.

PSN
BỘ MỚI 2007
HỘP THƯ

                            TRANG CHÍNH

Không có con đường nào đưa ta đến Hạnh phúc, Hạnh Phúc là con đường - There is no way to happiness - happiness is the way (Thích Nhất Hạnh)

bút
việt
hồn
quê

THƯ MỤC CÁC TÁC GIẢ

Thích Phước An | Trần Đỗ Cung | Kiều Mỹ Duyên | Trần Trung Đạo | Minh Triết TRẦN THIỆN ĐẠT | Trần Kiêm Đoàn | Phổ Đồng | Tâm Hải Đức | Võ Thị Trúc Giang | Trần Đan Hà | Nhất Hạnh | Tuệ Chương - Hoàng Long Hải | Vĩnh Hảo | Chiêu Hoàng | Đại Lãn | Lặng Lẽ | Lâm Kim Loan | Trần Quan Long | Phạm Trọng Luật | Miêng | Diệu Trân | Không Quán | Phan Quân | Đặng Văn Sinh | Tuệ Sỹ | Ninh Hạ - Nguyễn Đức Tâm | Phong Thu | Nguyễn Mạnh Trinh | Lê Khánh Thọ | Trần Đình Thu | Trần Khải Thanh Thuỷ | Anh Thư | Tiểu Tử | Nguyễn Ước | T. Vấn | Hiền Vy | Tịnh Ý | Tác Giả Khác ...

GIAI THOẠI

Bùi Giáng | Hữu Loan | Giang Hữu Tuyên

 

 

 

 Nhất Hạnh

Nguyễn Bính,
"Hành phương nam"

 

  • PSN 27.07.2008
    Đọc, nói thơ trong mỗi độ giao thừa là một trong những nghệ thuật sống đẹp không thể thiếu của nhà thơ Nhất Hạnh, nghệ thuật đó đã có từ khi thi sĩ còn rất trẻ. Sau khi xuất gia và trở thành thiền sư nhà thơ đã biến nghệ thuật ấy thành truyền thống trong các thiền viện của Mai thôn đạo tràng do ông hướng dẫn.

     

    Phù Sa đã sưu tầm từ nhiều nguồn riêng biệt rải rác đó đây những bài bình giảng ấy của thi sĩ dưới dạng âm thanh, rồi phiên tả, biên tập lại thành văn viết. Tuy có tính cách riêng tư vì Thầy chỉ nói riêng với học trò trong chốn thiền môn, nhưng nhận thấy: ngoài giá trị về mặt văn học, nghệ thuật, tác giả còn mở ra cho ta một khung trời mới, khung trời của trí tuệ và tình thương lớn, mà chỉ có tuệ giác của một Thiền sư mới thể hiện được cho dù nguyên tác là những bài tình thơ lãng mạng.

     

    Phù Sa sẽ lần lượt phổ biến lên trang này từng bài một trước khi in thành sách với tựa đề Thơ trong cửa thiền, hay  Thầy Nhất Hạnh đọc thơ lúc giao thừa. Và đây là bài thơ Hành phương nam của Nguyễn Bính mà Thầy đã đọc cho học trò 4 chúng tại Làng Mai - Pháp  vào đêm giao thừa Tân Tỵ - Nhâm Ngọ (2002).

     

 

Giao thừa năm ngoái, chúng ta đã đọc bài Giây Phút Chạnh Lòng, bài có chủ đề là ra đi. Người con trai ra đi vì một sự nghiệp, vì một chí hướng, vì một lý tưởng và vào một ngày cuối năm, trong khi mọi người đang chuẩn bị đón giao thừa thì người con trai chạnh lòng nhớ lại, nghĩ tới người thương của mình, nhưng biết rằng mình không thể nào ở lại nhà được, mình phải tiếp tục đi thôi. Người ở nhà nếu quả thực là hiểu được người mình thương thì cũng nên biết rằng dầu mình có những cái yếu đuối ở trong lòng, mình vẫn phải yểm trợ cho người ra đi.

Và người ra đi là phải đi thôi, nếu không ra đi thì không có hạnh phúc. Người ra đi là người có một chí hướng, có một năng lượng mà mình bắt năng lượng đó trói lại, nhốt lại thì mình chỉ làm cho người đó khổ thôi. Vì vậy hay hơn hết là cứ để cho người ra đi và mình đem hết cả tâm hồn của mình để mà yểm trợ cho người đó. Một làn hương, một tia nắng mà mình còn không giữ được, huống hồ là một người con trai có chí nguyện lớn cho nên phải để cho người đó ra đi dầu trong lòng mình có sự xót xa, nuối tiếc.

Ngày xưa Yasodhara cũng có tâm trạng như vậy. Yasodhara biết là Siddhata không thể không ra đi được và mọi cố gắng để trói buộc người con trai, không cho người con trai ra đi, Yasodhara biết rằng nó không có hiệu nghiệm, nó không có hiệu quả. Yasodhara cũng chỉ là người phụ nữ thường tình nhưng cô biết là phải để cho người con trai ra đi và nếu vì mình mà người con trai không ra đi được thì người con trai đó đâu còn là người con trai của mình, có giữ thì cũng không còn.

Hồi 1940 cho tới 1945 thì phần lớn những người con trai Việt Nam đều muốn ra đi hết, Thầy lớn lên trong giai đoạn đó và Thầy đã chứng kiến được những cuộc ra đi. Tại vì đất nước bị nô lệ, đất nước lầm than. Hồi 14, 15 tuổi có những lúc thức dậy buổi sáng, Thầy thấy ngoài đường có những xe cam nhông đi chở những xác chết của những người đói, chở đầy hết. Đất nước không có chủ quyền độc lập, đất nước bị nô lệ, dân chúng bị đói. Hồi đó người Pháp còn có chủ quyền ở Việt Nam.

Và năm 14 tuổi Thầy thấy những người anh, người chị, họ khoảng 20, 22 tuổi và họ bị bắt, tay của họ bị trói lại và Thầy rất thương. Lúc đó mình không biết họ làm gì để bị bắt như vậy? Nhưng biết rằng họ có một lý tưởng gì đó nên họ mới lâm vào vòng tù tội. Hồi 14 tuổi Thầy đã được đọc sách báo cách mạng và Thầy cũng muốn ra đi.

Bài Tống Biệt Hành của Thâm Tâm viết vào năm 1940. Thâm Tâm là người Hà Nội.

Đưa người ta không đưa sang sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?

Mình đưa sang sông thì mình mới thấy sóng và thấy sóng ở bên ngoài thì sóng ở trong lòng mới nổi dậy. Ở đây mình đâu có đưa sang sông sao có tiếng sóng ở trong lòng? Tình trạng đất nước, xã hội, cũng như khổ đau nó thúc đẩy mình, người con trai là phải nên làm một cái gì. Mình cũng muốn đi nhưng mà chưa đi được, mình phải ở lại và khi những người bạn của mình, những người anh, người chị, người em của mình ra đi thì mình phải đưa thôi.

Đưa người ta không đưa sang sông,
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?

Trong lòng mình không có yên, trong lòng mình có sóng gió và mình cũng muốn ra đi.

Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?

Tuy là của mùa hè, đất trời đang còn xanh tươi, cây cối chưa vàng vọt nhưng sao nhìn vào mắt của người kia thì mình thấy có hoàng hôn, có một nỗi buồn nào đó.

Đưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng.

Gia đình có mẹ, có chị, có em nhưng mình không ở lại được, mình phải ra đi. 

Một giã gia đình, một dửng dưng.

Từ giã gia đình và làm bộ dửng dưng tại vì nếu không làm bộ dửng dưng thì làm sao đi được.

- Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ.

Ly khách tức là người đi.

Chí lớn chưa về bàn tay không,

Nếu mình có chí nguyện to lớn thì mình không thể nào về hai bàn tay không được.

Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.

Khi ra đi là mình có chí nguyện nào đó và nhất định nếu không đạt được chí nguyện thì mình sẽ không trở về. Hình ảnh mà tất cả thanh niên Việt Nam thời đó đều tôn thờ là hình ảnh của Kinh Kha. Kinh Kha sống ở thời Chiến quốc, cuối đời Xuân Thu, vào thế kỷ thứ năm cho đến thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, có bảy nước tranh chấp nhau. Có hai người, một người tên Nhiếp Chính, một người tên là Kinh Kha. Nhiếp Chính là một người anh hùng ẩn thân đời Chiến Quốc đi giết tướng quốc của nước Hàn là Hiệp Lũy, rồi rạch nát mặt, tự vẫn chết để không ai tìm được tung tích. Kinh Kha là người nhận trách nhiệm đi ám sát Tần Thủy Hoàng, ngày Kinh Kha lên đường Thái tử Yên Đan tổ chức một lễ đưa tiễn rất là lớn vì biết rằng người này đi sẽ không bao giờ trở lại. Tại vì sứ mạng rất là lớn, phải giết cho được Tần Thủy Hoàng, phải giết cho được bạo chúa. Câu thơ đó người thanh niên Việt Nam nào cũng thuộc.

Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn
Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn

Gió thổi rờn rợn, nước sông Dịch lành lạnh và người tráng sĩ  một phen đi thì không bao giờ trở lại. Bây giờ mình đưa người bạn mình đi cũng  vậy, cũng nghĩ tới Kinh Kha.

- Ly khách ! Ly khách! Con đường nhỏ.
Chí lớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại !
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.

Trước năm 1940 các thi sĩ sáng tác toàn là thơ tình, cứ yêu qua yêu lại rồi đau khổ, rồi sầu thương. Nhưng bắt đầu từ năm 1939-1940 thì có sự tỉnh dậy trong giới thanh niên, tỉnh dậy trước thực tại cay đắng, khổ đau đen tối của đất nước, của xã hội. Và vì vậy cho nên không có làm thơ khóc gió thương mây nữa. Bài này là một trong những bài đánh dấu giai đoạn thức tỉnh của người thanh niên Việt Nam.

Ta biết ngươi buồn chiều hôm trước,
Bây giờ mùa hạ, sen nở nốt,
Một chị, hai chị cũng như sen,
Khuyên nốt em trai dòng lệ xót.
Ta biết ngươi buồn sáng hôm nay:

Buồn chứ sao không buồn, bỏ mẹ, bỏ các em ở lại. Không biết phía trước con đường như thế nào? Rất là mờ ảo. Không biết mình sẽ làm cái gì? Mình chỉ biết là mình muốn đi thôi, con đường trước mặt là cả một khu rừng chưa khai phá. Con đường cách mạng xã hội của một dân tộc, chưa có cái gì rõ ràng, chưa có cái gì đã sắp đặt cả. Nơi tâm trạng người đi có sự hoang mang, có sự nhớ nhung, có sự luyến tiếc nhưng cứ giả vờ dửng dưng thôi.

Một giã gia đình, một dửng dưng.

Ta biết ngươi buồn chiều hôm trước,
Bây giờ mùa hạ, sen nở nốt,
Một chị, hai chị cũng như sen,
Khuyên nốt em trai dòng lệ xót.
Ta biết ngươi buồn sáng hôm nay :
Trời chưa mùa thu, tươi lắm thay,
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Vo tròn thương tiếc chiếc khăn tay….

Người đi? Ừ nhỉ ! Người đi thực ! (Không phải chuyện chơi.)
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu cay.

Đi là phải như vậy, thương mẹ bao nhiêu cũng phải đi, thương em bao nhiêu cũng phải đi tại vì chí hướng của người con trai là phải đi thôi. Mình sống trong thời đại của mình, mình là một chàng thanh niên, mình là một cô thiếu nữ, mình thấy mình đại diện cho cả một thế hệ của mình. Mình không đi với tư cách một cá nhân, mình đi với tư cách của cả một thế hệ. Mình thấy tất cả những người đó trong mình, mình không phải đi đơn độc. Nguyễn Bính cũng đi nhưng trước khi đi Nguyễn Bính đã nghiện rượu, đã ghiền thuốc phiện. Trước khi giật mình tỉnh thức, thanh niên Hà nội cũng đã ăn chơi, cũng đã đi vào trong cuộc sống của sự hưởng thụ.

Bài Hành Phương Nam của Nguyễn Bính làm vào khoảng năm 1946-1947.

Hai ta lưu lạc phương Nam này (Hai đứa đi vào Nam)
Trải mấy mùa qua én nhạn bay
Xuân đến khắp trời hoa rượu nở
Riêng ta với ngươi buồn vậy thay !

Hai đứa không có nhà, không có cửa, đi tìm con đường, tìm chí hướng nhưng mà tìm chưa ra.

Lòng nắng xá gì đôi hớp rượu
Mà không uống cạn mà không say !

Đã thành nghiện rượu, đâu có thể không uống được, vì vậy có đồng nào đem ra uống đồng đó. Trước đó Nguyễn Bính đã vướng vào vòng rượu và ma túy. Muốn ra đi nhưng vốn liếng của mình còn nghèo nàn. 

Lời thề buổi ấy cầu Tư Mã
Mà áo khinh cừu không ai may !

Tư Mã Tương Như là một chàng nhạc sĩ đánh đàn cho Trác Văn Quân nghe, khúc đàn đó là Tư Mã Phượng Cầu. Phượng Cầu Hoàng là con chim Phượng đi tìm con chim Hoàng tức là khúc hát của tình yêu.

Lời thề buổi ấy cầu Tư Mã
Mà áo khinh cừu không ai may.

Không có ai may cho mình, đan cho mình một chiếc áo để mình có thể ra trận.

Ngươi giam chí lớn vòng cơm áo
Ta trói thân vào nợ nước mây

Vấn đề cơm áo là vấn đề rất lớn. Nợ nước mây là đi làm sự nghiệp của người con trai.

Ai biết thương nhau từ thuở trước
Bây giờ gặp nhau trong phút giây
Nợ tình chưa trả tròn một món
Sòng đời thua đến trắng hai tay

Tất cả những cố gắng của mình từ trước đến nay đều thất bại hết từ sự nghiệp cho tới danh vọng.

Nợ tình chưa trả tròn một món

Tình yêu thì cũng không có xong mà chí hướng thì cũng không có thành.

Nợ tình chưa trả tròn một món
Sòng đời thua đến trắng hai tay
Quê nhà xa lắc xa lơ đó
Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay

Quê nhà thì ở Hà nội còn mình đang ở miền Nam.

Tâm giao mấy kẻ thì phương Bắc
Phân tán vì cơn gió bụi này
Người ơi ! Buồn lắm mà không khóc
Mà vẫn cười qua chén rượu đầy
Vẫn dám tiêu hoang cho đến hết
Ngày mai ra sao rồi sẽ hay

Tức là trong lòng mình có sứ mệnh muốn ra đi mà mình vẫn bị trói buộc bởi những tập khí cũ, bởi những yếu đuối cũ tức là xì ke và nghiện ngập. Nguyễn Bính cũng có nhắc tới Kinh Kha, cũng nhắc tới Nhiếp Chính.

Ngày mai sáng lạn mầu non nước
Cốt nhất làm sao từ buổi này

Đây là một sự giác ngộ, thi sĩ thấy rằng ngày mai như thế nào là do cái ngày hôm nay và ngày hôm nay như thế nào, tâm trạng mình như thế nào, hoàn cảnh mình như thế nào và vốn liếng mình như thế nào?

Ngày mai sáng lạn mầu non nước
Cốt nhất làm sao từ buổi này
Rẫy ruồng châu ngọc, thù son phấn
Mặt đỏ lên rồi, cứ chết ngay

Hỡi ơi ! Nhiếp Chính mà băm mặt
Giữa chợ ai người khóc nhận thây
?
Kinh Kha quán lạnh sầu nghiêng chén
Ai kẻ dâng vàng, ai biếu tay?

Kinh Kha được Thái tử Yên Đan hậu đãi, cô thị nữ mang khay trà vào, Kinh Kha khen hai bàn tay của cô đẹp quá. Thái tử Đan nghe báo cáo như vậy thì nói với cô thị nữ: cô tặng cho tráng sĩ hai bàn tay đi. Rồi sai chặt hai bàn tay cô thị nữ để trên khay rồi mang vào cho Kinh Kha. Thái Tử hy sinh một mạng người để nung nấu chí hướng của người tráng sĩ.

Ai kẻ dâng vàng, ai biếu tay?

Tráng sĩ nói ưa hai bàn tay đó thì chúng tôi dâng tặng cho tráng sĩ hai bàn tay đó. Ngày Kinh Kha lên đường, đi qua sông Dịch, ba ngàn người mặc đồ tang đến đưa tiễn.

Mơ gì ấp Tiết thiêu văn tự
Hài cỏ, gươm cùn, ta đi đây

Đôi giày của mình là giày cỏ, gươm của mình là gươm cùn nhưng tráng sĩ vẫn đi nhưng không biết đi về đâu?

Ta đi nhưng biết về đâu chứ?
Đã dấy phong yên khắp bốn trời
Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
Uống say mà gọi thế nhân ơi!

Muốn đi mà không biết đi về đâu? Thôi, nếu không đi thì ở lại uống cho say. Nguyễn Bính có tâm trạng như vậy nhưng rốt cuộc vẫn đi vào chiến khu, phục vụ trong Ủy ban Việt Minh tỉnh bộ tỉnh Rạch Giá và đi vào rừng U Minh phục vụ kháng chiến trong vòng chín năm trời cho đến khi tập kết ra Bắc, trong thời gian đó Nguyễn Bính cưới vợ, cô vợ người miền Nam. Thầy đọc thơ thì Thầy thấy rằng thơ kháng chiến, thơ cách mạng của Nguyễn Bính không có hay lắm, thơ Nguyễn Bính không có hạp thơ kháng chiến.

Số thanh niên có lý tưởng cách mạng, có lý tưởng kháng chiến ra đi rất là đông nhưng có hằng ngàn người, hằng chục ngàn người, hằng trăm ngàn người đã ngã gục. Không phải giữa súng đạn mà ngã gục trong tổ chức gọi là cách mạng. Điều này không phải chỉ đúng ở Việt Nam mà đúng cho hết tất cả các nước. Trong cuộc cách mạng nó có sự thủ tiêu nhau. 

Khi mình ra đi thì lý tưởng rất đẹp, rất cao quý nhưng mà khi đi vào trong tổ chức, dầu là tổ chức cách mạng, mình cũng thấy được sự lạm quyền, sự lợi dụng, những đạo đức giả. Nỗi khổ, niềm đau của người trẻ rất lớn, đi lui thì lui không được, đi tới thì không có phương, không có hướng. Mình đi tu cũng vậy, ban đầu mình nghĩ rằng trong tổ chức giáo hội có sự thánh thiện, có hào quang, có sự tốt đẹp nhưng khi đi vào trong tổ chức giáo hội mình cũng có thể thấy được những hư hỏng những tham vọng, những danh lợi, những giả dối và người đi tu cũng có thể ngã gục trên bước đường đi tu của mình.

Câu hỏi là tại sao Thầy không có đi vào Đảng mà đi vào Chùa? Thay vì đi vào một đảng cách mạng thì mình lại đi vào chùa. Đó là câu hỏi rất là hay, nó phải có một hạt giống nào đó, nó phải có một nguyên do nào đó khiến một người con trai thay vì đi vào một đảng chính trị nào đó thì lại đi vào một ngôi chùa. Muốn tìm hiểu được cái đó thì mình phải đi vào trong đời sống của dân tộc của mình, tại mình có tổ tiên tâm linh và mình cũng có tổ tiên huyết thống và người con trai nào cũng có chí hướng cả.

Siddhatta cũng có thể đi vào con đường chính trị nhưng mà Siddhatta đã chọn con đường tâm linh. Trong khi vua tịnh Phạn rất muốn Siddhatta đi vào con đường chính trị, đặt hết hy vọng của mình vào Siddhatta thì Siddhatta khước từ con đường đó và đi kiếm một con đường khác. Mình là những người con trai, những người con gái đã không đi làm chính trị mà đi tu là mình thấy mình có cái gì giống như Siddhatta. Mình thấy đây cũng là con đường phụng sự, mình hợp với con đường này hơn và mình thấy con đường này đem lại cho mình nhiều sự an tâm, nhiều năng lượng hơn.

Những năm gần đây, Thầy khám phá ra rằng là niềm thao thức, niềm trăn trở ở trong người thanh niên phải được nuôi dưỡng và người thanh niên không thể nào sống một cách thất niệm và vùi mình trong chuyện ăn chơi được. Thanh niên Việt Nam hồi 1940 đã làm được như vậy, đã không thể tiếp tục sống cuộc sống quên lãng ăn chơi. Thanh niên Việt Nam thời đó đã thức dậy, hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn người đã đi vào trong con đường cách mạng nhưng cũng có hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn đã ngã gục trên bước đường phục vụ cho cách mạng. Có những thầy trẻ, có những sư chú trẻ đi tu nhưng cũng phục vụ cách mạng và có nhiều người bị bắn chết. Thầy mang những người đó trong con người của Thầy. Lý tưởng tâm linh nó có thể đi đôi với lý tưởng cách mạng? Nó có sự dùng dằng giữa hai con đường, một là cởi áo tu đi theo cách mạng, hai là tiếp tục giữ áo tu? Câu hỏi đó nó ở trong rất nhiều người trẻ của thời đại 1945-1950. Thầy có viết bài Trái Ý Thức Chín Rồi.

Tuổi trẻ tôi
Trái mơ xanh
Vết răng của em
Gây thành thương tích nhỏ
Những chân răng rúng động
Và nhớ hoài
Nhớ hoài

Đây là tình yêu của tuổi thanh niên.

Nhưng từ thuở yêu em
Cánh cửa tôi mở rộng trước gió
Thực tại kêu gào cách mạng
Trái ý thức chín rồi
Cánh cửa
Không thể nào còn khép lại

Đó cũng là tâm trạng của người thanh niên Việt Nam thời 1940, khi mình đã thấy được những đau thương, những khổ nhục của đất nước ta vào thời ấy thì không thể nào an tâm để sống một cuộc đời hưởng thụ được nữa.

Nhưng từ thuở yêu em
Cánh cửa tôi mở rộng trước gió
Thực tại kêu gào cách mạng
(Đòi hỏi cách mạng)
Trái ý thức chín rồi
Cánh cửa
Không thể nào còn khép lại

Lửa
Lửa cháy tràn thế kỷ
Loang lổ núi rừng hoang
Gió thét ngang tai
Bão tuyết bên trời quằn quại
Vết thương mùa đông
Vết thương mùa đông nằm nhớ lưỡi thép lạnh
Bồn chồn, trăn trở,
Nhức nhối
Thâu đêm

Những câu thơ rất là ngắn, có hai chữ, có ba chữ. Những hình ảnh vết thương và đêm không ngủ, ôm lấy vết thương đó và nhớ lưỡi gươm đã tạo ra vết thương của mình. 

Vết thương mùa đông
Vết thương mùa đông nằm nhớ lưỡi thép lạnh
Bồn chồn, trăn trở,
Nhức nhối
Thâu đêm

Mình biết tình trạng giáo hội là nó như vậy, mình biết tình trạng đất nước là như vậy và ký ức đó không thể nào phai mờ được, mình có một nỗi niềm thao thức, mình có một nỗi niềm trăn trở và chính trăn trở đó, thao thức đó đưa mình đi tới. Nhưng mà trong hàng vạn người thanh niên đi cách mạng, người nào cũng có niềm trăn trở đó nhưng họ đi tới đâu? Sau hai năm, sau ba năm, sau năm năm, sau mười năm ý chí của họ bị nhụt đi. Tại vì họ không được nuôi dưỡng, không có những chất liệu nuôi dưỡng họ, không có đủ tình thương, không có đủ tình người, nó có sự tranh đua, có sự đè nén, nó có sự thủ tiêu. Vì vậy cho nên biết bao người thanh niên bị gục ngã trên con đường cách mạng.

Số thanh niên bị nhụt chí, bị chồn chân, bị thất vọng trong con đường phục vụ, trong con đường tranh đấu, con số đó rất là đông. Có những người chết âm thầm, có những người chết oan ức, có những người không có cơ hội nói ra được sự thật trong lòng của mình. Số người sống âm thầm, chết oan như vậy đông lắm ở trong các trào lưu cách mạng. Nếu quí vị có cơ hội nói chuyện với những người đã ở 10 năm, 20 năm, 40 năm trong cách mạng và nghe họ kể chuyện của họ thì quí vị thấy được.

Những thao thức, những trăn trở của mình nó có thể đưa mình đi tới giai đoạn nào đó trong thời đại nào đó nhưng nếu mình không có được nuôi dưỡng, nuôi dưỡng bằng chất liệu rất cần thiết cho tâm linh của mình thì mình cũng bị khô cạn tại vì sức người có giới hạn. Vì vậy cho nên trăn trở và thao thức không có đủ. Trên bước đường cách mạng cũng như trên đường tu học mình phải được nuôi dưỡng, mình phải có môi trường trong đó mình vừa phấn đấu, mình vừa được nuôi dưỡng và được trị lành những thương tích của mình.

Nếu mình không có môi trường thích hợp, mình không có sự nuôi dưỡng thì mình không đi xa được và mình sẽ chết giữa đường mà người Tây phương gọi là burn out và chí hướng của người thanh niên không thành tựu được. Nghĩ như vậy thì chúng ta thấy cảm thông cho biết bao nhiêu triệu người thanh niên Việt Nam đã bị ngã gục. Trong nửa thế kỷ vừa qua họ có dư bầu nhiệt huyết, họ có dư năng lượng của sự chiến đấu nhưng mà họ không được nuôi dưỡng trong môi trường của họ, môi trường của tổ chức, môi trường của đảng, môi trường của xã hội, nó chỉ có sự giành giựt, nó chỉ có sự lấn áp, nó chỉ có sự thủ tiêu, mà không có đủ sự nâng đỡ, nuôi dưỡng và thương yêu.

Chuyện ngoài đời nó như vậy mà chuyện trong đạo nó cũng như vậy, một tổ chức giáo hội cũng có thể có sự hư hỏng, nó cũng có sự tham nhũng, nó cũng có sự hủ hóa. Những người trong lãnh đạo giáo hội có thể hoạt động trên cơ sở cái ngã của cái danh và của cái lợi. Ngoài đời thì họ xôi thịt, danh lợi, còn trong đạo thì có thể “xôi chuối” thôi. Danh lợi trong chùa tuy “chay” hơn nhưng nó vẫn là danh lợi như thường.

Người trẻ khi thấy những người lớn, họ vướng vào vòng của danh, của lợi thì họ mất niềm tin, họ không đi tới được và họ cũng “chết” như những người đi làm cách mạng và biết bao nhiêu người tu cũng đã chết theo cái kiểu đó. Bỏ cái áo tu đi ra đời trở lại và là gì? Nếu không phải là cái “chết” của người tu. Bao nhiêu người đã chết trong môi trường của sự tu học? Mình có dư ý chí, mình có dư sự thao thức, mình có dư sự trăn trở nhưng mình không có được sự nuôi dưỡng, mình không có được sự vỗ về, mình không có được tình thương.

Làm người xuất gia, Thầy đã đi ngang qua những kinh nghiệm đau thương đó, không những ở ngoài đời mà còn trong đạo nữa. Thầy đọc một bài thơ nói lên cái Thông điệp đó.

Trán tôi đã từng nhăn
Và ưu tư cuộc đời đã về ghi dấu chân nặng nề
Trên khoảng trời mai ấy
Nhưng trẻ thơ tâm hồn tôi hôm nay trở lại
Hoa lá về trên nụ cười buông thả
Vô tình xóa mờ những nếp nhăn đi

Nếp nhăn ở trên trán mình, mình đã đi tu rồi nhưng mà trên trán mình có hằn lên những vết nhăn. Nếp nhăn đó vừa do hoàn cảnh xã hội bên ngoài tạo ra và cũng vừa do hoàn cảnh của giáo hội tạo ra.

Trán tôi đã từng nhăn
Và ưu tư cuộc đời đã về ghi dấu chân nặng nề
Trên khoảng trời mai ấy 

Vầng trán của người thanh niên là một bình minh nhưng mà cuộc đời đã ghi lên dấu nhăn trên đó.

Nhưng trẻ thơ tâm hồn tôi hôm nay trở lại

Không biết vì lý do nào đó mà hôm nay những nếp nhăn trên trán biến đi. Như trẻ thơ tâm hồn tôi hôm nay trở lại, có nghĩa là tâm hồn tôi hôm nay trở lại như tuổi thơ.

Hoa lá về trên nụ cười buông thả

Mình có thể cười được và vì cười được nên những nếp nhăn trên trán biến đi.

Hoa lá về trên nụ cười buông thả
Vô tình xóa mờ những nếp nhăn đi
Như mưa chiều nay xóa đi
những dấu chân trên bãi vắng - qua một chu kỳ.
Tôi đi giữa rừng chông gai
như đi giữa vườn kỳ hoa dị thảo

Đó là một phép lạ, khi mình đi trong rừng chông gai mà mình thấy như mình đi trên vườn kỳ hoa dị thảo.

Đầu cất cao, nụ cười ngày xưa còn đó
Những vần thơ đã nở trong tiếng gào súng đạn
Nước mắt ngày xưa khóc nắng quái chiều hôm
trên chiến trường vàng vọt
Bỗng đã trở thành mưa.
Tiếng mưa rơi êm êm trên mái lá
Quê hương tuổi thơ thầm gọi tôi về
Mưa xóa đi bao tâm tư sầu muộn

Mình có quê hương tuổi thơ và mình phải về cầu cứu cái quê hương đó.

Tôi vẫn còn - nụ cười chiều nay bình lặng
Trái ngọt chín trên cây rừng cay đắng
Ôm xác em thơ, tôi băng qua ruộng lúa quê hương đêm nay

Biết bao nhiêu người vô nhà thương ôm xác người em của mình, người anh của mình băng qua ruộng lúa.

Đất mẹ sẽ gìn giữ em
Để trên bãi cỏ xanh non,
sáng mai này em sẽ luân hồi thành những bông hoa mới
Những bông hoa cười trầm lặng trong bình minh đồng nội.

Giờ phút này em có còn khóc đâu
– qua một đêm dài thăm thẳm sâu
Sáng nay tôi quỳ trên bãi cỏ xanh
khi trông thấy những bông hoa mang nụ cười huyền diệu
Thông điệp của hy sinh của hiểu biết quả đã tới nơi rồi.

Thầy đã thấy những người bạn tu, những người thanh niên 25 tuổi, 20 tuổi, 18 tuổi, 17 tuổi, 16  tuổi bị bắn chết.

Thầy sẽ đọc bài Xin Cúi Đầu Đưa Về, bài này nói những khổ đau của Thầy đối với những người trong giáo hội, trong Sangha. Khi mình đi tu tức là mình phải vào một đoàn thể và mình đặt hết niềm tin vào đoàn thể đó, nhưng mà có thể trong đoàn thể đó có người phản bội mình, phản bội lý tưởng của chính họ. Mình đi làm cách mạng, mình phải đặt niềm tin nơi đảng; mình đi tu mình phải niềm tin nơi giáo hội, nhưng đảng có thể phản mình, phản bội lý tưởng của người trẻ; giáo hội có thể phản bội lại cái niềm tin của người xuất gia trẻ.

Xin Cúi Đầu Đưa Về, bài này đọc mà không để ý thì không thấy được.

Đây hai bàn tay tôi
Xin trả về cho em
Thành khẩn nguyện cầu xin đừng nghiến nát
Tôi đã trở về, như một kẻ đầu hàng ngoan ngoãn
Dù muôn khổ đau, lòng không oán thán,
Bởi vì dưới ngôi sao em tôi đã sinh ra,
Bởi vì vì em tôi mới sinh ra
Để vạn kiếp làm người trai khờ dại

Người ta phụ mình nhưng mình vẫn cứ thương. Mình thương Tăng bảo, mình đặt hết niềm tin vào Tăng bảo và Tăng bảo không có đủ bảo, Tăng bảo có phần tử vì danh, vì lợi đã phản bội mình, phản bội lý tưởng của mình. Mình gọi là người yêu của mình, mình nói là em, em đây tức là tổ chức giáo hội.

Đây hai bàn tay tôi
Xin trả về cho em

Đầu hàng thôi, mình đã bỏ đi rồi nhưng bỏ đi không được phải trở về xây dựng tăng thân, dầu tăng thân hư hỏng, dột nát thì vẫn phải trở về để xây dựng lại tăng thân, nó không có một điều thứ hai.

Đây là hai bàn tay tôi
Xin trả về cho em
Thành khẩn nguyện cầu xin đừng nghiến nát

Tức là đã bị nghiến nát rồi và mình đã băng bó lành rồi và bây giờ dâng lại. Mình chỉ có hai bàn tay thôi, hai bàn tay của một người trẻ, hai bàn tay để mà thương yêu, để mà xây dựng, để mà đóng góp nhưng mà bàn tay cứ bị nghiến nát hoài, thành ra có khi giận, có buồn bỏ đi, bị nghiến mà vẫn trở về.

Đây hai bàn tay tôi
Xin trả về cho em
Thành khẩn nguyện cầu xin đừng nghiến nát
Tôi đã trở về, như một kẻ đầu hàng ngoan ngoãn
Dù muôn khổ đau, lòng không oán thán,
Bởi vì dưới ngôi sao em tôi đã sinh ra,
Bởi vì vì em tôi mới sinh ra
Để vạn kiếp làm người trai khờ dại

Yêu rồi bị phụ tình, phụ tình mà vẫn cứ yêu như thường mới lạ?

Đây là hai bàn tay tôi
Là trái tim
Là khối óc
Là cuộc đời
Là tất cả những gì còn sót lại
Những bàn tay không mang quyền phép lạ
Nhưng đã hơn một lần nhỏ máu trên cung bậc thương yêu.

Tức là trên cái Piano đó, trên cái Guitar đó, những ngón tay này đã đàn, những bản đàn của thương yêu, của phụng sự nhưng những ngón tay đó đã nhỏ máu. Thương hết sức, thương hết tất cả trái tim của mình chứ không phải là thương sơ sơ. 

Đây là hai bàn tay tôi
Là trái tim
Là khối óc
Là cuộc đời
Là tất cả những gì còn sót lại
Những bàn tay không mang quyền phép lạ
Nhưng đã hơn một lần nhỏ máu trên cung bậc thương yêu.

Bốn dây nhỏ máu, năm đầu ngón tay.

Những bàn tay không mang quyền phép lạ
Nhưng đã hơn một lần nhỏ máu trên cung bậc thương yêu.

Đây hai bàn tay tôi
Xin trả về cho em
Kẻ thương yêu, mẹ dạy, không bao giờ tính toán
Cỏ mộ úa vàng, cũng như hoa hồng đương lứa
Thương yêu muôn đời vẫn hạt sương trong

Người ta có sao thì sao mình vẫn thương cứ thương như thường.

Đây hai bàn tay tôi
Xin cúi đầu đưa về
Em nhìn xem:những vết thương ngày xưa vẫn chưa lành dấu máu
Mười ngón đơn sơ hồn em xin đậu
Như những giọt sương ngời đầu ngọn cỏ rung rinh

Đây là những câu đẹp nhất của bài thơ. Những ngón tay của mình dâng hiến cho lý tưởng, cung đàn của thương yêu, của phụng sự và dầu mình có nhỏ máu trên năm đầu ngón tay thì mình vẫn phải tiếp tục như thường.

Đây hai bàn tay tôi
Xin cúi đầu đưa về
Em nhìn xem: những vết thương ngày xưa vẫn chưa lành dấu máu
Mười ngón đơn sơ hồn em xin đậu
Như những giọt sương ngời đầu ngọn cỏ rung rinh

Đây hai bàn tay tôi
Một kiếp luân hồi chưa xóa nhòa thương tích
Nụ cười còn đây, tôi không bao giờ oán trách
Còn đây tâm hồn thơ dại ngày xưa

Đây hai bàn tay xưa
Băng bó vẫn chưa lành
Tôi mang về trả lại
Thành khẩn nguyện cầu xin đừng nghiến nát
Nguyện cầu mười phương trăng sao chứng minh.

Những bài thơ này nó không phải là thơ, những bài thơ này là xương thịt của sự sống hàng ngày. Nếu quí vị có thì giờ tìm đọc truyện ngắn của Thầy, Câu Chuyện Người Con Trai Khờ Dại. Mình bị phụ tình hoài mà vẫn cứ trở về như thường. Cái bí quyết của Thầy là chỗ biết rằng mình phải nuôi dưỡng mình, mình đừng để cho nguồn năng lượng của mình khô cạn. Thầy viết những câu rất là đơn sơ.

Quê hương tôi là đây
Chỉ có dòng sông, chỉ hàng cau, bụi tre, vườn chuối.
Mặt trái đất dù mang đầy cát bụi
Nhưng trăng sao vẫn đẹp những đêm Rằm

Nó có hai cái, cái thứ nhất là trên mặt đất mà mình đứng có nhiều bụi và mỗi khi mình ngước mặt lên thì mình vẫn tiếp xúc được với trăng sao trên trời. Nó có một thế giới của trần lụy, của nhỏ mọn, của ganh đua nhưng mà nó có một giới của tâm linh lung linh đầy mầu sắc nếu mình không có bỏ cuộc, mình không có thua cuộc là mình nhờ tiếp xúc được thế giới đó. Có một câu ngạn ngữ nói rằng: mình đừng có tự khinh mình. Mình phải biết rằng mình rất quí giá là tại vì mình làm bằng trăng sao. Ở trong ta có trăng sao, có tinh hà. 

Trong tôi có ngọn hùng phong
Vẫn vươn cao, trời mây khói
Trong tôi có một tinh hà chuyển động âm thầm
Những triệu tinh cầu sáng chói

Trong con người của mình có hai phần, một phần đất bụi nhưng mình đừng quá tự hào, nhưng mình đừng có mặc cảm bởi vì trong mình có đầy đủ chất liệu của trăng sao.

Quê hương tôi là đây
Chỉ có dòng sông, chỉ có hàng cau, bụi tre, vườn chuối.
Mặt trái đất dù mang đầy cát bụi
Nhưng trăng sao vẫn đẹp những đêm Rằm

Mỗi khi mình tiếp xúc với những cái trần tục, với những cái hèn mọn, những thấp thỏi thì mình đừng quên rằng trăng sao vẫn còn đó, chỉ cần ngẩng lên thì mình không có mất niềm tin đó và cái năng lượng của mình. Chuyện này rất quan trọng cho người tu. Cho nên có một bài thơ Thầy nhắc lại cho Thầy cái câu đó giống như là ngẫu nhiên mà không phải ngẫu nhiên. Đó là bài Tươi Son Bền Sắt, hãy giữ cho mình được tươi như là một thỏi son, hãy giữ cho mình bền vững như một thỏi son. Tươi Son Bền Sắt, đọc bài này thì mình thấy được.

          Trăng sao vẫn đẹp trăng Rằm
          Bãi dương vẫn mướt, sóng tùng vẫn xao

Khi mình tiếp xúc với khổ đau, những tuyệt vọng, mình có thể mất thăng bằng, vì vậy mình phải làm sao thiết lập lại sự thăng bằng để cho mình có thể vượt qua cơn bão tố của giai đoạn đó.

Trăng sao vẫn đẹp trăng Rằm
Bãi dương vẫn mướt, sóng tùng vẫn xao

Có những bãi tùng rất là lớn, khi gió thổi tùng như là sóng.

Lòng quê dù có khát khao
Hoa mai vẫn cứ đồi cao gọi mời
Tháng tư lá lục hoa cười
Cho trăng thêm tuổi, cho đồi thêm xuân
Vườn xanh cây mướp trổ bông
Trẻ thơ đùa giỡn trước sân nắng đào
Chợ Văn bán sách lầu cao
Muối dưa đắp đổi hôm nào cũng vui

Đây là năm 1975, đây là thời gian tất cả cơ sở của giáo hội, tất cả những hoạt động văn hóa xã hội bị ngưng hết và khổ đau của đất nước, khổ đau của bạn bè, khổ đau của những người đồng hành trên con đường tu học của mình nó rất lớn. Vì vậy cho nên muốn sống sót phải nhìn lên, nhìn lên để tiếp xúc với trăng sao. Những câu này không phải để ca tụng trăng sao đẹp, ca tụng bãi dương, ca tụng sóng tùng, ca tụng hoa mai, ca tụng tháng tư, trường ca Avril mà để nhắc cho mình rằng ngoài bình diện của khổ đau, của tuyệt vọng nó có bình diện của sự nhiệm mầu của trăng sao. Bài này viết ở Phương Vân Am.

Trăng sao vẫn đẹp trăng Rằm
Bãi dương vẫn mướt, sóng tùng vẫn xao
Lòng quê dù có khát khao
Hoa mai vẫn cứ đồi cao gọi mời
Tháng tư lá lục hoa cười
Cho trăng thêm tuổi, cho đồi thêm xuân
Vườn xanh cây mướp trổ bông
Trẻ thơ đùa giỡn trước sân nắng đào
Chợ Văn bán sách lầu cao

Những hình ảnh đó không làm cho mình tuyệt vọng, những hình ảnh đó nó nuôi dưỡng mình.

Chợ Văn bán sách lầu cao
Muối dưa đắp đổi hôm nào cũng vui

Hồi đó thầy trò xuất bản sách và bán sách.

Xót quê lòng cũng ngậm ngùi
Tin quê dồn dập tới lui chẳng ngừng
Chùa xưa vắng tiếng chuông ngân
Trẻ kia cha mẹ gởi thân tù đày
Văn nhân nghệ sĩ bó tay
Con thơ nheo nhóc chẳng ai ngó ngàng
Sóng xô nghiêng vịnh Thái Lan
Bao nhiêu tuổi ngọc chìm làn nước sâu

Cái bi kịch của thuyền nhân, cái bi kịch của các chùa bị đóng cửa và các thầy bị đi học tập cải tạo thì mình chỉ có tám câu thôi mà vì tám câu đó nên mới có mười hai câu trước và nếu không có mười hai câu trước thì tám câu kia nó sẽ làm cho mình ngã quỵ.

Chùa xưa vắng tiếng chuông ngân
Trẻ kia cha mẹ gởi thân tù đày
Văn nhân nghệ sĩ bó tay
Con thơ nheo nhóc chẳng ai ngó ngàng
Sóng xô nghiêng vịnh Thái Lan
Bao nhiêu tuổi ngọc chìm làn nước sâu

Trong tình trạng đó mình chưa tìm ra cách nào để có thể nâng đỡ cho những người đang kẹt vào trong tình huống khổ đau đó, tại bao nhiêu công tác của mình ở nhà bị ngưng lại hết. Không những người tu sĩ mà là người cư sĩ cũng vậy, không những nhà chính trị, những nhà văn hóa mà những nhà nghệ sĩ đều bị đi vô tù hết.

Tấm thương, lòng vẫn nguyện cầu
Nỗi đau dường ấy, làm sao đỡ đần ?

Cái đau khổ đó quá nhiều mà trong khi đó thì mình không được phép làm gì hết, để yểm trợ, để giúp đỡ. Nó có cái gì giống như là niềm tuyệt vọng và đó là giai đoạn khó khăn mà mình phải đi ngang qua. Mình phải cầu cứu tới trăng sao, cầu cứu tới hoa mai, cầu cứu tới trẻ thơ.

Trước sau xin chớ ngại ngần
Những bàn tay ấy tình thâm vẫn tròn
Giữ cho bền sắt tươi son
Giữ cho tâm lặng giữa cơn ba đào

Rất là tuyệt vời, giữ cho bền sắt tươi son, cho bền, cho tươi, hai cái đó là sắt là son. Son thì nó luôn luôn là đỏ thắm và sắt luôn luôn bền vững, đó là bản chất của người tu, đó là bản chất của nhà cách mạng. Siddhatta có những đêm ngồi trong rừng, sức khỏe hao mòn gần như tuyệt vọng, ban đêm ngồi thiền dưới gốc cây, nghe một cành cây khô nó gãy, tưởng tượng là có con trăn nó đang bò tới làm gãy. Có tiếng lá khô xào xạt, một con cọp đang từ từ đi tới. Siddhatta xa hoàng cung đã bốn năm, năm năm chưa làm nên một công trạng gì hết, giờ này vẫn ngồi một mình trong rừng, rồi những người bạn tu của mình đã bỏ mình đi hết, những lúc đó thật là khó khăn nhưng mà nếu không có son, không có sắt thì không thể nào tiếp tục được.

Giữ cho bền sắt tươi son
Giữ cho tâm lặng giữa cơn ba đào

Còn đây nắng gọi đồi cao
Còn đây những gốc anh đào trước sân
Còn đây trăng đẹp đêm Rằm
Còn đây dương mướt sóng tùng năm xưa

Bài thơ này là một chứng tích của một cuộc tranh đấu nội tâm để mình có thể đứng vững trên con đường của mình.

Bây giờ mời đại chúng nghe bài Thơ Từng Ôm và Mặt Trời Từng Hạt. Quí vị có bản tiếng Anh có thể theo dõi được. Bài thơ này nếu mình không có quen thì mình sẽ thấy nó hơi lạ, cố nhiên không quen thì là lạ rồi, tại không biết tác giả muốn nói gì trong này.

Nắng trên không gian và thơ trên nắng
Thơ làm ra nắng nắng ra thơ

Đây có phải là những suy luận triết học? Hay thi sĩ muốn diễn bày một giáo lý nào đó?

Nắng trên không gian và thơ trên nắng

Thơ là một cái gì rất là hiện thực. Thơ là nỗi khổ, niềm đau; thơ là hy vọng, là niềm vui; thơ là sự giải thoát. Có thơ vào tất cả đều thay đổi hết.

Nắng trên không gian và thơ trên nắng

Nếu không có thơ trên nắng thì nắng không còn là nắng nữa và mình sẽ không thấy mình, nhờ thơ mình còn thấy được nắng, cho nên có nắng là có thơ và có thơ là có nắng, nắng và thơ tương tức.

Thơ làm ra nắng nắng ra thơ

Mặt trời cất chứa trong lòng trái khổ qua
Thơ bốc thành hơi trên bát canh mùa Đông,
                             trong khi bên ngoài gió hú

Thơ theo gió đi về cồn xưa bãi cũ
Mái tranh nghèo còn đứng đợi ven sông

Có đủ hết trong này. Mùa hè mình trồng rau và có thể khổ qua ra nhiều ăn không hết, mình đem để dành trong tủ đá. Vào mùa Đông, khoảng tháng giêng mình đem ra để nấu canh. Mình thấy rõ ràng rằng trời lạnh như vậy, mặt trời đi luôn cả tháng không chịu xuất hiện nhưng mình vẫn thấy được mặt trời ở trong trái khổ qua, trái khổ qua đã giữ mặt trời lại cho mình, mình chứa mặt trời ở trong tủ đá và bây giờ mình lấy khổ qua ra thì khổ qua nói: Ở trong tôi có mặt trời. Mặt trời đâu phải chỉ ở ngoài, nó có ở trong nữa.

Mặt trời cất chứa trong lòng trái khổ qua

Nếu không có mặt trời thì làm sao có trái khổ qua?

 Thơ bốc thành hơi trên bát canh mùa Đông,
                             trong khi bên ngoài gió hú

Có khổ qua tức là có thơ rồi, có khổ qua là có bát canh mùa Đông và bát canh đó bốc hơi lên. Thơ là đó chứ thơ ở đâu nữa?

Thơ bốc thành hơi trên bát canh mùa Đông,
                             trong khi bên ngoài gió hú

Mùa Đông ở đây có nhiều khi như vậy, mùa Đông năm nay rất lạnh. Có những mùa Đông nó mưa, mưa, mưa… không thấy mặt trời đâu hết, chỉ thấy màu xám và gió.

Thơ theo gió thì mình nghe gió, đi theo gió, gió đi đâu, mình đi đó. Thơ theo gió, đi đâu? Đi về cồn xưa bãi cũ và mình thấy. 

Mái tranh nghèo còn đứng đợi ven sông

Lời thề của mình năm xưa nó còn, nhìn lên trời không hổ câu vàng đá. Mình đã phát lời nguyền lớn, mình ra đi cũng như Siddhatta, mình nhìn lên trời, mình không thấy hổ thẹn, tại vì đời sống của mình không có giây phút nào trong đời sống hàng ngày mà mình phản lại lời thề năm xưa. Mình vẫn còn là mình? Anh vẫn còn là anh chứ? Chị vẫn còn là chị chứ? Em vẫn còn là em chứ? Mình đã phản bội mình chưa? Mình đã phản bội lại cái câu gọi là đá vàng năm cũ?

Thấy trăng chẳng thẹn lời nguyền non sông

Tại vì ngày xưa, trăng sao đều chứng giám cho lời nguyền của mình. Làm sao để nhìn trăng mà không có mắc cở? Trong Kiều có câu: 

Thấy trăng mà thẹn những  lời non sông

Lời thề non sông là gì? Là lời nguyền khi mình đi xuất gia, mình đã hủ hóa chưa? Mình đã phản bội lý tưởng xuất gia của mình chưa? Mình đã để Bồ đề tâm của mình chết rũ chưa?

Thơ theo gió đi về cồn xưa bãi cũ.

Vẫn canh cánh bên lòng. Tình trạng xã hội, tình trạng đất nước, tình trạng quê hương, nó vẫn còn là đối tượng, chí hướng của người xuất gia, cho nên trong vùng tâm thức đó, mái tranh nghèo năm xưa bên bờ sông nó hiện ra, nó nói : Tôi đang còn chờ đợi. Mình chưa có phản bội lời thề năm cũ. Trong khi mình ăn bát canh ở cái vùng rất là xa lạ, thơ của mình nó sống dậy và thơ mình đi theo gió và gió đưa mình về ven sông và mình thấy được mái tranh nghèo còn đứng đợi ở đó. Mình chưa phản bội, mình chưa bao giờ phản bội.

Mặt trời cất chứa trong lòng trái khổ qua
Thơ bốc thành hơi trên bát canh mùa Đông,
                           trong khi bên ngoài gió hú
Thơ theo gió đi về cồn xưa bãi cũ
Mái tranh nghèo còn đứng đợi ven sông

Nó còn nguyên vẹn hết trái tim ban đầu.

Thơ nơi từng giọt mưa Xuân
Thơ trong từng đốm lửa hồng

Mưa Xuân có đó, lửa hồng có đó và thơ bao giờ cũng còn đó. Thơ là chất liệu của lý tưởng, Thơ là sự sống của từng giây, từng phút.

Nắng cất chứa trong lòng gỗ thơm.

Khi mình lấy ra một thanh gỗ để mình bỏ vào trong lò suởi, mình phải thấy rõ ràng đó là nắng, tại vì mình cần năng lượng của mặt trời để sưởi ấm, bây giờ mặt trời bị mây che lấp thì thanh củi này nó đại diện cho mặt trời vì thanh gỗ chứa mặt trời trong đó.

Nắng cất chứa trong lòng gỗ thơm.
Khói ấm đưa thơ về trên trang ngoại sử

Nhờ sức ấm của mặt trời từ gỗ thơm đưa ra mà mình ngồi đó và mình viết được những trang của tác phẩm Am Mây Ngủ. Am Mây Ngủ là một ngoại sử, một truyện thuộc lịch sử nhưng mà không phải là chính sử. Vì vậy cho nên mặt trời, trái khổ qua, bát canh mùa Đông và bốc hơi lên là những nguyên tố làm ra tác phẩm Am Mây Ngủ, tác phẩm viết về Trúc Lâm Đại Sĩ và công chúa Huyền Trân.

Nắng cất chứa trong lòng gỗ thơm
Khói ấm đưa thơ về trên trang ngoại sử
Nắng vắng trong hư không,
nhưng nắng chất đầy một lò sưởi đỏ.

Ai nói là không có nắng? Nắng trong trái khổ qua, nắng trong lò sưởi.

Nắng lên thành mầu Khói, thơ đọng lại thành mầu Sương.

Nó không có sự xa cách nào hết, nắng luôn luôn có đó cho mình và vì vậy thơ luôn luôn có mặt.

Nắng cất chứa trong lòng gỗ thơm
Khói ấm đưa thơ về trên trang ngoại sử
Nắng vắng trong hư không,
nhưng nắng chất đầy một lò sưởi đỏ.
Nắng lên thành mầu Khói,
thơ đọng thành mầu Sương

Nắng cất giữ trong từng hạt mưa Xuân
Giọt nước cúi xuống hôn Đất, cho hạt cây nẩy Mầm
Thơ đi theo mưa, về trên từng đọt Lá
Nắng thành mầu Xanh, thơ mầu Hồng

Thơ có mầu và nắng không phải chỉ là mầu vàng hay là mầu đỏ. Nắng có thể là mầu xanh. Mình là người tu thì mình có khả năng thấy được nắng trong màu xanh. Tại vì nếu không có nắng thì làm sao có màu xanh của cây cỏ? Cho nên thấy màu xanh của cây cỏ là phải thấy nắng, không thấy như vậy thì không thấy được duyên sinh mà không thấy được duyên sinh thì không thấy được Bụt, dầu cho mình vô chánh điện một ngày mười lần cũng vậy. Vì vậy mình phải thấy nắng là mầu xanh và mình phải thấy nắng trong những màu khác, mình phải thấy thơ màu hồng và thơ thêm nhiều màu sắc nữa.

Nắng chở trên cánh Ong.

Con ong nó bay, nó chở những tia nắng trên đó.

Nắng chở trên cánh Ong tới trút Ấm lên đài hoa

Những cánh ong nó chở nắng và khi nó chở tới bông hoa thì nó trút nắng lên trên đài hoa.

Nắng chở trên cánh Ong tới trút Ấm lên đài hoa
Thơ theo nắng về rừng xa uống Mật

Có những tổ ong trong rừng và thơ theo nắng về rừng xa uống mật. Tại vì hoa với ong nó gần nhau lắm. Hoa, ong với mật là một cho nên thơ mà đi theo nắng thì thơ thể nào cũng theo ong, mà thơ đi theo ong thì thơ thế nào cũng về rừng và thơ thành mật.

Nắng chở trên cánh Ong tới trút Ấm lên đài hoa
Thơ theo nắng về rừng xa uống Mật
Tưng bừng, xôn xao, bướm ong về chật đất
Nắng làm nên khúc Múa, thơ làm nên lời Ca

Chiều nay có các sư cô múa và cái đó do thơ làm ra hết. Nắng làm nên khúc Múa. Các sư cô nghĩ cái gì làm nên khúc múa nữa? Nếu không phải là nắng, nếu không có nắng thì làm sao quí vị múa được? Nếu trong quí vị không có nắng và không có thơ và không có khổ qua thì làm sao múa được?

Nắng làm nên khúc Múa, thơ làm nên lời Ca
Mồ hôi giọt xuống đất khô, thơ bay trên luống cày

Thơ bây giờ trở thành mồ hôi của người nông dân, nhỏ từng giọt xuống đất khô.

Mồ hôi giọt xuống đất khô, thơ bay trên luống cày
Cán cuốc trên vai, thơ vào ra theo nhịp thở
Nắng rụng bên Sông, bóng Chiều ngập ngừng bỡ ngỡ
Thơ đi về chân trời, nơi vầng Sáng đang đắp chăn mây

Chăn mây là cái mền làm bằng mây, đắp cho một người sắp đi ngủ và người đó là mặt trời. Mặt trời sắp đi ngủ và mây làm cái mền đắp cho mặt trời.

Thơ đi về chân trời, nơi vầng sáng đang đắp chăn mây
Mặt trời xanh rờn một rổ rau tươi

Các vị có thấy rằng nắng mầu xanh, nhìn vào rổ rau tươi đó mình thấy mặt trời. Mình chưa nhìn thấy mặt trời trong rổ rau xanh là mình chưa thấy rau mà cũng chưa thấy mặt trời. Người tu là người quán chiếu về tự tánh duyên khởi, người tu nhìn vào rổ rau xanh là thấy được mặt trời và thấy được mặt trời thì mới thật sự thấy được rổ rau xanh, còn không thì thấy cái gì đâu không?

Mặt trời xanh rờn một rổ rau tươi
Mặt trời dẻo thơm trong bát cơm gạo Tám

Việt Nam có gạo Tám thơm, ngon lắm, mình nhai hạt cơm gạo Tám thơm là thấy như mình nhai mặt trời, còn nếu không là mình đang ăn trong thất niệm, ăn trong thất niệm tội lắm đó! Thế nào quí vị cũng được ăn cơm gạo Tám rồi mà quí vị không biết rằng mình đã ăn cơm gạo Tám.

Thơ trong ánh mắt em thơ,
thơ trong mầu da nắng sạm
Thơ nơi từng cái Nhìn chăm chú
Thơ nơi từng bàn tay vun xới miền đồng chua nước mặn xa xăm

Mình có mắt và mình là người tu thì mình phải nhìn chăm chú, có nghĩa là mình nhìn như thế nào để mình có thể thấy được, tức là phải nhìn với chánh niệm  và sống cuộc sống hàng ngày phải có niệm, phải có định. Con mắt của người tu phải nhìn cho chăm chú tại vì phải nhìn cho chăm chú mới thấy được điều đó, nhìn một cái mà thấy hết tất cả những cái khác, nhìn rổ rau thấy mặt trời, thấy tuyết.

Mặt rời xanh rờn trong rổ rau tươi
Mặt trời dẻo thơm trong bát cơm gạo Tám.
(Có ai nói mặt trời dẻo thơm không?)
Thơ trong ánh mắt em thơ, thơ trong mầu da nắng sạm
Thơ nơi từng cái Nhìn chăm chú

Thơ nơi từng bàn tay vun xới miền đồng chua nước mặn xa xăm

Quê hương tôi nước mặn đồng chua, nhà tôi nghèo đất cày trên sỏi đá.

Mặt trời cười tươi trên bông hướng dương
Mặt trời trĩu nặng nơi trái đào Tiên tháng tám

Mình đã đi tới tháng tám rồi.

Thơ nơi từng bước chân thiền quán

Nếu mà sư chú bước những bước chân có chánh niệm là sư chú đang làm thơ, nếu mà sư cô đang nhìn với ánh mắt của chánh niệm là sư cô đang làm thơ. Và sáu năm mà Siddhatta ở trong rừng để tu tập khổ hạnh là sáu năm làm thơ và nguồn thơ đó nó đã tỏa chiếu, nó đã trôi về cho nhân loại trong suốt 2500 năm.

Mặt trời cười tươi trên bông hướng dương
Mặt trời trĩu nặng nơi trái đào Tiên tháng tám
Thơ nơi từng bước chân thiền quán
Thơ nơi từng dòng chữ

Dòng chữ của cái gì ? Dòng chữ của những trang sách ngoại sử.

Thơ nơi từng nắp hộp kín đáo nuôi tình Thương.

Hồi đó không làm được gì nhiều về phương diện cứu trợ xã hội. Hồi đó thầy trò mỗi ngày gói những gói quà và mỗi người chỉ được một gói thôi. Mình biết rằng mua được những hộp thuốc nào gửi về thì người nhận có thể đem giữ lại một hộp để uống còn những hộp thuốc khác đều đem bán để lấy tiền để mua gạo và mua thức ăn.

Có biết bao nhiêu người cần cứu trợ và ở nhà chưa có thuốc tây gì cả, hồi đó đất nước bị phong tỏa nên thuốc men rất là thiếu, toàn dùng là thuốc dân tộc không hà, chưa có "thuốc phi dân tộc" mà thiên hạ rất cần dùng những "thuốc phi dân tộc" như là vitamine B, B1, B6, B12. Cho nên thầy trò gởi những thùng thuốc về để cứu trợ cho gia đình những người đi học tập cải tạo, cho những trẻ em đói, cho các gia đình văn nghệ sĩ. Khi gói quà gởi về mà người ở nhà nhận được thì các gia đình có thể sống được trong ba tháng hay là bốn tháng và cũng có thể có phương tiện thăm nuôi những người đang ở trong tù hay trong các trại học tập cải tạo.

Có rất nhiều người không có thân nhân ở hải ngoại, hồi đó chưa có thuyền nhân, chưa có đồng bào ở Cali, ở Pháp, những người có thể gởi tiền về và tự nhiên ở bên này mình "sản xuất" không biết bao nhiêu là người thân ở bên nhà. Những gói quà gởi về họ chỉ cho tối đa là 1 ký lô, hồi đó luật như vậy, cho nên mình chọn những thuốc nào mà có thể bán được tiền nhiều nhất đó và trong những nắp hộp mình dặn: thuốc này rất là quý, thuốc này phải bán với giá này mới không bị lỗ, còn cái hộp này có thể giữ lại để nuôi bệnh cho bố, cho mẹ và phải uống như thế này, thế này… Trên những nắp hộp mình có lời căn dặn làm thế nào để sử dụng được số thuốc này một cách khéo léo mà trị bịnh, mà chạy chữa, mà mua cơm, mua gạo, mà sống sót qua ít nhất là ba tháng cầm cự trước khi nhận được một gói thuốc mới. Nhà giây thép mỗi ngày nhận hàng trăm gói quà như vậy. Thầy trò mỗi người đều thực tập chuyện gói quà và viết những hàng hướng dẫn trên nắp hộp và phải viết cho khéo và không được có tính cách chính trị.

Thầy đã làm công việc đó và mỗi ngày Thầy đều có viết trên nắp hộp, mỗi ngày Thầy đều viết lời chỉ dẫn trong nắp hộp, mỗi ngày Thầy đều gói những gói quà, mỗi ngày Thầy đều lấy dây để gói, để cột lại những gói quà cho chắc. Nhà dây thép (Bưu điện) rất làm lạ, thấy mình cứ mỗi ngày gởi hàng trăm gói quà như vậy, gởi về Hà Nội, Huế, cho tới Sài gòn. Người họ Đào thì có thân nhân họ Đào ở bên này gởi qua, người họ Lê thì có thân nhân người họ Lê gởi qua, toàn những cái thân, cái tên hóa ra hết, đây là người thân của tôi ở bên ngoại quốc gởi về. Vì vậy mình cần rất nhiều hóa danh và hóa thân, ví dụ ở bên kia là Đào Duy Từ thì bên này cháu là Đào thị Mây, bên kia là Lê Thương thì bên này là Lê thị Phương Hương.

Như một phép lạ, có những văn nghệ sĩ đã buông bút, không sáng tác nữa vậy mà khi nhận được những gói quà và những lời thăm hỏi họ cảm hứng, họ sáng tác trở lại. Thầy trò làm việc dưới sự chỉ huy của sư cô Chân Không, cô biết rất giỏi, thuốc này là thuốc nào, đáng giá bao nhiêu tiền, làm sao để không bị đánh lừa, làm sao để được giá nhất và những điều đó được ghi lại, có những dấu tích ở trong thơ.

Thơ từng bước chân nơi thiền quán
Thơ nơi từng dòng chữ
Thơ nơi từng nắp hộp kín đáo nuôi tình Thương

Phải làm một cách rất là kín đáo, không để ai biết là mình làm việc xã hội, làm việc cứu trợ hết. Làm kín đáo thì bên kia mới có an ninh và hoàn toàn không có danh, có lợi gì hết. Mỗi tuần thầy trò nhịn đói một buổi chiều để nhớ là bên nhà người ta đói và ngày nào cũng làm việc. Thầy nhớ là thầy trò đã sống một cách rất là xứng đáng trong thời gian đó và vượt thắng những thất vọng, những u buồn, những gánh nặng bằng phương pháp tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống và nuôi lớn tình thương ở trong trái tim của mình, chớ không để cho nó chết.

Có những lúc đã không biết có thể làm được gì và khi mình tìm được một vài việc để có thể làm thì trong người mình nó nhẹ lắm. Để cho chí hướng phục vụ của mình, chí hướng phụng sự, chí hướng yêu thương của mình nó được biểu lộ thì mình có thể sống được, còn sống bất động không biết là có con đường nào để đi hết thì rất là khó để mà sống.

Nếu không có thơ, nếu không có nắng, nếu không có bát canh khổ qua, nếu không có hoàng hôn, nếu không có những bước chân thiền quán, nếu không có những dòng ngoại sử, nếu không có những nắp hộp để mình dàn trải tình thương của mình vào đó thì làm sao mình sống được? Và đó là nuôi tình thương. Tình thương ở đâu mà nuôi? Tình thương bên nhà hay là bên này? Tình thương nằm trong con người của mình và mình phải nuôi tình thương thì mình mới sống được. Chừng nào tình thương mình chết là chừng đó mình cũng chết luôn. Bởi vậy cho nên người tu là người phải biết nuôi tình thương và có khi nuôi cho kín đáo, đừng có rầm rộ.

Thơ nơi từng bước chân thiền quán,

Mình phải nuôi mình bằng thơ nếu không mình cũng chết.

Thơ nơi từng dòng chữ
Thơ nơi từng nắp hộp kín đáo nuôi Tình thương

Bài thơ này có tựa đề là Thơ Từng Ôm và Mặt Trời Từng Hạt. Mặt trời thường thường người ta nhìn nó như những luồng ánh sáng nhưng ở đây mình thấy từng hạt. Tại vì không có mặt trời thì làm sao mà nước bốc thành hơi, hơi trở thành mây và đến khi mà mưa xuống dưới dạng những hạt và mình phải thấy trong những hạt mưa sự có mặt của mặt trời. Vì vậy mặt trời có thể thấy được từng hạt và thơ có thể thấy từng ôm, một ôm hoa hay một ôm lá mà đây là ôm mặt trời. Mặt trời mình ôm từng ôm mình đưa vào trong nhà, mình chất lại, nó là những ôm củi, tại vì những ôm củi đó có chất chứa mặt trời. Trên xóm Thượng, thiền đường buổi sáng, thiền đường buổi tối mà ngồi thiền được là nhờ "thơ từng ôm". Buổi sáng các sư chú đốt lò là mình đem mặt trời vào trong thiền đường, mặt trời mình thấy ở trong củi và mỗi sáng mình đều thấy chất trong thiền đường những "ôm mặt trời".

Bài thơ này sử dụng một hình ảnh mầu nhiệm của tương tức và tương tục để nói lên nếp sống lý tưởng của mình và tuy là không có mục đích để nói nhưng tại vì thơ phản ảnh lại sự sống hàng ngày của mình và bài thơ nào cũng có chất liệu của sự nuôi dưỡng. Nếu anh không được nuôi dưỡng thì anh chết, nếu anh không nuôi tình thương thì anh sẽ chết. Anh chết với tư cách của một người làm cách mạng, anh sẽ chết với tư cách của một người tu. Vì vậy anh phải liệu cái thân anh mà anh lo cho thân anh tức là anh lo cho lý tưởng của anh, anh lo cho tăng thân của anh. Đừng có bao giờ để cho mình bị khô cạn, bị đốt cháy, đừng để cho hiện tượng burn out nó tiêu diệt mình, đừng để cho hiện tượng tuyệt vọng xâm chiếm mình. Cuộc đời của người đi tu nó cũng không khác gì cuộc đời của một nhà cách mạng, biết bao nhà cách mạng đã ngã gục trên con đường lý tưởng, biết bao người tu cũng ngã gục trên con đường lý tưởng của mình. Vì vậy cho nên cả người cách mạng, cả người đi tu phải biết giữ thân, phải biết biết giữ mình và đó là kinh nghiệm của Thầy.

Mình phải thấy được trăng sao, mình đừng đòi về với cát bụi, mình phải biết nuôi dưỡng thân tâm của mình, mình mới có thể đi xa được. Trăn trở, khắc khoải, bồn chồn, không có vui. Anh không khắc khoải anh cũng chết, anh bồn chồn lắm anh cũng chết, thành ra giá trị của mình không phải khắc khoải, bồn chồn, thao thức. Giá trị của mình ở chỗ là biết giữ cái thân của mình, giữ thân cho mẹ, giữ thân cho cha, giữ thân cho lý tưởng, đừng để cho thân tâm mình nó cạn dần năng lực và phải biết nuôi dưỡng Tình Thương.

 

Nhất Hạnh
12.02.2002 Làng Mai – Pháp

 -----------------------------------------------

Hành Phương Nam

Hai ta lưu lạc phương Nam này
Đã mấy mùa qua én nhạn bay
Xuân đến khắp trời hoa rượu nở
Riêng ta với ngươi buồn vậy thay !
Lòng đắng xá chi muôn hớp rượu
Mà không uống cạn mà không say !
Lời thề buổi ấy cầu Tư Mã
Mà áo khinh cừu chưa ai may !
Ngươi giam chi khí vòng cơm áo
Ta trói thân vào lụy nước mây
Ai biết thương nhau từ buổi trước
Bây giờ gặp nhau trong phút giây
Nợ thế, trả chưa tròn một món
Sòng đời, thua đến trắng hai tay
Quê nhà xa lắc xa lơ đó
Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay

Tâm giao mấy kẻ thì phương Bắc
Ly tán vì cơn gió bụi này
Người ơi ! Buồn lắm mà không khóc
Mà vẫn cười qua chén rượu đầy
Vẫn dám ăn tiêu cho đến hết
Ngày mai ra sao rồi sẽ hay
Ngày mai, có nghĩa gì đâu nhỉ?
Cốt nhất cười vui trọn tối nay
Rẫy ruồng châu ngọc, thù son phấn
Mắt đỏ lên rồi, cứ chết ngay .

Hỡi ơi ! Nhiếp Chính mà băm mặt
Giữa chợ ai người khóc nhận thây?
Kinh Kha quán lạnh sầu nghiêng chén
Ai kẻ dâng vàng, ai biếu tay?
Mơ gì ấp Tiết thiêu văn tự
Giày cỏ, gươm cùn, ta đi đây

Ta đi nhưng biết về đâu chứ?
Đã dấy phong yên khắp bốn trời
Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
Uống say mà gọi thế nhân ơi !

Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ
Ta với nhà ngươi cả tiếng cười
Dằn chén hất cao đầu cỏ dại
Hát rằng phương
Nam ta với ngươi
Ngươi ơi ! Ngươi ơi ! Hề ngươi ơi !
Ngươi sang bên ấy sao mà lạnh
Nhịp trúc ta về lạnh mấy mươi !

                        Nguyễn Bính - Đa Kao 1943



Tống Biệt Hành

Đưa người ta không đưa qua sông
Sao nghe tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thẫm không vàng vọt
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?

Đưa người ta chỉ đưa người ấy
Môt giã gia đình, môt dửng dưng.
Ly khách ! Ly khách ! Con đường nhỏ
Chí lớn không về, bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.

Ta biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt
Môt chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai giòng lệ sót

Ta biết người buồn sáng hôm nay
Trời chưa vào thu tươi lắm thay
Em nhỏ thơ ngây đôi mắt ướt
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay.

Người đi? Ừ nhỉ, người đi thật
Mẹ! thà coi như chiếc lá bay
Chị! thà coi như là hạt bụi
Em! ừ xem như hơi rượu cay

                                            Thâm Tâm

 

Không có con đường nào đưa ta đến Hạnh phúc, Hạnh Phúc là con đường - There is no way to happiness - happiness is the way (Thích Nhất Hạnh)

NHẤT HẠNH

Là nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nghệ sĩ, nhà văn hóa, học giả, triết gia,... và là nhà sư, còn được gọi là Thiền sư Thích Nhất Hạnh, hay đơn giản chỉ một chữ THẦY.

BBC NÓI VỀ ÔNG NHƯ SAU :
Thích Nhất Hạnh là một thiền sư nổi danh trên thế giới, là một  văn nhân, một thi nhân, một học giả, mà cũng là một người đấu tranh cho hòa bình. Bên cạnh đức Đạt Lai Lạt Ma thì Thầy là bậc đạo sư nổi tiếng nhất trên thế giới hiện nay. Ngoài ra Thầy còn là tác giả của trên một trăm cuốn sách, trong đó gồm có những "xếp hạng bán chạy nhất“ (bestsellers)  như những cuốn Hòa Bình Từng Bước Chân (Peace is Every Step), Phép lạ của sự  Tỉnh thức (The Miracle of Mindulness), Chúa  ngàn  đời, Bụt ngàn đời (Living Buddha Living Christ) và Giận (Anger)

Thầy Nhất Hạnh  sanh năm 1926, Thầy xuất gia năm 16 tuổi. Chỉ 8 năm sau Thầy dựng lên Trung tâm  Phật giáo  Ấn quang (An Quang Buddhist Institute) tại Sài Gòn. Năm 1961 Thích Nhất Hạnh -người được những  môn đồ  gọi là Thầy- đã xuất ngoại du học tại Hoa Kỳ và giảng dạy môn Tôn giáo đối chiếu tại các đại học Columbia và Princeton. Hai năm sau Thầy quay trở về quê hương để góp phần hướng dẫn  nỗ lực hòa bình của Phật giáo.

Rằm tháng hai năm 1964 Thầy thành lập Dòng tu Tiếp hiện (the Order of Interbeing), vào đúng giai đoạn chiến tranh leo thang khốc liệt tại Việt Nam, lúc mà  giáo lý của Đức Thế Tôn cần thiết vô cùng để đối đầu lại với hận thù, bạo động và chia rẽ đang bao phủ khắp quê nhà. Vào giai đoạn này. Dòng tu bao gồm một số nhỏ những thành viên chí nguyện dấn thân vào những công tác xã hội và hành trì theo lý tưởng của Đạo Phật Đi Vào Cuộc Đời. Dòng tu được xây dựng trên căn bản của 14 giới Tiếp Hiện, cũng còn được gọi là những phương pháp thực tập chánh nhiệm. Cũng trong năm ấy với một nhóm những giảng sư và sinh viên đại học tại Việt nam ngài thành lập nên Trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội đào tạo những nhóm tác viên trẻ tuổi dấn thân vào những làng mạc xa xôi giúp xây cất  những trường học, những bệnh xá và gầy dựng lại những thôn xóm đã bị hủy diêt vì đạn bom. [ Tháng 2 năm 1964 Thầy thành lập Viện Cao Đẳng Phật Học tại Sài Gòn, và chỉ non 14 tháng sau nó được Thầy nâng lên thành Viện đại học Vạn Hạnh (bổ túc của Phù Sa) ].

Hai năm sau, vào năm 1966, Thầy rời Việt nam ra xứ ngoài để vận động kêu gọi hòa bình. Nhà cầm quyền  đương thời vì thế cấm cửa không cho phép Thầy  hồi hương. Năm 1967 khi đề nghị Hội đồng Nobel trao giải Nobel Hòa bình cho Thầy, ông Martin Luther King đã phát biểu:  "Ông thầy tu mãnh khảnh xuất thân từ Việt nam này, ngài là một học giả uyên thâm. Những phát kiến cho hòa bình của ngài, nếu áp dụng được, sẽ dựng nên một tượng đài cho tinh thần  hòa đồng, tình huynh đệ  và nhân bản".

Năm 1969 Thầy hướng dẫn Phái đoàn Hòa bình Phật giáo tham dự Hội nghị Hòa bình Paris và thành lập Unified Buddhist Church (UBC) tại Pháp quốc. Lúc khởi đầu Giáo hội đặt cơ sở tại Thiền Đường Sweet Potatoes năm 1975. Pháp Từ của Thầy được truyền bá mỗi lúc một rộng rãi và tăng đoàn phát triển mạnh mẽ. Năm 1982 Làng Mai (Plum Village) được thành lập. Tọa lạc tại miền nam nước Pháp, Làng Mai là một Trung tâm Thiền tập và là cơ sở của Dòng tu Tiếp hiện. Mỗi năm hàng ngàn người khắp nơi trên thế giới từ những truyền thống tâm linh khác nhau khắp nơi đổ về Làng Mai để nghe pháp thoại và tu tập. Đây là trú xứ thường xuyên của Tăng đoàn (đoàn thể của những người tu tập) gồm khoảng 150 các thầy, các sư cô cùng các cư sĩ thường trú (Số thiền sinh gia tăng theo thời gian, tính đến nay thì đã vượt xa con số 150 / PS bổ túc).

Điểm nổi bật của pháp môn thầy Nhất Hạnh trao truyến là việc nhấn mạnh đến yếu tố hạnh phúc, hạnh nguyện  dấn thân vào đời và áp dụng được phương pháp thực tập chánh niệm vào đời sống hàng ngày. Chánh niệm là có mặt trong phút giây hiện tại để có thể có thể nhận diện được những gì đang xẩy ra trong thân, trong tâm ta và cả trong thế giới chung quanh ta. Pháp môn Thầy dạy chú trọng đến thực tập hơi thở và tỉnh thức đầy chánh niệm từng hơi thở một. Thầy vẫn thường nhắc nhở đệ tử, bất cứ một việc gì xẩy ra đều có thể là cơ hội ngàn vàng để ta có thể tiếp xúc được với thực tại nhiệm mầu, cả đến như chuyện rửa bát hay lái xe. Thầy dạy chúng ta cần nên chấm dứt cuộc nội chiến trong tâm mình, lắng dịu lại cái bung xung trong tâm mình và trở về với giây phút hiện tại. Khi ta được an lành, khi ta hạnh phúc thì ta có thể mỉm nụ cười và ai ai trong gia đình, trong toàn thể xã hội quanh ta đều được hưởng lợi lạc từ niềm an lành của ta. Nhờ thế ta có thể  thực chứng ý nghĩa câu "Không có con đường đẫn tới hạnh phúc – Hạnh phúc là Con đường".

thichnhathanh.shtml

 

LÊN TRÊN=  |     GỬI BÀI     |     LÊN TRÊN=

Phù Sa được thực hiện bởi nhóm PSN (Phù Sa Network).
Là tiếng nói của người Việt Tự Do trong và ngoài nước nhằm phát huy khả năng Hiểu Biết và Thương Yêu để bảo vệ và thăng hoa sự sống.
PSN không loan tin thất thiệt, không kích động hận thù, và bạo lực. Không chủ trương lật đổ một chế độ, hay bất kỳ một chính phủ nào.