Xuân
Diệu,
" Lệnh
truyền "
Vũ
Hoàng Chương,
" Thoát
hình "
-
PSN 24.08.2008
Đọc, nói thơ trong mỗi độ giao thừa là một trong những nghệ thuật
sống đẹp không thể thiếu của nhà thơ Nhất Hạnh, nghệ thuật đó đã
có từ khi thi sĩ còn rất trẻ. Sau khi xuất gia và trở thành thiền
sư nhà thơ đã biến nghệ thuật ấy thành truyền thống trong các
thiền viện của Mai thôn đạo tràng do ông hướng dẫn.
Phù Sa đã sưu tầm từ nhiều nguồn riêng biệt rải rác đó đây những
bài bình giảng ấy của thi sĩ dưới dạng âm thanh, rồi phiên tả,
biên tập lại thành văn viết. Tuy có tính cách riêng tư vì Thầy chỉ
nói riêng với học trò trong chốn thiền môn, nhưng nhận thấy: ngoài
giá trị về mặt văn học, nghệ thuật, tác giả còn mở ra cho ta một
khung trời mới, khung trời của trí tuệ và tình thương lớn, mà chỉ
có tuệ giác của một Thiền sư mới thể hiện được cho dù nguyên tác
là những bài tình thơ lãng mạng.
Phù Sa
sẽ lần lượt phổ biến lên trang này từng bài một trước khi in thành
sách với tựa đề
Thơ trong cửa thiền, hay Thầy Nhất Hạnh
đọc thơ lúc giao thừa.
Và đây là bài thơ
Lệnh
Truyền của Xuân Diệu và Thoát Hình
của
Vũ Hoàng Chương
mà Thầy đã đọc cho học trò 4 chúng tại tu viện Làng Mai Pháp quốc
vào đêm giao thừa
Bính Tuât-
Đinh Hợi
(2007).
ưới đây là một bài thơ Đường của
nhà thơ Bạch Cư Dị nói về cây ngô đồng ở
chùa Vân Cư. Tới chùa Vân Cư ta thấy có
một cây ngô đồng, rất già,
rất vững, cứng cõi, đứng thẳng và đọt lấp trong mây xanh.
Như vậy
mà cây còn muốn mọc cao hơn nữa. Trong chùa có một vị hòa thượng
90 tuổi, quắc thước, mạnh như cây ngô đồng. Hỏi ngài thì ngài
nói: chính ngài ngày xưa gieo hạt cây ngô đồng và
hạt cây ngô đồng đó, hồi xưa nhỏ xíu và xanh lè
mà bây giờ đã trở thành một cây ngô đồng lớn vững như vậy.
Nguyên văn chữ Hán là:
Nhất châu
thanh ngọc lập
Thiên
diệp lục vân ủy
Cao ý do dị vĩ.
Sơn tăng niên
cửu thập
Thanh
tịnh lão bất tử
Tự vân thủ
chúng thì
Nhất khỏa
thanh đồng tử.
Trực tùng manh
nhe bạt,
Cao tự hào mạt
thỉ
Tứ diên vô phụ
chi
Trung tâm hữu
thông lý.
Ký
ngôn lập thân giả
Công
trực đường như thử.
Và
đây là bản dịch của cụ Trần Trọng Kim.
Cứng cỏi một
cây đứng
Mây
xanh nghìn lá nở
Ngất nghểu năm
trượng thừa
Ý còn muốn cao
nữa
Sơn tăng chín
mươi tuổi
Thanh
tịnh già không chết
Nói
rằng thuở tay gieo
Một hạt đồng
xanh lét
Thẳng ở trong
mầm nhú
Cao từ lúc nhỏ
bé
Bốn mặt không
cần nương
Giữa ruột có
thông lý
Nhắn gửi người
lập thân
Cô
trực phải như thế.
Ý nói những người nào muốn thành tựu
sự nghiệp cũng phải một mình, đứng thẳng, vươn lên cao, cắm rễ,
mỗi ngày lớn lên như vậy.
Xin
đại chúng ngồi cho thoải mái, lưng cho thẳng. Con đang ngồi cho
mẹ, con biết là mẹ trong con và con biết rằng nếu con ngồi yên
thì mẹ cũng được ngồi yên. Có thể là mẹ chưa bao giờ có cơ hội
được ngồi yên vì mẹ suốt một đời bận rộn, lo cho cha, lo cho các
con, vậy hôm nay con ngồi yên cho mẹ. Con ngồi yên thì con có sự
buông thư, có sự tươi mát và khi con có sự buông thư, sự tươi
mát thì con mới có thể hiến dâng cho mẹ sự tươi mát của con, con
hiến dâng sự yên vui của con cho mẹ.
Con ngồi cho ba, con biết cuộc đời
của ba rất bận rộn và có thể ba chưa bao giờ có cơ hội được ngồi
một lần cho yên. Ở trên xóm Thượng có một cái thất gọi là thất
Ngồi Yên. Ngồi yên đem lại sự thoải mái, sự nghỉ ngơi, sự tươi
mát, sự vững chãi. Con đang ngồi cho ba, con đang ngồi để con có
sự vững chãi. Có sự vững chãi thì con dừng lại được, khi con dừng
lại được thì ba trong con cũng dừng lại được. Khi con dừng lại,
con có thể thấy được trời xanh, mây trắng, ánh sáng nhảy múa
trên những đọt tre. Khi con thấy được trời xanh, mây trắng và
ánh sáng đang nhảy múa trên những đọt tre thì ba cũng thấy được
trời xanh, mây trắng và ánh sáng nhảy múa trên những đọt tre.
Con đang ngồi cho thầy, có thể thầy
trong những năm vừa qua đã bận rộn lo việc chùa, lo việc giáo hội,
thầy cũng không có thì giờ, không có cơ hội để ngồi như thầy
mong muốn. Con có cơ hội được ngồi mỗi ngày nhiều lần, con ngồi
cho thầy. Nếu Sư bà bận rộn lo việc Phật sự quá nhiều, lo công
việc từ thiện, lo công việc của tăng thân quá nhiều mà không có
cơ hội ngồi thì con ngồi cho Sư bà vì Sư bà là thầy của con. Con
ngồi cho Sư ông, có thể là Sư ông bị công việc của giáo hội nó
kéo đi, trăm chuyện, ngàn chuyện và Sư ông không có cơ hội để ngồi
yên, tội nghiệp cho Sư ông, con ngồi cho Sư ông, tại vì con muốn
làm một đứa con có hiếu.
Cái
mà chúng ta có thể hiến tặng cho nhau là sự tươi mát, sự vững
chãi, là nụ cười, là tình thương. Khi chúng ta thương yêu thì
chúng ta muốn hiến tặng cho người chúng ta thương cái gì đẹp nhất,
quý nhất. Con thương mẹ nên con muốn tặng
cho mẹ sự tươi mát, thảnh thơi của con. Con thương bố cho nên
con muốn tặng cho bố sự tươi mát, thảnh thơi của con. Con thương
thầy cho nên con muốn tặng cho thầy sự tươi mát, vững chãi của
con. Con thương Sư bà nên con muốn hiến tặng sự vững chãi, thảnh
thơi, tươi mát của con cho Sư bà.
Chúng ta biết rằng bên này cũng như bên
kia, chúng ta có quá nhiều công việc. Xã hội này là một xã hội bận
rộn và rất ít người trong xã hội này có cơ hội ngồi yên để trở
thành tươi mát và vững chãi, Tất cả mọi người đều bận rộn: các
nhà chính trị bận rộn, các nhà thương gia bận rộn, các nhà giáo
bận rộn, các người cha bận rộn, các người mẹ bận rộn và những
người con bận rộn. Chúng ta không có thì giờ để thở, không có
thì giờ để ngồi yên, không có thì giờ để nhìn mặt nhau, để nhận
diện sự có mặt của người thương.
Trong
giờ cuối năm, chúng ta hãy ngồi cho yên để thấy sự có mặt những
người thương của chúng ta. Đây là sư anh, sư chị, sư em của mình,
đây là thầy của mình, đây là đệ tử của mình, mình nhận diện sự
có mặt của nhau. Đối phó lại với cuộc sống bận rộn, chúng ta phải
có một khả năng đối kháng.
Nếu chúng ta không đối kháng,
không kháng cự lại, chúng ta sẽ bị cuốn theo đà bận rộn của xã hội.
Mà bận rộn như vậy là chúng ta tự đánh mất mình,
mà đánh mất mình
thì chúng ta không còn gì quý báu để hiến tặng cho những
người thương của chúng ta. Chúng ta không
có thì giờ, không có sự thảnh thơi, không có sự tươi mát,
cho nên chúng ta phải kháng cự lại khuynh hướng bận rộn
và đánh mất mình. Chúng ta phải mở ra cho các thế hệ tương lai một
nền văn hóa mới, một nền văn minh mới trong đó con người không quá bận rộn.
Chúng
ta muốn thành đạt, chúng ta muốn thành công, chúng ta muốn xây dựng
một sự nghiệp và chúng ta nao nức để thực hiện những điều đó.
Nhưng chúng ta cũng biết rằng dầu chúng ta có thành đạt một cái
gì đi nữa thì chúng ta cũng vẫn chưa vừa lòng, chúng ta sẽ lập tức
mở ra một chương trình mới, một dự án mới. Chúng ta theo đuổi từ
dự án này tới dự án khác cho đến trọn đời. Chúng ta không bao giờ
có được một cuộc picnic nào trừ khi chúng ta nằm xuống, đi tới
chỗ an nghỉ cuối cùng ở nghĩa trang.
Cuối năm ngồi lại với
nhau, chúng ta buông bỏ hết, chúng ta hãy nhìn vào mặt nhau để
thấy rằng đây là thầy của mình, đây là sư đệ, sư huynh của mình,
đây là sư tỷ của mình, chúng ta là con một nhà.
Sự thực tập của chúng ta là chống lại khuynh hướng bận rộn,
đánh mất chính mình. Đánh mất chính mình thì không còn sự tươi
mát, vững chãi, thảnh thơi để mà hiến tặng cho nhau. Điều này rất
là quan trọng, đây là một chủ đề rất căn bản cho nền văn hóa hiện
tại.
Có
thể chúng ta có khả năng tiêu thụ nhiều nhưng chúng ta không có
hạnh phúc, tại vì chúng ta không có khả năng thương yêu và không
có cơ hội để tiếp nhận sự thương yêu. Người kia quá bận rộn, người
kia làm gì có thời giờ để thương yêu?
Thương yêu tức là nhìn nhận sự có mặt của người mình thương yêu,
nhưng người đó quá bận rộn, người đó
không có cơ hội để nhận diện được sự có mặt, trân quý sự có mặt
của người mình thương. Không nhận diện được chồng mình, vợ mình,
con mình, thầy mình, cha mẹ mình như vậy không phải là một nền
văn hóa mới, một nền văn minh mới.
Trong
một thiền viện, trong một trung tâm thực tập như là ở Làng Mai,
chúng ta bắt buộc phải đi từng bước thảnh thơi. Chúng ta bị bắt
buộc đối kháng lại với khuynh hướng chạy, khuynh hướng bận rộn.
Chúng tôi rất may mắn để được làm như vậy, chúng tôi tự nguyện
làm như vậy. Nhờ có uy nghi, có giới luật, có pháp môn chung cho
nên mọi người trong mỗi bước chân có thể dừng lại, có thể buông
thư, có thể thảnh thơi. Ở trong một trung tâm thực tập mọi người
có cơ hội để ngồi nhiều lần trong ngày và trong những lần ngồi
như vậy chúng ta có cơ hội chấm dứt được sự bận rộn. Ngồi, trước
hết là chấm dứt sự bận rộn; thở và mỉm cười đưa lại sự lắng dịu
của thân tâm.
Trong
thiền viện chúng ta có rất nhiều cơ hội và nhiều khí giới để đối
kháng lại với khuynh hướng tự đánh mất mình trong sự bận rộn.
Chúng ta phải làm, phải tìm cách để chia sẻ những phương pháp ở
trong thiền viện để giúp cho người đời cũng có thể làm được một
phần nào những cái mà chúng ta có thể làm được ở trong thiền viện,
ở trong trung tâm thực tập.
Năm
nay, tiết Tiểu hàn bắt đầu từ ngày 06 tháng giêng năm 2007. Tiểu
hàn tức là cái lạnh nhỏ và tiết Đại hàn bắt đầu từ ngày 20 tháng
giêng năm 2007. Ngày Lập xuân bắt đầu là ngày 17 tháng chạp ( tức
là ngày 04 tháng hai dương lịch), hôm nay đã là ngày 30 tháng chạp
và chúng ta đang ở vào trong tiết Lập xuân. Lập xuân có nghĩa là
bắt đầu của mùa xuân. Mùa đông còn đó nhưng đã bắt đầu rút lui,
mùa xuân chưa tới, chưa biểu hiện một cách rõ ràng nhưng mùa
xuân đã bắt đầu.
Khi chúng ta đọc bài Lệnh của Xuân
Diệu ở trong tác phẩm Xuân Diệu trường ca, lệnh này ban bố vào
tiết Lập xuân. Ban đầu có chúa Xuân ra lệnh cho mùa đông từ từ
rút lui để mùa xuân bắt đầu lớn dậy. Trong Xuân Diệu Trường Ca
có một bài thơ bằng văn xuôi tên là Lệnh Truyền và lệnh truyền
cho ai? Lệnh truyền cho tứ đại là đất, nước, lửa và gió để bốn vị
tướng tài đó bắt đầu hoạt động để đem mùa xuân trở về. Xuân Diệu
Trường Ca được sáng tác năm Xuân Diệu 28 tuổi. Chúng ta đang đón
xuân nên chúng ta đọc bài Lệnh Truyền của Xuân Diệu.
Trước khi các thầy, các sư cô đọc
bài thơ bằng văn xuôi Lệnh của Xuân Diệu, tôi muốn nói tới một
bài kệ của vua Trần Thái Tông. Vua Trần Thái Tông có sáng tác ra
43 công án thiền. Vua đã viết niêm và tụng cho những công án đó.
Công án tức là những đề tài của sự thiền tập mà Trần Thái Tông
đã thừa hưởng được từ Tông phái Lâm Tế. Người đem giáo lý phái
Lâm Tế cho vua là quốc sư Đại Đăng. Trần Thái Tông đã biết tu học
từ năm 20 tuổi, đã sáng tác những tác phẩm Phật học nổi tiếng,
trong đó có sách Khóa Hư. Trong sách Khóa Hư chúng ta thấy 43
công án mà vua Trần Thái Tông đã sáng tác và đã sử dụng như những
đề tài thiền quán.
Cách
đây ba mươi năm, tôi đã có cơ hội phiên dịch 43 công án này từ
chữ Hán ra tiếng Việt, nhưng chưa bao giờ có dịp đem ra in hết.
Có thể mai mốt mình đưa lên trang nhà của Làng Mai. Đây là công
án thứ mười sáu có liên hệ tới Lệnh của mùa xuân.
Tổ sư Lâm Tế của chúng ta có
phương pháp gọi là hét. Mỗi khi thấy một vị du tăng lấp
ló ngoài cửa muốn xin vào, cái chuyện đầu tiên ngài làm là hét.
Tiếng hét của thiền sư Lâm Tế giống như tiếng gầm của sư tử lớn,
giúp cho vị thiền giả chấm dứt được những suy tư, giúp cho vị
thiền giả có cơ hội mở ra một mùa xuân của trí tuệ, của giác ngộ.
Người ấy đang sống trong một mùa
đông lạnh giá kéo dài của u mê, của cố chấp, của hận thù, của
thành kiến và của tập khí. Người ấy nghĩ rằng mình có đường hướng,
có phương pháp, mình đang đi trên con đường chánh đạo, nhưng tiếng
hét của thiền sư Lâm Tế có nghĩa rằng anh đang đi trong một mùa
đông giá lạnh kéo dài, anh phải để cho mùa đông chấm dứt, để mùa
xuân của đạo lý, của giác ngộ, của chuyển hóa đi tới. Tiếng hét
đó ra lệnh cho mùa đông rút lui và ra lệnh cho mùa xuân bắt đầu.
Vua Trần Thái Tông đã diễn bày tiếng hét của thiền sư Lâm Tế là
tiếng Lệnh. Tiếng Lệnh ra lệnh cho mùa đông phải chấm dứt từ từ
và ra lệnh cho mùa xuân phải bắt đầu chớm dậy. Đây là nguyên văn
của bài kệ:
Nhập môn tiện
hát dục hà hành
Dẫn đắc nhi
tôn túy lúy tinh
Bất thị xuân
lôi thanh nhất chấn
Tranh
giao hàm giáp tận khai manh
Thiền sư Lâm Tế khi bắt đầu ra giảng
dạy đã sử dụng cây gậy và tiếng hét. Hễ khi có một vị du tăng đi
vào cửa thì lập tức hét lớn.
Vừa tới cửa
ngoài nghe tiếng hét
Tỉnh giấc hôn
trầm lũ cháu con
Một tiếng sấm
xuân vừa chấn động
Khắp nơi cây cối
nẩy mầm non
Đó
là cách vua Trần Thái Tông diễn tả tiếng hét của thiền sư Lâm Tế.
Đó là tiếng sấm xuân, ra lệnh cho tất cả cây cối phải bắt đầu
chuẩn bị để đâm chồi, nẩy lộc. Hôm nay mình đọc bài Lệnh trong
Trường Ca Xuân Diệu là để thấy Lệnh đó được ban ra như thế nào
và ban ra cho ai?
Xin
mời quý vị nghe Xuân Diệu Trường Ca, bài thơ Lệnh viết bằng văn
xuôi do Xuân Diệu sáng tác, lúc thi sĩ mới 28 tuổi.

Xuân Diệu (1916-1985)
Tên thật
là Ngô Xuân Diệu, sinh ngày 2 tháng 2 năm 1916 tại Tuy Phước,
tỉnh Bình Định. Cha là Ngô Xuân Thọ
và mẹ là Nguyễn Thị Hiệp.
Xuân Diệu sau ra Hà Nội học, 1938-1940 ông và Huy Cận ở
gác 40 Hàng Than. Ông tốt nghiệp kỹ sư canh nông năm 1943.
Ông mất ngày 18 tháng 12 năm 1985.
Xuân Diệu viết nhiều, có khoảng 450 bài thơ. Một số lớn
chưa được xuất bản. Tác phẩm tiêu biểu: các tập thơ Thơ
thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945), Ngọn
quốc kỳ (1945), Một khối hồng (1964), Thanh
ca (1982), Tuyển tập Xuân Diệu (1983); truyện
ngắn Phấn thông vàng (1939); và nhiều bút ký, tiểu
luận, phê bình văn học.
Xuân Diệu là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của
phong trào Thơ mới. Ông mang ngọn gió rạo rực, thiết tha,
nồng cháy, khao khát yêu thương đến cho thi ca. Thơ Xuân
Diệu ca ngợi tình yêu bằng muôn sắc điệu, âm thanh và
hương vị trong Thơ thơ, pha lẫn chút vị đắng cay
trong Gửi hương cho gió. Nhiều câu nhiều bài
chịu ảnh hưởng từ thi ca lãng mạn Pháp.
|
Lệnh truyền
Xuân
Diệu
Lệnh đã truyền
ra,
đất vâng trước
nhất.
Suốt một đêm
trường
đất không sao
ngủ được.
Cả mình sấm
chuyển
cái
ngực của đất phồng lên không muốn ngủ.
Mà
ngủ làm chi
Đất cựa mình
vì xốn xang trong da thịt
Lệnh đã truyền.
ngày
mai đây
tháng
sau đây
biết có xong
công trình hay chăng?
Thật tấm lòng
của đất dạt dào
tính
toán ngay từ phút đông vừa bớt lạnh
Đất mẹ đã nghe
muôn con đòi nở
muốn vượt chồi
lên trên đất, thở ánh sáng trời
Hàng
triệu mầm hé ra khép vào
đầu hướng lên,
chân mạch căng thẳng
ngửa cả mình đất
Vi
trùng sáng tạo lên men dưới da
từ đáy sâu đưa
lên bao sức lực để đỡ nâng
Đất mẹ sung sướng
đất mẹ lo âu
đất mẹ nằm
sinh và làm việc
mẹ bao la chạy
chia nghìn ngả
này
núi này rừng này đồng này ruộng
lại còn linh
tinh muôn vạn núi đồi nữa
làm
sao đủ sữa căng lên
Lệnh
đã truyền
đất lãnh lấy
công đầu.
đất nghìn năm
đất triệu năm
đậm đà chắc chắn
càng
già càng dai
Máu
cũ biến mới
sục sục quang
tuyến
mạch chạy đầm
đìa
máu
đen kế máu đỏ,
nhựa nâu đến
ngã ba cùng với nhựa xanh.
Những con đường
xéo lẫn nhau
chở chất chua
chất ngọt chất mát chất nồng
theo
rễ muôn cây lên cho mặt trời hòa hợp
Trên
mặt đất vẫn chưa lộ gì cả
nhưng
dưới nhà hầm biết bao là vội vàng
Thì
giờ trễ rồi
thời gian tính
từng phút một
ngón
tay nghiêm nghị không bao giờ đếm nhầm
cho
nên đất mẹ làm việc không nghỉ
Không
lẽ năm nay lại trễ hơn mọi năm?
Ánh
sáng vâng lệnh thứ hai
có
cô em sức nóng đi kèm
nàng
tiên quyền cao phép cả
chẳng ai dám
đương
khi hứng thú nồng
nàn ánh sáng lấn áp cả không gian
ôm
chầm vũ trụ, đè bẹp bóng tối dưới triệu móng chân
mi của ánh
sáng thật dài,
tia của ánh
sáng thật đượm
ánh
sáng bắn tin truyền hịch đưa lệnh khắp hang cùng núi hẻm
bảo rằng sắp sửa
tin vui
Ánh
sáng nhún nhảy tươi cười không chút lo lắng
tài
lực của nàng nhiệm mầu nhanh chóng
nàng
có thể giấu mình suốt tháng vờ như không hay gì cả
nhưng
mánh khóe tinh anh sao
nàng
làm việc ngấm ngầm
chỉ một ngày một
sáng mai nàng đến
là cả bầu
không đã treo ngọc giăng tơ
cả mặt đất đã
trải vóc gấm thêu thùa trong gió lăng líu qua cây.
Ánh
sáng đứng một chỗ
mà
ở khắp nơi con mắt điện quang thấu suốt muôn trùng
trông
nom từng nụ mầm non từng vọt sâu bọ
nàng
ôm những thân cây giá lạnh,
sưởi những luống
đất ẩm hiu
Nàng
lách vào những kẽ lá
cho
màu xanh non biến thành màu lục đậm
cho
nên những cội tùng già yếu
nàng
cũng gõ mãi ngoài vỏ
đến nỗi một
ngày kia bật ra mầm xanh
và
ánh sáng ngồi kéo muôn triệu chỉ vàng
tiếp theo muôn
triệu chỉ vàng cuộn tròn vào bánh xe hay mắc ngang khung cửi,
giấu diếm khắp
nơi để đến lúc cần dùng sợi ngày vàng sẽ lộ ra chi chít.
Nước nhận lấy
phần
nước đi theo
ánh sáng
làm
thành cặp uyên ương kỳ dị
rẽ nhau một lần
là đồng khô cỏ cháy
Nước mát êm
cho nắng tựa vào
nước cũng chảy
chia nghìn ngã
chạy vào làm
máu cho đất
chạy ra làm lời
cho suối
độn thổ đằng
vân.
Ánh
sáng loảng xoảng trong mình
âm
điệu róc rách giữa lòng
nước lấy ôn
nhu vỗ về nuôi nấng
cho muôn vật
phát sinh
mà cái liếc
mắt đưa dài nghìn lý
Nàng chen vào
búp hoa này lẫn vào nhánh cây kia
trái uống nàng
vào bụng,
mây giữ nàng
trong mình
nụ hút nàng
vào tim
cây kiếm nàng
làm nhựa
ôi nước ngọt
ngào mát mẻ thảnh thơi
Không ai tranh
nên về phần
gió.
phải xem dáng
điệu nàng thu gọn
mới biết nàng
khéo dấu sức phá hoại của mình
chỉ còn là một
làn phớt qua
áo
nàng tha thiết phiêu phiêu
hồn nàng phất
trần
Nàng
lên tinh tú gió bay gió lượn
gió
phất phơ như hơi thở ân tình
gió
đưa duyên bướm
gió
làm mối lái cho hoa
gió
múa điệu lẳng lơ
nói
lời cợt ghẹo
vạn vật nghe
gió mà rợn tình.
Gió
phẩy móng tay búng muôn đầu lá
gió
rào rào rúng động ngàn cây
âm
nhạc theo nàng mà vào không gian
nàng
là những sợi dây sắt cầm lượn bay
Không
khí tự xoay vang tiếng tơ đồng
miền xa lại gần
gió mới tỏ tình
hương
đà theo hút
gió
có cần vội vã đâu
chỉ thoáng lên
xe đi thúc giục các chồi các nụ
đến hôm ấy gió
chỉ việc dịu dàng bay chơi
là cuốn theo
muôn lòng đắm say.
Lệnh được vâng
tất cả đều làm
việc
tất cả giao
hòa giúp sức lẫn nhau.
tất cả cũng đều
một niềm yêu thương quảng đại
tất cả cùng đồng
một ý trau chuốt điểm trang.
Ngày
ấy Lệnh đốt tiếng pháo đầu
muôn
tiên đã núp sau màn
chim
chóc cũng lên đầy cổ họng
mặt trời xé
màn sương mỏng
xé
màn mơ mộng còn ủ ấp non sông
nhạc vang reo
hương nồng tỏa.
Công
chúa Xuân nương hiện hình
sương
đeo một triệu hoa tai cho nàng
nàng
cười một nghìn điệu hoa
nàng
mặc chín triệu lá non
má
nàng điểm đôi chút sương hồng
tóc
nàng gió xuân lỏa tỏa
muôn
lời của vũ trụ
đồng tấm tắc
khen nàng công chúa con chung.
Xuân
nương! Xuân nương! hội mừng nàng
hội của nàng sẽ
lâu chín mươi ngày
góp
thêm chín mươi đêm vui suốt sáng
Nàng
ra đời nàng lại về
nàng
không mỏi tái sinh
trời ơi Xuân
Nương cười
trông
thấy công chúa phụ hoàng đôi mắt sáng ngời
đáp
lại bằng nụ cười thái dương
âm
nhạc khởi lên chín mươi ngày đêm
bắt đầu bằng một
buổi sớm.
Xuân Diệu sinh năm 1917 và Xuân
Diệu Trường Ca được xuất bản năm 1945, năm thi sĩ 28 tuổi.

Vũ Hoàng Chương
(1916-1976)
Sinh
ngày 5 tháng 5 năm 1916, sinh quán tại thành phố Nam Định,
chính quán tại xã Phù Ủng, tỉnh Hưng Yên ( Bắc Việt). Đã
được dạy Kinh thư bằng chữ Nho và Quốc Sử Diễn ca bằng chữ
Nôm trước khi đến trường học Quốc ngữ và sinh ngữ Tây
phương khác.
Năm 1939, Vũ Hoàng Chương thôi học, ra làm phó kiểm soát Hỏa
xa Đông dương.
Hoạt động Văn chương từ năm 1940, in thơ viết kịch v..v….
Năm 1940, Vũ Hoàng Chương cho ra thi phẩm đầu tay là tập
Thơ Say do nhà in Cộng Lực ấn hành.
Năm 1941, thôi làm sở Hỏa xa và tiếp tục học theo ban Đại
học Khoa học.
Năm 1942, lại nghỉ học, Vũ Hoàng Chương xuống Hải Phòng dạy
học. Và trong thời gian này thành lập ban kịch Hà Nội cùng
với Nguyễn Bính và Chu Ngọc.
Vân Muội là vỡ kịch đầu tiên của Vũ Hoàng Chương được
trình diễn tại Nhà Hát Lớn Hà Nội đêm 12.12.1942.
Đến năm 1943, cho in thi phẩm thứ hai, tên là Thơ Mây.
Năm 1944, xuất bản kịch thơ Trương Chi, gồm 3 kịch thơ ngắn
là Trương Chi, Vân Muội, Hồng Điệp.
Năm 1945, giai đoạn chiến tranh chống Pháp, Vũ Hoàng
Chương tản cư về dạy học ở Thái Bình. Mặc dù chiến trang
đang hồi ác liệt nhưng nhà thơ vẫn sáng tác và cho ra đời
tập Thơ Lửa cùng viết với nhà thơ đồng quê Đoàn văn Cừ xuất
bản năm 1947.
Năm 1950, chiến tranh tạm lắng dịu, ông hồi cư về Nam Định
dạy học và tiếp tục sáng tác thơ như vỡ kịch thơ Tâm sự kẻ
sang Tần (1951), Thằng Cuội (1952).
Tác phẩm đầu tiên của nhà thơ họ Vũ tại miền Nam là Rừng
Phong được chào đời vào năm 1954, Hoa Đăng (1959).
Năm 1961, ngoài việc sáng tác, ông còn cộng tác với nhiều
tạp chí văn học ở thủ đô như Phổ thông, Bút hoa, Nguyệt
san Đại từ bi, v …v…
Tập Lửa Từ Bi do Thanh Tăng xuất bản năm 1963. Ánh Trăng Đạo
Lý (1966) do Sàigòn Tuyên úy Phật giáo xuất bản. Bút Nở
Hoa Đàm (thơ, Vạn Hạnh xuất bản năm 1967).
Năm 1974, Tết Giáp Dần, thi nhân có bài Thúy Vũ Đoản Từ.
Thơ Xuân cuối cùng của Vũ Hoàng Chương là bài Vịnh Tranh
Gà Lợn (Tết Bính Thìn 1976). Sau đó nhà thơ bị bắt, giam ở
ngục Chí Hòa, bị bịnh nặng đưa về nhà mấy hôm thì mất,
ngày 6.9.1976 nhằm ngày 13 tháng 8 năm Bính Thìn, lúc 23
giờ. |
Vũ Hoàng Chương sinh trước Xuân
Diệu một năm, vào năm 1916. Năm 24 tuổi thì xuất bản thơ Say,
năm 38 tuổi làm bài ca Siêu Thoát và trước đó hai năm, tức năm
1952 làm được bài Thoát Hình, mà chúng ta sẽ được nghe bình thơ.
Bài Thoát Hình cũng nói về mùa xuân nhưng mà đi sâu hơn Xuân
Diệu, bài Thoát Hình cho ta thấy được nghiệp sinh diệt và sự
liên hệ giữa nhân và quả.
Rào
rạt trong cây nhựa trắng ngần
Đã
nghe dồn cả tới đài xuân
Đã
nghe rào rạt từng cơn gió
Về mách tin
hương với cõi trần
Vườn đây rừng
đấy cùng xao xuyến
Này
phút hồn hoa sắp hiện thân
Nụ đã trên
cành đau đớn cựa
Giờ thiêng hấp
hối đã nghe gần.
Trong
bài Thoát Hình, Vũ Hoàng Chương nói tới sự xuất hiện, sự biểu hiện,
giờ phút sinh ra của một bông hoa. Phát hiện sự sinh nở của bông
hoa kèm theo những khổ đau, những lo lắng, những cái chết, những
gì đưa tới cho bông hoa ấy. Trong những câu đầu mình cũng thấy
là lệnh đã đưa ra và nhựa trong cây bắt đầu dồn tới để đem lại
mùa xuân, làm cho đóa hoa mùa xuân nở.
Rào
rạt trong cây nhựa trắng ngần
Nhựa trong cây bắt đầu rào rạt, bắt đầu
chảy mạnh vì lệnh đã ban truyền.
Rào
rạt trong cây nhựa trắng ngần
Đã
nghe dồn cả tới đài xuân
Có thì giờ, có hai lỗ tai, có chánh niệm, mình có thể
nghe được sức sống lưu chuyển trong vũ trụ, trong lòng đất,
trong thân cây để đưa tới một mùa xuân, tới sự thoát hình của một
bông hoa, sự có mặt của một bông hoa.
Rào
rạt trong cây nhựa trắng ngần
Đã
nghe dồn cả tới đài xuân
Đã
nghe rào rạt từng cơn gió
Về mách tin
hương với cõi trần
Ở
đây mình cũng thấy lại hình ảnh của tứ đại: đất, nước, gió, lửa.
Đã
nghe rào rạt từng cơn gió
Về mách tin
hương với cõi trần
Có
nghĩa là lệnh truyền ra, mình tiếp nhận được lệnh, mình truyền lại
cho tất cả mọi người. Cũng như khi sư anh trụ trì nhận được lệnh
phải có một khóa tu tháng sáu, sư anh mới truyền lệnh lại cho tất
cả các sư em, để chuẩn bị cho khóa tu tháng sáu thành công, khóa
tu tháng sáu là một đóa hoa. Muốn có khóa tu tháng sáu, nhựa
phải lưu chuyển trong hình hài của tăng thân lâu ngày, mình mới
có được khóa tu tháng sáu. Tin hương là một tin rất thơm, tin
nói rằng sẽ có một bông hoa nở, bông hoa đó là mùa xuân.
Bây
giờ chúng ta đọc báo chỉ nghe những tin không thơm lắm, mỗi ngày
bao nhiêu người chết, bao nhiêu trái bom nổ. Những tin đó không
phải làn tin thơm. Nhưng tin mùa xuân đang về là một tin thơm vì
mùa xuân về nó đưa lại cho chúng ta biết bao nhiêu là nụ hoa kỳ
diệu.
Vườn đây rừng
đấy cùng xao xuyến
Này
phút hồn hoa sắp hiện thân
Nụ đã trên
cành đau đớn cựa
Giờ thiêng hấp
hối đã nghe gần.
Giây
phút của sự sinh nở không phải là một giây phút tầm thường, nó
bao gồm cả sự đau đớn. Khi sắp sanh mình, mẹ đau đớn lắm và
khi trái đất sắp hạ sinh mùa xuân, trái đất cũng đau đớn lắm. Có
một cái gì giống như cái chết xảy ra trong khi chuẩn bị cho cái
sống thành hình. Vũ Hoàng Chương hồi đó chưa nghiên cứu Phật
giáo sâu sắc, nhưng đã có một linh tính, một tuệ giác. Vũ Hoàng
Chương thấy được cái sống dựa vào cái chết, nếu không có cái chết
thì không có cái sống.
Khi một hạt cây nứt ra để cho mầm
cây trở thành ra một cây con thì đó là cái chết của hạt cây. Ở
trong Thánh kinh có nói là nếu hạt không chết thì làm sao mầm
sinh ra được và Vũ Hoàng Chương thấy được điều đó. Vì vậy khi sinh mình, mẹ cũng có chết ở trong lòng một ít; khi trái đất
sinh ra mùa xuân, trái đất cũng chết trong mình một ít; khi thầy
sinh ra mình, thầy cũng chết trong lòng một ít. Cái chết đó
không phải là cái chết, mà là tất cả sức sống của mẹ trao truyền
cho thai nhi, cho đứa con.
Đất mẹ truyền tất cả sức sống cho
mùa xuân và khi thầy sinh ra mình, thầy cũng truyền sức sống của
thầy vào trong mình. Đó cũng là một hình thái chết, nhưng cái chết
này không phải là một cái chết đau buồn, mà là một cái chết rất
đẹp. Chúng ta phải học chết như vậy để sự sống càng ngày càng
đẹp hơn.
Vườn đây rừng
đấy cùng xao xuyến
Cả rừng, cả vườn nhận được lệnh đều
xao xuyến hết vì máu chảy trong huyết quản, nhựa chảy trong lòng
cây.
Vườn đây, rừng
đấy cùng xao xuyến
Là tại vì sao?
Này phút hồn
hoa sắp hiện thân
Đã tới giây phút mà bông hoa của mùa xuân
nở.
Nụ đã trên cành
đau đớn cựa
Có sự đau đớn của sự sinh nở.
Nụ đã trên cành đau đớn cựa
Giờ thiêng hấp hối đã nghe gần.
Cái
chết nó đưa thành sự sống, cái sống không có thể nào có được nếu
không có sự chết. Cái chết này không phải là sự chết mà nó là sự
tiếp nối của sự sống và sự sống này không phải là sự sống mà là
sự tiếp nối của sự chết. Sống và chết là tương tức không có thể
nào lấy ra khỏi nhau được.
Vườn đây rừng
đấy cùng xao xuyến
Này
phút hồn hoa sắp hiện thân
Nụ đã trên
cành đau đớn cựa
Giờ thiêng hấp
hối đã nghe gần.
Muôn vạn tế
bào đang hủy thể
Hủy thể tức là đang chết và chết
như vậy để làm cho sự sống có thể xảy ra được. Trong hình hài của
mình cũng vậy, mỗi giây phút có hàng ngàn tế bào hủy thể và nếu
những tế bào trong mình không hủy thể thì không thể nào sinh ra
những tế bào mới. Khi nhìn vào lớp da ngoài của hình hài, mình
biết rằng lớp da ngoài gồm có những tế bào khô, những tế bào chết
và mỗi khi mình gãi có hàng ngàn tế bào chết rơi xuống và nếu những
tế bào đó không chết thì làm sao có những tế bào mới sinh ra?
Cái chết và cái sống tương tức. Nhìn thấy cái chết dưới ánh sáng
của tương tức thì mình không còn đau buồn nữa.
Muôn
vạn tế bào đang hủy thể
Vâng
theo ý lớn nhịp xoay vần
Ý lớn ở đây tức là nguyên lý của
vũ trụ: có sinh thì có diệt, cái diệt làm bằng cái sinh, cái
sinh làm bằng cái diệt. Ý lớn là ý trời, ý trời ở đây tức là ý của
thiên nhiên, ý của sự sống và phá hủy là để thành tựu chứ không
phải phá hủy, chỉ để phá hủy. Chính vì phải thành tựu cho nên phải
có sự hủy thể.
Phá cho thành đấy, sinh là diệt.
Mình
thấy rằng nhà thi sĩ ba mươi sáu tuổi đã thấy được tính tương tức
của sinh và diệt.
Mười một năm sau, Vũ Hoàng Chương
làm bài Lửa Từ Bi, nhưng Lửa Từ Bi là một đóa hoa sinh trên cái
xác của bài Thoát Hình. Bài Thoát Hình là một bước và Lửa từ bi
là một bước khác nữa. Nếu không có bài Thoát Hình thì sẽ không
có bài Lửa từ bi. Càng ngày Vũ Hoàng Chương càng trở nên một thi
sĩ có tuệ giác Phật giáo.
Muôn vạn tế bào đang hủy thể
Không phải
là một cái gì đau buồn, đây là chuẩn bị cho sự sinh nở, cho sự sống.
Muôn
vạn tế bào đang hủy thể.
Vâng
theo ý lớn nhịp xoay vần.
Ý lớn nhịp xoay vần, đó là sự vận
hành của vũ trụ (the functioning of the cosmos).
Phá
cho thành đấy sinh là diệt
Đời quả lên từ
mỗi xác nhân
Cái
nhân nó sung sức, nhưng khi sinh ra quả tự nó trở thành một cái
xác, gọi là xác nhân. Khi hạt giống nứt mầm để cho ra một cây mới
thì hạt giống đó chết. Chết nhưng không
phải là chết, nó chỉ thoát hình.
Muôn
vạn tế bào đang hủy thể
Vâng
theo ý lớn nhịp xoay vần
Phá
cho thành đấy sinh là diệt
Đời quá lên từ
mỗi xác nhân
Cái
xác này thật ra không phải là một cái xác, nó chẳng qua chỉ là một
cái da mà mình lột ra, như con rắn lột da. Khi hạt cây biến
thành mầm non, thật sự không là cái chết. Mình gọi là xác nhân,
nhưng kỳ thực nó là mầm quả, cái xác nhân trở thành cái mầm quả.
Kìa mảnh da
ngà đang nứt rạn
Cho tròn một
kiếp chẳng phân vân
Mảnh da này là một mảnh da của
thân cây, phải nứt ra một cái thì mới có thể nẩy ra một cái mầm
được. Lệnh đã truyền thì thế nào nhựa cây phải lưu chuyển cho
mạnh và sự hoạt động đó, sức mạnh đó, năng lượng đó sẽ làm cho
vỏ cây nứt ra. Và hễ có sự nứt ra là có sự đau đớn.
Kìa mảnh da
ngà đang nứt rạn
Cho tròn một
kiếp chẳng phân vân
Lòng cây mấy
thuở ai người biết
Từng khóc,
từng reo đã mấy lần?
Người nào đã từng làm cha mẹ, từng
làm thầy, từng làm sư chị, sư anh mới thấy điều đó. Đây là lòng
của người mẹ, lòng của đất mẹ đã khóc, đã cười, đã reo vì đứa
con mà mình đang thai nghén, đứa con mà mình sắp cho ra đời. Bốn
câu này là nói về lòng cây, lòng cây đây tức là lòng mẹ, lòng
đất đang chuẩn bị để đưa ra một mùa xuân.
Kìa mảnh da ngà đang nứt rạn.
Cho tròn một kiếp chẳng phân vân
Lòng cây mấy thuở ai
người biết
Có ai biết cho không, có ai biết
cho niềm đau, những tiếng khóc và tiếng reo trong lòng của bà
mẹ, trong lòng của người cha, trong lòng của trái đất.
Lòng cây mấy
thuở ai người biết
Từng khóc,
từng reo đã mấy lần
Càng
ngày sự giục giã nó càng lớn và nhựa càng lưu chuyển mạnh.
Nhựa ứ càng
cao niềm giục giã
Đất trời mong
mõi nức hương lân.
Cả trời, cả đất đang chờ đợi giây
phút mầu nhiệm, đó là bông hoa hé nở, tỏa hương thơm ngát của
đất trời, tức là mùa xuân.
Đất
trời mong mỏi nức hương lân
Nức tức là thơm ngát, hương lân tức là mùi thơm trong cả một
vùng. Chữ hương lân ở đây mình dịch như thế nào cho hay? Lân
dịch là neighbouring, hương tức là fragrance.
Cánh hoa sắp
hé phô kiều diễm
Nụ thoát hình
trong phút nhập thần
Giây phút sinh nở là giây phút rất
trọng đại, cần phải có sự tập trung rất lớn.
Cánh hoa sắp hé phô
kiều diễm
Nụ
thoát hình trong phút nhập thần
Ôi đã
then sương cài lỏng lẻo
Buồng
thơm rạo rực ý thanh tân.
Then ở đây tức là cái then cửa và
bây giờ nó lỏng lẻo ra rồi và có thể mở cửa cho mùa xuân thoát
hình, một cách rất dễ dàng. Có một sự trông chờ, có một sự chờ
đợi. Tất cả đều đã chuẩn bị, bây giờ mình chỉ cần đưa ngón tay
rút cái then cửa, mở cửa ra là mùa xuân tới.
Có ai tha thiết ngoài mây nước
Chờ lối đào nguyên tự mở dần
Ngày xưa có Lưu Thần và Nguyễn
Triệu đi thơ thẩn ở Đào nguyên và tự nhiên cánh cửa Đào nguyên
mở ra, có những nàng tiên xuất hiện và hai anh chàng được đi vào
cõi Tiên. Bây giờ mình đang chờ như vậy, đất trời đã sẵn sàng và
chúng ta đang tha thiết ở ngoài mây nước, để cửa động Đào Nguyên
bắt đầu mở ra cho chúng ta đi vào mùa xuân.
Hồi đó chiến tranh đã bắt đầu khốc
liệt ở miền Bắc và cái chết đã xảy ra. Có bạo động, có hận thù,
có chiến tranh, có hư hỏng, có tuyệt vọng, nhưng thi sĩ đã tìm
cách giữ cho lòng mình an tĩnh. Trong một hoàn cảnh biến động,
khổ đau phát hiện đầy dẫy, tham đắm, giận hờn, hận thù tràn lan,
nếu mình không có tu tập, nếu mình không có giữ lấy thân mình,
mình cũng sẽ bị cuốn theo tất cả những cái đó. Cho nên nhà thơ
cũng thấy được như người tu, là phải làm thế nào để trong đêm
ba mươi mình tiếp xúc được với tấm lòng trong trắng nguyên vẹn
của mình.
Hồi đó Vũ Hoàng Chương chưa biết
danh từ Bồ đề tâm, chỉ cho trái tim trong sáng, cho Phật tánh
của mình và thi sĩ đã dùng danh từ trang lòng. Trang lòng này là
trang lòng còn nguyên vẹn, chưa bị hoen ố bởi hận thù, bởi tuyệt
vọng, bởi sự tranh chấp. Nếu mình sống sót được là nhờ mình còn
giữ được sự nguyên vẹn đó trong trái tim. Đêm ba mươi ngồi im
lại để tìm cách tiếp xúc được với cái tâm trong trắng đó của
mình, để đừng đánh mất mình trong tuyệt vọng, trong hận thù.
Ta mở trang
lòng nguyên vẹn mãi
Tin rằng mình vẫn có một trang
lòng nguyên vẹn. Cũng như người tu chúng ta tin rằng chúng ta có
Phật tánh, chúng ta có Bồ đề tâm, chúng ta luôn luôn có thể trở
về nương tựa nơi Phật tánh đó, nơi Bồ đề tâm đó để chúng ta đừng
bị cuốn đi theo những tuyệt vọng, những khổ đau của xã hội ngày
hôm nay.
Ta mở trang
lòng nguyên vẹn mãi
Chưa từng hoen
ố vết trầm luân
Đó là niềm tin mà mình cần phải có, dù thế giới có tan tành thì
nụ cười, bông hoa cũng không bao giờ tan biến. Mình phải tin vào
Phật tánh nơi mình, vào thiên lương nơi mình, vào tâm bồ đề nơi
mình. Đó là chỗ mình trú ẩn, là cái pháo đài để mình không đánh
mất mình. Thi sĩ đã nói lên được điều đó, không bằng ngôn từ
Phật giáo, mà bằng ngôn từ của riêng ông ta.
Ta mở trang
lòng nguyên vẹn mãi
Chưa từng hoen
ố vết trầm luân
Đây là một lời cầu nguyện để kết
thúc bài thơ.
Đêm nay xuống
một bài thơ trắng
Một bài thơ trinh nguyên như là
một người cầu cơ, như là một người ngồi thiền, mở trái tim ra để
cho Phật tánh bừng nở. Cũng như người cầu cơ để cho Đức Thế Tôn,
để cho Thượng đế, để cho tinh hoa của vũ trụ giáng xuống dưới
hình thức một bài thơ mới, một bài thơ có khả năng làm mới lại
cuộc đời mình.
Đêm nay xuống
một bài thơ trắng
Cầu nguyện cho
đời nở ái ân
Hai câu chót là một lời cầu
nguyện. Cầu nguyện bằng cái gì?
Bằng trái tim của chúng ta. Nếu
trái tim của chúng ta đầy dẫy những tuyệt vọng, đau buồn và hận
thù làm sao chúng ta cầu nguyện được? Chúng ta phải có một cái
gì đó mới có thể tiếp xúc được với tinh hoa của vũ trụ, với Trời,
với Phật. Vì vậy phải mở trang lòng nguyên vẹn ra, đây là tâm
Bồ
đề của mình, đây là Thiên lương của mình.
Đêm nay xuống
một bài thơ trắng
Phải ngồi yên, ngồi rất yên, phải
trải tấm lòng thanh tịnh của mình ra. Không thù hận, không tuyệt
vọng thì may ra mới có một bài thơ trắng, một bài thơ trinh nguyên
giáng xuống. Như người cầu cơ, phải rất thanh tịnh,
phải rất chí thành thì niềm tin, sự giác ngộ, phương thuốc
trị liệu mới có thể đi vào trong trái tim của mình. Cho
nên trong thời gian chiến tranh, thi sĩ ngồi thật yên lặng, đem
tâm trong sáng của mình ra để chờ đợi phút linh cầu cho cái đó
giáng về.
Đêm nay xuống
một bài thơ trắng
Cầu nguyện cho
đời nở ái ân
Trong cuộc đời chỉ có hận thù, bạo
động và tuyệt vọng. Cuộc đời cần có sự thương yêu, cho nên lời
cầu nguyện duy nhất của thi sĩ trong đêm ba mươi, không phải là
làm ăn phát tài bằng năm bằng mười năm ngoái, đầu năm sinh con
trai cuối năm sinh con gái, mà cầu nguyện cho tình thương giáng
sinh trong trái tim của mình và trong trái tim của con người.
Bài thơ này cũng là một bài thơ đạo.
Ta mở trang
lòng nguyên vẹn mãi
Chưa từng hoen
ố vết trầm luân
Đêm nay xuống
một bài thơ trắng
Cầu nguyện cho
đời nở ái ân
Ái đây tức là bác ái, là từ bi, là
lòng thương của Bụt, của Chúa. Ân đây tức là ân nghĩa, ân tình
của con người đối với nhau. Chữ ái ân đây thực sự có nghĩa là
tình thương, là lòng từ bi. Có gì đẹp hơn khi mình cầu nguyện
cho tình thương, cho lòng từ bi giáng sinh trong trái tim của
mình. Nhạc sĩ Phạm Duy cũng có đặt một bài nhạc với tựa đề Khi
Tình Yêu Giáng Sinh. Làm thế nào để tình yêu giáng sinh?
Phải có sự trầm tĩnh, phải có sự lắng đọng, phải đem
trang lòng nguyên vẹn của mình ra, mình mới cầu cho tình yêu
giáng sinh được.
Ôi đã then
sương cài lỏng lẻo
Buồng thơm rạo
rực ý thanh tân
Có ai tha
thiết ngoài mây nước
Chờ lối đào
nguyên tự mở dần
Ta mở trang
lòng nguyên vẹn mãi
Chưa từng hoen
ố vết trầm luân
Đêm nay xuống
một bài thơ trắng
Cầu nguyện cho
đời nở ái ân
Xin chúc quý thầy, quý sư cô, quý
Phật tử bên nhà một năm mới nhiều hạnh phúc và nhất là có nhiều
thì giờ để ngồi chơi, để có thể thấy được mặt nhau, đừng có bận
rộn quá dầu là bận rộn chuẩn bị cho Sư ông về cũng vậy.
Ở bên này, phái đoàn Làng Mai sắp
sửa đi về Việt Nam cũng bận rộn lắm nhưng thầy bắt phải ngồi,
phải cười, phải thở, phải đi từng bước thong thả. Tại vì nếu về
Việt Nam mà không có sự tươi mát thì đâu có gì để hiến tặng cho
các thầy, các sư cô với các Phật tử bên nhà. Xin đọc lại bài
Thoát Hình của Vũ Hoàng Chương trước khi chấm dứt bài bình thơ
này.
Nhất Hạnh
16.02.2007,
Làng Mai - Pháp quốc
------------------------------------
Thoát
hình
Vũ Hoàng Chương
Rào rạt trong
cây nhựa trắng ngần
Đã nghe dồn cả
tới đài xuân
Đã nghe rào
rạt từng cơn gió
Về mách tin
hương với cõi trần
Vườn đây rừng
đấy cùng xao xuyến
Này phút hồn
hoa sắp hiện thân
Nụ đã trên
cành đau đớn cựa
Giờ thiêng hấp
hối đã nghe gần.
Muôn vạn tế
bào đang hủy thể
Vâng theo ý
lớn nhịp xoay vần
Phá cho thành
đấy sinh là diệt
Đời quá lên từ
mỗi xác nhân
Kìa mảnh da
ngà đang nứt rạn
Cho tròn một
kiếp chẳng phân vân
Lòng cây mấy
thuở ai người biết
Từng khóc từng
reo đã mấy lần
Nhựa ứ càng
cao niềm giục giã
Đất trời mong
mỏi nức hương lân.
Cánh hoa sắp
hé phô kiều diễm
Nụ thoát hình
trong phút nhập thần.
Ôi đã then
sương cài lỏng lẻo
Buồng thơm rạo
rực ý thanh tân
Có ai tha
thiết ngoài mây nước
Chờ lối đào
nguyên tự mở dần
Ta mở trang
lòng nguyên vẹn mãi
Chưa từng hoen
ố vết trầm luân
Đêm nay xuống
một bài thơ trắng
Cầu nguyện cho
đời nở ái ân./.
|