạc và nhạc là thơ và nỗi nhớ mong cũng rất...
Nguyễn Đình Toàn, một chút nhẹ nhàng sương khói, một chút bàng bạc
xót xa. Và trong cùng tận thâm tâm vẫn là mong manh mơ hồ một niềm
tin nào vẫn còn hiện hữu.
Viết về Nguyễn Đình Toàn, hình như tôi bị vướng vất với kỷ niệm của
tôi. Mà trong ký ức ấy, có rất nhiều niềm vui của người luôn luôn
sống từng giây từng phút với dĩ vãng mình. Nó sống sinh động, là ký
vãng chứ không phải là quá vãng. Đọc văn ông, đọc thơ ông và nghe
nhạc của ông tôi không dừng được từ những miên man cảm xúc. Và lúc
ấy, tôi có cảm giác là sống thêm được một vài giây phút mà tôi cho
là “bonus“ của một ngày của riêng tôi…
Nguyễn Mạnh Trinh |